Chúa Nhật

Ngày 17/4: Thánh Anicetus (khoảng 100-166)

Được cho rằng là một binh sĩ can đảm, một triết gia và giáo hoàng.

Truyện tụng gán cho ngài việc khởi sự làm cái khoáy tṛn trên đầu

như dấu hiệu từ bỏ những sự dính bén thế gian.

 



CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH



BÀI ĐỌC I: Act 2:14a, 36-41

“Thiên Chúa đă tôn Người làm Chúa và làm Đấng Kitô”
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong ngày lễ Ngũ tuần, Phêrô vùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Xin toàn thể nhà Israel hăy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đă tôn Đức Giêsu mà anh em đă đóng đinh, lên làm Chúa và làm Đấng Kitô”. Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong ḷng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: “Thưa các ông, chúng tôi phải làm ǵ?”. Phêrô nói với họ: “Anh em hăy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hăy chịu phép rửa, nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha tội: và anh em nhận lănh ơn Thánh Thần. V́ chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến”. Phêrô c̣n minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: “Anh em hăy tự cứu ḿnh khỏi ḍng dơi gian tà nầy”. Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.

Lời của Chúa.


Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)

Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.

1.      Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh ŕ, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

2.      Người dẫn tôi qua những con đường đoan chánh, sở dĩ v́ uy danh Người. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, v́ Chúa ở cùng tôi. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi ḷng tôi.

3.      Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu tôi th́ Chúa xức dầu thơm, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa.

4.      Ḷng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư, cho tới thời gian rất ư lâu dài.


BÀI ĐỌC II: 1 Petr 2:20b-25

“Anh em đă trở về cùng Đấng canh giữ linh hồn anh em”
Bài trích thơ Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, v́ Đức Kitô đă chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Đấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó ḿnh cho Đấng xét xử công minh; chính Người đă gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đă chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đă được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đă trở về cùng vị mục tử và Đấng canh giữ linh hồn anh em.

Lời của Chúa.


(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. — Alleluia.


PHÚC ÂM: Joan 10:1-10

“Ta là cửa chuồng chiên”
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, th́ người ấy là kẻ trộm cướp. C̣n ai qua cửa mà vào, th́ là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên ḿnh và dẫn ra. Khi đă lùa chiên ḿnh ra ngoài, kẻ ấy đi trước và chiên theo sau, v́ chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, c̣n trốn tránh, v́ chúng không quen tiếng người lạ”. Chúa Giêsu phán dụ ngôn nầy, nhưng họ không hiểu Người muốn nói ǵ. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các Ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đă đến trước đều là trộm cướp. Và chiên đă không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, th́ sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và t́m thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến th́ chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá hủy. C̣n Ta, Ta đến để cho chúng sống và được sống dồi dào”.

Phúc Âm của Chúa.

SUY NIỆM LỜI CHÚA

 

“Tôi đến cho chiên được sự sống và được một sự sống viên trọn / viên măn”

 

Vấn Đề của Bài Phúc Âm hôm nay

 

Như đă chia sẻ trong các tuần vừa rồi, chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa cho chung Mùa Phục Sinh là những ǵ thể hiện câu Chúa Giêsu khẳng định trong biến cố hồi sinh Lazarô: “Thày là sự sống lại và là sự sống” (Jn 11:25). “Thày là sự sống lại” là chủ đề cho chính Đại Lễ Phục Sinh cũng như cho Chúa Nhật II và III Mùa Phục Sinh, và “Thày là sự sống” là chủ đề cho 4 Chúa Nhật Mùa Phục Sinh c̣n lại, tức tới Chúa Nhật VII, trước Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là Chúa Nhật mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, tiếp theo Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh đă bị gián đoạn bởi Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Chính v́ “Thày là sự sống” là chủ đề của 4 Chúa Nhật Mùa Phục Sinh c̣n lại mà trong Chúa Nhật IV Phục Sinh hôm nay Chúa Giêsu mới nói đến ở câu kết thúc bài Phúc Âm Thánh Gioan về mục đích Nhập Thể và Vượt Qua của Người: “Tôi đến cho chiên được sự sống và được sự sống viên trọn (hay) sự sống viên măn”.

 

Thế nhưng, về chủ đề “Thày là sự sống” cho Mùa Phục Sinh nói chung và ở bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, chúng ta có thể đặt ra những vấn đề hết sức quan trọng sau đây:

 

Thứ nhất, “sự sống viên trọn (hay) sự sống viên măn” đây là ǵ? Như thế “sự sống” chưa viên trọn hay chưa viên măn đây là sự sống như thế nào?

 

Thứ hai, làm sao một cái chết về phần xác, một cái chết theo thể lư nơi Chúa Giêsu lại có thể mang lại sự sống thiêng liêng hay sự sống thần linh cho con người?

 

Thứ ba, nếu quả thực việc tử nạn về phần xác của Chúa Giêsu ban cho con người “sự sống” thần linh th́ Người ban bằng cách nào và con người làm sao để có thể lănh nhận?

 

1.      “Sự sống viên trọn (hay) sự sống viên măn” đây là ǵ? Như thế “sự sống” chưa viên trọn hay chưa viên măn đây là sự sống như thế nào?

 

Căn cứ vào ư nghĩa của toàn bài Phúc Âm hôm nay, “sự sống viên trọn” Chúa Giêsu cố ư nói đến ở đây là sự sống do chính Người ban cho con người. Đúng thế, không một con người trần gian, con người thuần túy nào có thể ban cho con người “sự sống viên trọn” này được. Phải chăng, đó là lư do Chúa Giêsu đă khẳng định trong bài Phúc Âm: “Tất cả những ai đến trước Tôi đều là những kẻ trộm cắp và cướp giật… Kẻ trộm đến chỉ để ăn trộm, sát hại và hủy diệt”?

 

Nếu nói chung loài người th́ “những kẻ trộm cắp và cướp giật… đến để sát hại và hủy diệt” đầu tiên đây phải là chính Adong và Evà, những con người chẳng những đă không truyền lại cho con cái ḿnh sự sống thần linh của t́nh trạng công chính nguyên thủy mà c̣n truyền lại cho gịng dơi ḿnh sự chết cả hồn lẫn xác nữa!

 

Nếu nói riêng dân Do Thái là đối tượng nghe Chúa Giêsu nói những lời này, th́ “những kẻ trộm cắp và cướp giật… đến để sát hại và hủy diệt” đây phải kể đến những vị vua của họ, ở cả hai miền Nam và Bắc, điển h́nh nhất là Solomon, đă dẫn dắt dân Chúa đi đến chỗ bỏ “Chúa là Thiên Chúa duy nhất” (Deut 6:9; xem 1Kgs 8:23) của ḿnh mà đi ngoại t́nh với tà thần, với các thứ thần ngoại bang, với ngẫu tượng, đến nỗi, cuối cùng, đă làm cho Đất Hứa bị xâm chiếm, Thành Thánh bị tục hóa và Dân Chúa bị lưu đầy bên Babylon (xem 2Kgs 24:15, 25:11; 1 Chr 36:20). Thậm chí cả Moisen và Đavít là hai nhân vật có thể nói nổi tiếng đệ nhất trong dân Do Thái, cũng không nhiều th́ ít thuộc về thành phần của “những kẻ trộm cắp và cướp giật… đến để sát hại và hủy diệt”. Moisen, dù là vị cứu tinh dân tộc thoát khỏi làm tôi dân Ai Cập, chính ông cũng không được vào Đất Hứa, chỉ v́ một lần đă không làm cho sự thiện hảo của Thiên Chúa tỏ hiện trước mặt dân chúng (xem Num 20:12). Đavít, dù là vị vua tốt lành nhất trong các vua Do Thái, thậm chí là vương tổ của một Đấng Cứu Thế (xem Lk 1:32), chính vua cũng đă gian dâm ngoại t́nh và sát nhân cướp vợ thuộc hạ của ḿnh.

 

C̣n Abraham và Gioan Tẩy Giả th́ sao, hai nhân vật cũng rất quan trọng này của dân Do Thái có thuộc về thành phần “những kẻ trộm cắp và cướp giật… đến để sát hại và hủy diệt” hay chăng? Đến đây chúng ta phải để ư đến một yếu tố nữa. Đó là, Chúa Giêsu không nói đến “tất cả những ai đến trước Tôi” khi trực tiếp so sánh họ với chính ḿnh Người mà thôi, Người c̣n nói đến mối liên hệ giữa họ và chiên nữa. Ở chỗ, nếu chiên c̣n nghe tiếng họ th́ quả thực họ chính là thành phần “qua cửa mà vào”, như Chúa Giêsu cũng đă khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, tức thành phần thực sự chính hiệu là “mục tử của chiên”, chứ không phải “những kẻ trộm cắp và cướp giật”. Vậy, nếu các dân tộc được thừa hưởng phúc lành nơi gịng dơi của Tổ Phụ Abraham (xem Gen 22:18), và nếu dân Do Thái tuốn đến cùng Gioan Tẩy Giả ở Sông Dược Đăng (xem Mt 3:5), th́ Tổ Phụ Abraham và Gioan Tẩy Giả là những nhân vật Chúa Giêsu đă nói ở đầu bài Phúc Âm hôm nay: “ai qua cửa mà vào là mục tử của đoàn chiên”.

 

Thế nhưng, thế nào là “qua cửa mà vào” để thực sự “là mục tử của đoàn chiên”, nếu không phải “qua” đây tức là theo Chúa Kitô, “cửa của đoàn chiên”, như Người đă tự xưng trong bài Phúc Âm hôm nay: “Ta là cửa đoàn chiên”. Đó là lư do, trên bờ biển hồ Tibêria, sau khi trao cho Tông Đồ Phêrô quyền vụ thay Người chăm sóc đàn chiên của Người, cũng như sau khi tiên báo cho Phêrô biết trước thân phận hy sinh v́ chiên của ngài, Chúa Kitô Phục Sinh đă kêu gọi Vị Mục Tử Đệ Nhất này rằng: “Hăy theo Thày” (Jn 21:19). Tổ Phụ Abraham và Gioan Tẩy Giả, dù sinh ra trước Chúa Giêsu, thực sự cũng đă theo sát Người. Ở chỗ, Chúa Kitô là “vị mục tử tốt lành hiến mạng sống ḿnh v́ chiên” (Jn 10:11) thế nào, như Người tuyên bố ngay đầu bài Phúc Âm Thánh Gioan Năm B hôm nay, Tổ Phụ Abraham cũng đă sẵn sàng bỏ mạng sống ḿnh là chính Isaac cho Thiên Chúa (xem Gen 22:12) như vậy, và Gioan Tẩy Giả cũng đă bỏ mạng sống ḿnh để bảo vệ công lư (xem Mt 14:3,4,10) như thế.

 

Đến đây chúng ta có thể giải đáp được vấn đề thứ nhất của bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề về “sự sống viên trọn (life in full), hay sự sống viên măn (abundant life) ”. “Sự sống viên trọn (hay) sự sống viên măn” đây chính là sự sống “ở trong Thày… th́ trổ sinh muôn vàn hoa trái” (Jn 15:5), nghĩa là sự sống được thực sự hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, hoàn toàn phản ảnh Người, đến nỗi, làm cho chiên của Người có thể thấy họ và qua họ mà nhận biết Người.

 

2.      Làm sao một cái chết về phần xác, một cái chết theo thể lư nơi Chúa Giêsu lại có thể mang lại sự sống thiêng liêng hay sự sống thần linh cho con người?

 

Nếu “chết là hết”, và “hết” đây không phải là “hết” tồn tại mà là “hết” biết hay không c̣n biết ǵ nữa, như thực vật không c̣n biết sinh hoạt theo định luật thiên nhiên, động vật không c̣n biết phản ứng theo bản năng sinh tồn, nhân vật không c̣n biết tác hành theo cảm thức tâm linh, th́ sống thực sự là biết, biết sinh động theo bản tính của ḿnh. C̣n biết là c̣n sống. Trên b́nh diện siêu linh cũng vậy, sống chính là biết, đúng như Chúa Giêsu đă khẳng định trong đoạn mở đầu của Lời Nguyện Tiệc Ly: “Sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha Sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3).

 

Vậy, để làm cho con người đă hư đi theo nguyên tội, đă hư đi nơi hai nguyên tổ v́ không nhận biết Thiên Chúa Hóa Công của ḿnh, qua việc bất tuân phục lệnh truyền của Ngài, có thể được “sự sống đời đời”, tức có thể “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha Sai là Giêsu Kitô”, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, Lời cần phải Nhập Thể và Vượt Qua. Như thế, đường lối cứu độ của Thiên Chúa, hay đường lối Thiên Chúa muốn dùng để có thể ban “sự sống đời đời” cho con người, đó là tỏ ḿnh ra cho họ để họ có thể “nhận biết” Ngài, như chính Ngài là Đấng hằng sống, Đấng hằng biết ḿnh, “Đấng Là” (Ex 3:14). Và Ngài đă tỏ ḿnh ra cho con người hết cỡ ở chỗ, “vào thời cuối cùng” (Heb 1:2), “lúc thời gian viên trọn” (Gal 4:4), Ngài đă ban chính Con Một ḿnh cho họ: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đă ban Con duy nhất của ḿnh, để ai tin Con th́ không phải chết song được sự sống đời đời” (Jn 3:16).

 

Là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của bản thể Cha” (Heb 1:3), “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14) mục đích chính yếu là “để tỏ Cha ra” (Jn 1:18), bằng việc “làm chứng cho chân lư” (Jn 18:37), một “chân lư” duy nhất lưỡng diện: “Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô”. V́ “từ trời xuống không phải để làm theo ư ḿnh mà là ư Đấng đă sai” (Jn 6:38), tất cả mọi việc Lời Nhập Thể nói và làm trên trần gian này đều là những việc Người “tỏ Cha ra”, Đấng đă sai Người, nhờ đó, thế gian cũng nhận biết Người được Cha sai, tức nhận biết vai tṛ là Đấng Thiên Sai của Người. Thế nhưng, tột đỉnh của việc Lời Nhập Thể “đến trong thế gian để làm chứng cho chân lư” này, tức “làm chứng” cho thực tại Cha ở nơi Người và Người ở nơi Cha ấy: “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Jn 17:21), chỉ có thể được tỏ hiện sáng ngời nhất qua Cuộc Vượt Qua nói chung, và nơi Cuộc Tử Giá của Người nói riêng, đúng như Người đă khẳng định với dân Do Thái: “Khi nào các người treo Con Người lên, các người mới nhận ra Là Tôi” (Jn 8:28). Phải, chính khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá là lúc Người làm cho chân lư sáng tỏ ngay nơi nhân tính của Người, một nhân tính bao gồm “tất cả mọi người”: “Khi nào Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi” (Jn 12:32). Nói cách khác, biến cố Lời Nhập Thể tử giá là việc Người tỏ ḿnh ra nơi nhân tính của Người thực tại “Người là hiện thân đích thực của bản thể Cha”. Tử Giá chính là “đường lối” vô cùng khôn ngoan Lời Nhập Thể đă dùng để tỏ ḿnh ra Người quả “là sự thật và là sự sống” (Jn 14:6).

 

Lời Nhập Thể “là sự thật” ở chỗ “Người là hiện thân đích thực của bản thể Cha”. Bởi thế, Người đồng thời cũng “là sự sống” nơi Thiên Chúa, v́ Thiên Chúa tự hữu, hằng hữu, hiện hữu là Thiên Chúa tự biết ḿnh, hằng biết ḿnh và hiện biết ḿnh, và “ḿnh” nơi Thiên Chúa đây không phải là chính “Lời ở nơi Thiên Chúa” (Jn 1:1), là “sự sống ở nơi Cha đă trở nên hữu h́nh cho chúng ta” (1Jn 1:2) hay sao? Đó là lư do Tông Đồ Gioan đă khẳng định cảm nghiệm thần linh của ḿnh như sau: “Thiên Chúa đă ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống đời đời này ở nơi Con của Ngài. Ai có Con là có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa th́ không có sự sống” (1Jn 5:11-12).

 

3.      Nếu quả thực việc tử nạn về phần xác của Chúa Giêsu ban cho con người “sự sống” thần linh th́ Người ban bằng cách nào và con người làm sao để có thể lănh nhận?

 

Đúng thế, nếu “Thiên Chúa đă ban cho chúng ta sự sống đời đời và sự sống đời đời này ở nơi Con của Ngài”, th́ quả thực “Ai có Con là có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa th́ không có sự sống” (1Jn 5:11-12). “” ở đây theo Thánh Kư Gioan, là “nhận biết” (Jn 1:10), là “chấp nhận” (Jn 1:11) Lời Nhập Thể: “Ai chấp nhận Người th́ Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Jn 1:12). Và để loài người có thể “nhận biết”, có thể “chấp nhận” Lời Nhập Thể để được “quyền làm con Thiên Chúa”, Chúa Kitô Phục Sinh đă phải sai thành phần chứng minh tiên khởi của ḿnh “đi khắp thế gian loan báo tin mừng cho tất cả mọi tạo vật. Ai tin vào tin mừng và lănh nhận phép rửa th́ được cứu rỗi, c̣n ai không tin th́ bị luận phạt” (Mk 16:15-16). Đến đây chúng ta thấy lư do hiện hữu và vai tṛ thực sự của thành phần chứng nhân tiên khởi là Nhóm Tông Đồ Đoàn là ở chỗ, như Tông Đồ Gioan xác nhận: “Những ǵ chúng tôi đă thấy và đă nghe, chúng tôi loan báo cho anh em, để anh em cũng được chia sẻ sự sống với chúng tôi…” (1Jn 1:3).

 

Như thế, để có thể “có sự sống”, loài người nói chung, kể cả Tông Đồ Đoàn, đều phải “nhận biết”, phải “chấp nhận” Lời Nhập Thể. Thậm chí thành phần chứng nhân tiên khởi có được sai đi rao giảng và làm phép rửa khắp thế gian đi nữa, ngay bản thân các vị cũng đă phải lănh nhận phép rửa bởi chính Chúa Kitô Phục Sinh bằng “phép rửa trong Thánh Thần” (Jn 1:33), khi “Người thổi hơi trên các vị mà nói: ‘Các con hăy lănh nhận Thánh Thần’” (Jn 20:22). Bởi v́, như Chúa Giêsu đă khẳng định với Nicôđimô: “Tôi bảo thật cho ông biết, không ai có thể thấy vương quốc của Thiên Chúa, nếu không được tái sinh từ trên cao… tái sinh bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:3,5). Tuy nhiên, hai vấn đề được đặt ra ở đây là: Thứ nhất, nếu con người cần phải “chấp nhận” để được “ban quyền làm con Thiên Chúa”, mà muốn “chấp nhận” con người cần phải có ư thức, th́ một khi con người lănh nhận bí tích rửa tội lúc mới sinh hay c̣n nhỏ, chưa có hay chẳng có ư thức ǵ, th́ phép rửa có thành hay chăng - tại sao lại phải lănh nhận phép rửa ngay từ khi mới sinh? Thứ hai, nếu “chấp nhận” là tác động của ḷng muốn tự nó đă đủ để được “sự sống”, như trường hợp những kẻ được rửa tội bằng ḷng mến không kịp lănh nhận phép rửa, th́ tại sao c̣n cần phải lănh nhận phép rửa nữa – phép rửa được Chúa Giêsu lập ra để làm ǵ?

 

Về vấn đề thứ nhất, vấn đề lănh nhận phép rửa khi mới sinh chưa biết ư thức “chấp nhận”, đây là vấn đề điều kiện thực tế thuộc về phía loài người. Tuy nhiên, theo nguyên tắc, loài người không sinh ra con cái khi chúng có ư thức rồi, khi chúng biết những vị sinh ra chúng là ai, mà là chính lúc chúng chưa có ư thức ǵ cả. Cũng thế, về phương diện siêu nhiên, dù ở tuổi tác nào, thậm chí dù c̣n trong ḷng mẹ, miễn là giống nhau ở chỗ chưa nhận biết Thiên Chúa, chưa ư thức Ngài là ai, con người cũng có thể hay hội đủ điều kiện để trở thành con cái Thiên Chúa. Đó là lư do việc sinh sản là việc của cha mẹ hơn là của con cái. Không phải con cái hội đủ điều kiện làm người, ở chỗ có ư thức, rồi cha mẹ mới sinh nó ra, mà v́ nó chưa có ǵ. Có thể nói, chính v́ chưa có ư thức, chưa biết ǵ mới cần được sinh ra, mới cần có khả năng bẩm sinh để ư thức. Về phương diện siêu nhiên cũng vậy, tự ḿnh, con người không thể nào có Ư Thức Thần Linh, tức có thể nhận biết Thiên Chúa như Ngài Là, nếu không có chính Thần Linh của Ngài, “Vị Thần Linh thấu suốt mọi sự, kể cả thâm tâm của Thiên Chúa” (1Cor 2:10). Bởi thế, con người mới cần được Thiên Chúa sinh ra, và cũng bởi thế Thiên Chúa mới sinh ra con người, mới ban Thần Linh của Ngài cho họ, để nhờ đó họ có thể “được sự sống” là nhận biết Ngài. Có thể nói, khi “Thiên Chúa ban Thần Linh của Con Ngài cho ḷng chúng ta” (Gal 4:6) là Ngài đă tái sinh chúng ta, là chúng ta “được tái sinh từ trên cao” (Jn 3:3), được rửa trong Thánh Thần rồi vậy, như trường hợp điển h́nh của gia đ́nh Cornêliô đă lănh nhận Thánh Thần trong đang khi nghe Tông Đồ Phêrô giảng dạy, trước khi chính thức được Vị Tông Đồ này làm phép rửa cho (xem Acts 10:44,46). Thật ra, theo đường lối b́nh thường, như Thánh Phêrô đề cập đến trong Bài Giảng Tiên Khởi được Sách Tông Vụ ghi lại ở bài đọc một hôm nay, phải “lănh nhận phép rửa” đă rồi mới “được tặng ân Thánh Thần”. Ở đây, trong trường hợp gia đ́nh Cornêliô đang lắng nghe Lời Chúa, “tặng ân Thánh Thần” lại được ban cho con người trước khi họ “lănh nhận phép rửa”,  cho thấy hai điều hết sức quan trọng: thứ nhất, Thánh Thần được xuất phát từ chính cửa miệng của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Jn 20:22), tức từ mô thể Lời Chúa vốn có quyền năng thanh tẩy (xem Jn 15:3), chứ không phải từ nguyên bởi chất thể nước rửa tội; và thứ hai, Thánh Thần là chính mạch nước vọt lên sự sống đời đời nơi ḷng của những ai tin vào Chúa Kitô, Lời Nhập Thể (xem Jn 7:38-39; 4:14), hơn là do nguyên điều kiện cần phải có là tác động “chấp nhận” của con người.

 

Ngoài ra, theo b́nh thường, v́ Thiên Chúa tỏ ḿnh ra nơi Lời Nhập Thể, nghĩa là qua Nhân Tính của Lời, mà Nhân Tính của Lời đă trở thành phương tiện, nhất là sau biến cố Phục Sinh, “đă trở thành một thần linh ban sự sống” (1Cor 15:45), thành Bí Tích để thông ban Thánh Thần (xem Jn 20:22), và con người chúng ta muốn đến với Chúa Kitô phải đến với Bí Tích, đến qua Bí Tích, một tác động chứng tỏ chúng ta “chấp nhận” Lời Nhập Thể. Mà đến với Bí Tích là con người đồng thời cũng đến với Giáo Hội là chính Bí Tích Hiệp Thông lại vừa là Thừa Tác Viên ban “sự sống”, và qua việc này con người c̣n tỏ ra “chấp nhận” Lời Nhập Thể nơi Chứng Từ Thần Linh của Người là Giáo Hội nữa. Có thể nói, nếu Thiên Chúa sinh ra con người từ trên cao bằng việc tự động ban Thần Linh của Ngài cho họ, thường bằng Chứng Từ Giáo Hội, th́ việc con người lănh nhận phép rửa là việc họ được Thần Linh Thiên Chúa, với tư cách là “quyền năng Đấng Tối Cao” (Lk 1:35) này tác động, để họ có thể tỏ ư muốn “chấp nhận” Lời Nhập Thể, qua Giáo Hội Thừa Tác, nhờ đó, họ được Lời Nhập Thể “ban cho quyền làm con Thiên Chúa” (Jn 1:12). Ở chỗ, họ được hiệp thông với Lời Nhập Thể, tức được có cùng một Thần Linh của Lời Nhập Thể, để họ có thể “được sự sống và được một sự sống viên măn” của một người con Thiên Chúa như chính Con Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô: “đẹp ḷng Cha mọi đàng” (Mt 3:17, 17:5).

 

Tóm lại, một khi lănh nhận Thần Linh của Con, con người sẽ đi đến chỗ hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong Giáo Hội của Người, chẳng khác ǵ “như cành nho dính liền với thân nho” (Jn 15:5). Và cũng chỉ khi nào con người “ở trong Thày như Thày ở trong các con” (Jn 15:4), theo khuôn mẫu “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Jn 17:21), con người “mới sinh nhiều hoa trái”. Nghĩa là con người mới chẳng những “được sự sống mà được sự sống viên măn hơn” (Jn 10:10), một Sự Sống Thần Linh Thiên Chúa đă ban cho con người nơi Lời Nhập Thể và Vượt Qua.

 

Vấn đề thực hành sống đạo:

 

Khi lănh nhận Bí Tích Rửa Tội là Kitô hữu đă “được sự sống và được sự sống viên măn”, v́ Bí Tích này làm cho họ được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong Giáo Hội và được trở nên con cái Thiên Chúa. Nếu “sự sống viên măn hơn” là sự sống hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, là sự sống ở trong Thày, th́ chỉ bao lâu sống trong Lời Nhập Thể là Chúa Kitô, Kitô hữu mới thật sống “sự sống viên măn”, mới có thể “trổ sinh muôn vàn hoa trái”. Mà muốn sống “sự sống viên măn”, tức muốn hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, Kitô hữu cần phải tuân giữ lời của Chúa Kitô, giới răn yêu thương của Chúa Kitô: “Như Cha đă yêu Thày thế nào, Thày cũng yêu các con như vậy. Các con hăy sống trong t́nh yêu của Thày, nếu các con tuân giữ các giới răn của Thày, như Thày đă giữ các mệnh lệnh của Cha và đă sống trong t́nh yêu của Ngài. Thày nói với các con tất cả những điều này là để niềm vui của Thày trở thành của các con, cũng như để cho niềm vui của các con được nên trọn” (Jn 15:9-11). Như thế, “sự sống viên măn hơn” nơi Kitô hữu c̣n là “sự sống” đầy niềm vui của Chúa Kitô và với Chúa Kitô. Mà “niềm vui” đây là hoa trái của hay biểu hiệu cho Thánh Thần (x Gal 5:22; Lk 10:21), là dấu chứng tỏ “đầy Thánh Thần” (Lk 1:41-42), bởi đó, “sự sống viên măn hơn” nơi Kitô hữu sống trong Chúa Kitô c̣n là sự sống tràn đầy Thánh Thần, sinh hoa trái Thánh Thần, Vị Thánh Thần của Tối Phục Sinh (x Jn 20:22) tỏ hiện quyền lực nơi Ngày Ngũ Tuần (x Acts 2:1-4)!

 

 

VÀ CHIÊN NGHE TIẾNG KẺ ẤY

 Trần Mỹ Duyệt

 

  

“Và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. V́ chúng quen tiếng kẻ ấy

Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên ḿnh” (Gio  10: 2-4).

 

Chỉ ba câu ngắn gọn trích ra từ trong bài tường thuật của Thánh Gioan về vai tṛ và sứ mạng mục tử của Chúa Giêsu cũng đủ để mọi Kitô hữu ấm ḷng và tràn trề niềm tin nơi Chúa Giêsu, Đấng là Mục Tử Nhân Hậu.

 

Chúa Giêsu dùng h́nh ảnh một đàn chiên và người chăn chiên để diễn tả mối tương quan giữa người Kitô hữu và Ngài, Chúa không nhằm miệt thị hay coi thường con người, nhưng qua đó, ta c̣n thấy được t́nh yêu thương vô cùng mà Thiên Chúa dành cho con người. Do t́nh yêu thương ấy, Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa – đă hạ ḿnh xuống bằng với con người để nâng con người lên vai tṛ con cái Chúa. 

 

Cũng qua so sánh ấy, Chúa Giêsu cũng muốn nói với mọi người về mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Ngài dùng h́nh ảnh con chiên để ám chỉ về những ai theo Ngài. Phần Ngài, Ngài đă tự nhận là một người chủ hết ḷng sống chết với chiên ḿnh. Ngài không chỉ săn sóc một cách tổng quát, mà hơn thế nữa, Ngài biết rơ từng người một trong ta, và Ngài biết cả tên gọi của mỗi người: “Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên ḿnh” (Gio 10:3). Đến đây h́nh ảnh về t́nh yêu Thiên Chúa bỗng khơi dậy trong tâm trí lời Thánh Kinh: “Từ khi chưa có đất trời. Ta đă biết con và ta đă gọi tên con”.

 

Như vậy, không phải đợi đến hôm nay mỗi người chúng ta mới hiện hữu và có một tên goi. Nhưng chúng ta đă hiện hữu từ muôn thuở trong thượng trí của Thượng Đế và chính Ngài đă biết, đă gọi tên chúng ta từng người một.

 

Trở lại với ư nghĩa của trích đoạn Tin Mừng hôm nay, sau khi đă ghi lại vai tṛ và sự yêu thương săn sóc mà Mục Tử Nhân Hậu dành cho các chiên và từng mỗi chiên trong đàn. Thánh Sử Gioan đă chép lại lời Chúa Giêsu nói về sự cần thiết của từng con chiên là phải lắng nghe và đi theo tiếng gọi của người Mục Tử: “và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy” (Gio 10: 3) . Lư do là “v́ chúng quen tiếng kẻ ấy” (Gio 10:4). Đây là một điểm tâm lư rất hay mà Chúa Giêsu có ư lồng vào khi đề cập đến tương quan giữa Thiên Chúa và con người, cũng như h́nh ảnh so sánh giữa những con chiên và người chăn chiên.

 

Trong thực tế, người con khi vừa lọt ḷng mẹ ra là đă có bản năng nghe và hiểu được tiếng mẹ ḿnh. Cũng chính v́ thế, em bé quấn quit, và sờ soạng t́m cho được hơi mẹ, nghe cho được tiếng mẹ, mặc dù lúc ấy em vẫn chưa hiểu và biết mẹ em là ai và như thế nào. Tâm lư phát triển cũng cho biết khoảng 3 tháng tuổi trẻ đi, em bé bắt đầu phân biệt rơ hơn về mẹ ḿnh không những bằng tiếng nói, hơi của mẹ, mà c̣n nh́n được mặt mẹ, v́ thế em không muốn để cho kẻ lạ mặt đến gần bằng phản ứng khóc thét lên, hoặc vùng vằng khi có ai không phải là mẹ em đ̣i bế em.

 

Nghe và biết được tiếng chủ, chiên sẽ đi theo chủ. Nghe và biết được giọng nói quen thuộc của mẹ, em bé sẽ an ḷng và hạnh phúc. Nhưng em sẽ khóc, sẽ cự nự, sẽ vùng vằng khi biết người nào đó không phải là mẹ đang ẵm ḿnh. So người mục tử tốt và kẻ cướp, Chúa Giêsu không có ư nào hơn là so sánh tiếng mời gọi của Ngài với tiếng mời gọi của Satan. Chúa biết rơ con người là ai, và trong cuộc sống này, con người phải có những lựa chọn nào, v́ thế Ngài căn nhặn thêm: “Chiên ta th́ nghe tiếng ta” (Gio 10:27).

 

Nhận xét trên cũng là một nhận xét hết sức b́nh thường và dễ hiểu, v́ không thể nào có ai đó lạ mặt lại có được một tiếng nói quen thân cùng cung điệu với người thân của ḿnh. Và đối với những con chiên trong một đàn, th́ tiếng quen thuộc ấy là tiếng người mục tử.

 

Trong cuộc sống tâm linh, con người trong thế giới hôm nay đang phải phân tâm về quá nhiều tiếng mời gọi. Nhiều khi không phải tiếng đó là của bạn hay thù, của mục tử nhân lành hay của kẻ cướp trá h́nh, của Thiên Chúa hay của Satan. Nhưng biết chắc một điều là những tiếng ấy đang làm nhiều người rất phân vân và rất khó lựa chọn. Trong những chọn lựa ấy, cái khiến cho con nguời phân vân nhất vẫn là “tại sao có nhiều người xấu lại gặp may mắn và thành đạt, nguợc lại, có nhiều người tốt lại gặp xui xẻo và thất bại”? Có Thiên Chúa th́ tại sao lại có quỉ dữ? Phải chăng tiếng kêu cứu của kẻ lành không lấn át được những tiếng cười ngạo mạn của những kẻ tạm thời chiến thắng và đang cười nhạo trên sự đau khổ của anh chị em ḿnh?!

 

Thêm vào đó, tiếng của mời gọi của dục vọng, của sắc đẹp, của tiền bạc, của giầu sang phú quí, của danh vọng, và của quyền bính là những tiếng mời gọi thường ngày vẫn âm ỷ nói với ta trong cuộc sống. Thực tế là những tiếng ấy rất hấp dẫn và khó ḷng từ chối. Đôi khi những tiếng này c̣n nhại lại, luồn lách vào cả với tiếng mời gọi của lương tâm, khiến con người rất khó phân biệt. Và trong những trường hợp ấy, th́ phải quen lắm ta mới có thể nhận ra tiếng của chủ hay tiếng của kẻ lạ. Tiếng của Thiên Chúa hay tiếng của Satan. V́ thế, Chúa Giêsu đă nói với chúng ta hôm nay rằng hễ là chiên của Ngài, chúng ta phải nhận ra tiếng Ngài. Và một khi nhận ra tiếng Ngài, th́ chúng ta không c̣n chọn lưa nào khác hơn là đáp lại tiếng Ngài. V́ chính tiếng ấy sẽ dẫn chúng ta đến đồng cỏ non và suối mát trong.

 

CỬA CHUỒNG CHIÊN

 

 

Trần Mỹ Duyệt

 

 

“Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đă đến trước đều là trộm cướp. Và chiên đă không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào th́ sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và t́m thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến th́ chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá hủy. C̣n Ta, Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào” (Gio 10:9-10).

 

Thánh kư Gioan đă ghi lại một nhận xét hết sức thực tế về dụ ngôn này, Ngài viết: “Chúa Giêsu nói dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Ngài muốn nói ǵ” (Gio  10:6). Điều này làm cho chúng ta cũng cảm thấy khó hiểu, v́ Pharisiêu, Luật Sỹ, Kỳ Mục, Thượng Tế thời bấy giờ vốn được tiếng là những người thông thái, hiểu Thánh Kinh và nắm vững lề luật. Hay là họ cố t́nh không muốn hiểu, v́ đó là những lời va chạm và là những so sánh mà họ không muốn nhắc tới. V́ nếu Chúa là đấng chăn chiên hiền lành th́ họ là hạng người chăn chiên như thế nào? Nhất nữa là Ngài lại ám chỉ về bọn họ rằng: “Kẻ trộm có đến th́ chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá hủy” (Gio 10:10).

 

Nhưng không phải chỉ là những người Pharisiêu, Luật Sỹ, Kỳ Lăo, Thượng Tế thời của Ngài, ngày nay và ngay trong thành phần dân Chúa cũng vẫn có những người cảm thấy khó hiểu hoặc không muốn hiểu những lời và dụ ngôn này. Lư do, v́ họ không muốn nh́n nhận ḷng thương và sự ân cần, săn sóc của Chúa. Họ không muốn thừa nhận rằng họ là những người được Chúa yêu thương đặc biệt. Họ làm thế, v́ sợ rằng khi thừa nhận những sự thật ấy, họ phải có bổn phận đáp trả t́nh yêu Ngài, và phải sống với sự biết ơn ấy.

 

“Ta là cửa chuồng chiên”. Thật vậy, Chúa Giêsu khi dùng dụ ngôn này và tự gọi ḿnh là cửa chuồng chiên, Ngài muốn chúng ta hiểu rằng cánh cửa ấy luôn luôn mở rộng và sẵn sàng đón tiếp mọi người. Đó là cánh cửa của Giáo Hội, của Hội Thánh. Không qua cửa ấy để vào sống trong Hội Thánh, chúng ta sẽ cảm thấy thiếu thốn, sợ hăi và rất dễ trở thành mồi ngon của Satan, cũng như những con chiên không sống ở trong đàn và không được bao bọc bên trong chuồng sẽ rất dễ làm mồi ngon cho thú dữ.

 

“Ta là cửa chuồng chiên”. Nhưng hơn thế nữa, Chúa Giêsu c̣n muốn chúng ta hiểu thêm rằng, Ngài chính là chuồng chiên, và là người chăn chiên nữa. V́ hai cánh cửa của chuồng chiên ấy cũng chính là h́nh ảnh đôi tay Ngài giang ra, vươn ra để đón chờ mỗi người chúng ta đến và sống trong Ngài, v́ Ngài là Đấng Chăn Chiên Lành.

 

Tất cả mọi người, một khi đă vào Giáo Hội, gia nhập đoàn chiên Ngài đều hiểu điều này, là chúng ta được chăn nuôi và bổ dưỡng trong cánh đồng cỏ xanh non, và ḍng suối mát trong là Thánh Thể và Lời Ngài. Và Chúa Giêsu trong trường hợp này chính là đồng cỏ non và suối mát trong của linh hồn. Ngài ban cho chúng ta sự sống đời đời của chính Ngài, vi Lời Ngài là lời ban sự sống, và Thánh Thể Ngài là bánh trường sinh nuôi sống chúng ta trên hành tŕnh đức tin. Ngài nói: “Ta là cửa, ai qua Ta mà vào th́ sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và t́m thấy của nuôi thân”. Chỉ có Ngài và qua Ngài chúng ta mới t́m được sự cứu rỗi và của nuôi thân, tức là sự tăng bổ đời sống tâm linh và sự sống đời đời.

 

“Ta là cửa chuồng chiên”. Dù muốn hay không muốn nh́n nhận sự thật này, chúng ta cũng phải xác tín điều này là tất cả những ai không có đời sống tâm linh và không được nuôi dưỡng bằng tinh thần đạo đức, họ rất dễ trở thành đối tượng của đam mê, nhục dục và của những hào nhoáng thế tục. Cuộc đời họ luôn luôn là một sự khao khát khôn nguôi cho những thỏa măn tự nhiên. Họ sống những ngày thật buồn tẻ, vô ư nghĩa cho dù họ có quyền thế, giầu có và thành đạt. Đây chính là h́nh ảnh của những con chiên đi ngoài đàn, và không được ngủ trong chuồng. Họ cũng chính là h́nh ảnh của những người thường ngày chỉ uống nước của giếng Giacóp, thứ nước mà uống vào vẫn c̣n khát. Đến và sống trong Giáo Hội Chúa. Đón nhận Lời Hằng Sống từ nguồn mạch Thánh Kinh và sức sống tâm linh qua Thánh Thể, đó là những ǵ mà con người cần làm để được sự sống đời đời.

 

“Ta là cửa chuồng chiên”. Khi đón nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Khi gia nhập Giáo Hội, và mỗi khi được nuôi dưỡng bằng bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa, người Kitô hữu chúng ta phải lấy làm hănh diện, và cám đội ơn Chúa. Thật vậy, nếu không do ḷng Ngài xót thương, chúng ta sẽ không xứng đáng để vào với Giáo Hội Ngài, và không hiểu được Lời Ngài cũng như đón nhận Thánh Thể Ngài. Tất cả chỉ v́ ḷng Ngài thương yêu ta như người mục tử nhân lành thương yêu và vác trên vai con chiên nhỏ bé của ḿnh.

 

“Ta là cửa chuồng chiên”. Như vậy, thái độ của người Kitô hữu chúng ta, chính là cảm tạ hồng ân Ngài, và ngoan ngoăn đi theo tiếng mời gọi của Ngài. Một sự ngoan ngoăn của những tâm hồn trưởng thành và nội tâm dám chấp nhận từ bỏ, và thực thi giới luật của Ngài với ḷng yêu mến. Mặt khác, chúng ta cũng cần tỏ ra hănh diện về ơn gọi Kitô hữu của ḿnh, và sốt sắng làm chứng nhân cho ơn gọi ấy. Đó chính là chia sẻ đồng cỏ non, suối mát trong với những chiên khác; đặc biệt, những chiên chưa biết và chưa gia nhập đàn.

 

 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II:

Một Mẫu Gương Mục Tử chăn dắt đàn chiên


 

Sau đây là cuộc phỏng vấn của Zenit với ĐTGM Milwaukee Timothy Dolan theo những ǵ vị TGM này nhận định về ĐTC liên quan đến vai tṛ giám mục. Theo vị TGM này th́ các vị giám mục khó có thể chu toàn được ba sứ vụ (quản trị, thánh hóa và ngôn sứ) của ḿnh, ngoại trừ nơi ĐTC GPII. Vị TGM này cho biết tác phẩm của ĐTC “Đứng lên, nào chúng ta đi” về kinh nghiệm làm giám mục của ĐTC, và tông huấn “Mục Tử chăn dắt Đàn Chiên - Pastores Gregis” hậu thượng hội giám mục thế giới về chủ đề giám mục, đă là những ǵ giúp cho các vị giám mục xét lại lương tâm của ḿnh nói chung, và cho bản thân của vị TGM này nói riêng.


Vấn:     Tác phẩm “Đứng lên, nào chúng ta đi” và tông huấn mới đây của ngài “Pastores Gregis- Mục Tử chăn dắt Đàn Chiên” đă ảnh hưởng tới quan niệm của đức tổng giám mục ra sao về vai tṛ làm giám mục?


Đáp:     Chúng đă ảnh hưởng đến quan niệm của tôi về vai tṛ làm giám mục rất nhiều và qua nhiều cách thức.


Trước hết, cả hai thứ này, tác phẩm “Đứng lên, nào chúng ta đi” (Warner Books) và tông huấn hậu thượng hội giám mục về giám mục của ngài “Pastores Gregis” đă nhấn mạnh đến nhu cầu mănh liệt đối với việc nên thánh và nguyện cầu nơi một vị giám mục. Đọc những bài phản tỉnh của ĐTC về thừa tác vụ giám mục của ngài, người ta hết sức ngỡ ngàng trước những ǵ ngài làm.


Thế nhưng, vấn đề rất rơ ràng ở đây đó là trước khi các giám mục chúng tôi có thể làm những điều ǵ th́ chúng tôi phải trở thành một người nào đó. Chúng tôi phải hiệp nhất với Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Chúng tôi phải tiến bước trên con đường thánh đức. Chúng tôi phải là những con người cầu nguyện. Chúng tôi phải ư thức được việc chúng tôi đồng h́nh tượng với Chúa Giêsu.


Đường lối duy nhất chúng tôi có thể trở thành những ǵ chúng tôi được kêu gọi làm những vị giám mục đó là bằng việc nguyện cầu và nhờ các phép bí tích.


Đức Thánh Cha là một con người thiết tha nguyện cầu. “Pastores Gregis” nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại tới nhu cầu cần thiết của việc cầu nguyện thường xuyên, sâu xa và liên lỉ trong đời sống của vị giám mục. Dân Chúa cần thấy vị giám mục của ḿnh sống đời cầu nguyện. Có Chúa biết Đức Thánh Cha kêu gọi chúng tôi làm nhiều thứ; được gọi là thừa tác vụ. Thế nhưng tất cả những ǵ chúng tôi làm chỉ sinh hoa trái, chỉ hiệu nghiệm, chỉ đầy ư nghĩa nếu nó phát xuất từ những ǵ chúng tôi là.


Những con người làm giám mục là thành phần đồng h́nh tượng với Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành ở ngay cốt lơi bản thân chúng tôi. Mà cách thức duy nhất để làm điều này đó là bằng việc cầu nguyện, Thánh Thể, bí tích ḥa giải, suy niệm Lời Chúa, đọc sánh thiêng liêng, tĩnh tâm và những ngày hồi tâm.


Tôi bao giờ cũng dâng Lễ mỗi Chúa Nhật ở Nhà Thờ Chính Ṭa Thánh Gioan Thánh Kư ở TGM Milwaukee đây vào lúc 8 giờ sáng. Cách đây không lâu, sau Thánh Lễ, có người nói cùng tôi rằng, “Thưa ĐTGM, con muốn ngài biết rằng điều ngài làm đó đă ảnh hưởng đến con và đă gây tác dụng tốt trên con”.


Tôi tưởng người nữ này nói về việc tôi viếng thăm ai đó trong bệnh viện hay việc tôi phát đồ ăn cho người nghèo, hoặc là một trong những bài giảng của tôi hay một dự án nào đó của tôi. Tôi hoàn toàn bỡ ngỡ khi người nữ này nói với tôi rằng điều người nữ ấy đă bị tác động nhất đó là việc thấy tôi đang nguyện Kinh Thần Vụ trước Nguyện Đường Thánh Thể trong vương cung thánh đường này nửa tiếng trước Thánh Lễ sáng Chúa Nhật của tôi.


Bấy giờ tôi không hề nghĩ rằng điều này đă gây được một tác động trên người nào đó. Thế mà nó có đấy.


Đối với người nữ này, khi thấy tôi là một giám mục nghiêm chỉnh nguyện cầu – đối với người nữ ấy khi biết rằng tôi nh́n nhận là tôi chẳng có ǵ tốt lành nếu tôi không hoàn toàn cậy dựa vào ân sủng và t́nh thương của Chúa – đă là những ǵ nói lên rất nhiều với người nữ này. Đó là vấn đề truyền bá phúc âm hóa. Bởi vậy mà điều đầu tiên vị Giáo Hoàng này đă dạy tôi trong tác phẩm mới nhất của ngài, đó là tôi phải thánh thiện.


Thứ đến, tôi đă học được từ những ǵ ngài viết về quyền lực của sự hiện diện. Vị Giáo Hoàng này biết rằng việc dân chúng muốn thấy vị giám mục của ḿnh, muốn ở với vị giám mục của họ, là vấn đề rất quan trọng. Các vị linh mục biết đây là điều xác thực nơi thừa tác vụ mục vụ của họ. Các lănh đạo viên mục vụ biết điều ấy, và các vị giám mục cũng biết như vậy.


Chúng tôi là thành phần giống như Cal Ripkens, một tay đấu banh thuộc đội Baltimore Orioles, người chỉ hiện diện hết mọi trận đấu và đă phá kỷ lục chỉ v́ việc liên lỉ của ḿnh. Anh ta chỉ cần ở đó. Hầu hết cuộc đời của anh ta chỉ là một cuộc hiện diện. Đối với một vị giám mục cũng thế, chúng tôi cần hiện diện. Chúng tôi cần ở với dân của ḿnh. Họ cần thấy chúng tôi, càng gần gũi càng hay.


Họ cần thấy chúng tôi ở những cuộc hội lễ, ở các bệnh viện, tại các học đường, dâng Lễ, cử hành các phép bí tích và giảng dạy.


Đức Thánh Cha quả đă thực hiện điều này một cách anh hùng khi c̣n là tổng giám mục Krakow. Ngài cũng đang thực hiện điều này một cách anh dũng với tư cách là Giám Mục Rôma và ngài đang dạy chúng tôi về quyền năng của việc hiện diện.


Tôi nghĩ rằng sứ điệp thứ ba tôi học được với tư cách là một vị giám mục cả nơi cuốn “Đứng lên, nào chúng ta đi” cũng như trong tông huấn “Mục Tử chăn dắt đàn chiên” đó là nhu cầu cần phải trở thành một tác nhân thực sự của việc truyền bá phúc âm hóa văn hóa.


Như quí vị thấy, Đức Thánh Cha đă biết rằng ngài cần phải dạy trong đại học đường. Ngài đă cần phải gặp gỡ các tay trí thức. Ngài đă cần phải ở đó với các thi sĩ, các khoa học gia, các giáo chức. Tất cả những ai đóng vai tṛ đào luyện trí khôn, cơi ḷng và linh hồn trong xă hội và nơi văn hóa đều phải được truyền bá phúc âm hóa. Điều này dạy cho tôi một điều ǵ đó với tư cách làm giám mục, v́ tôi không biết cách làm sao thực hiện việc ấy cho khéo. Đôi khi tôi nghĩ rằng tôi nên giành việc đó cho những người khác làm.


Thế nhưng, những vị giám mục chúng tôi cần phải liên hệ với văn hóa, nhờ đó, hết mọi thành phần đóng vai tṛ b́nh thường nơi văn hóa, dù là làm truyền thông, là nghệ sĩ, là khoa học gia, là giáo chức, là chính trị gia, là các đầu năo thương trường, là các nhà lănh đạo dân sự, các nhà nghiên cứu, tất cả đều cần đến men Phúc Âm. Vị giám mục có phận sự hệ trọng cần phải đến với họ, mang sứ điệp phúc âm hóa, sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu Kitô và của Giáo Hội Người đến cho văn hóa.


Vấn:     Đức Gioan Phaolô II đă từng làm gương về vai tṛ đa diện của một vị giám mục cả ở Krakow cũng như ở Rôma như thế nào?


Đáp:     Ngài là một bậc thày giỏi. Ngài đă giảng dạy trong các đại học và ngài biết rằng một ông thày đôi khi gây ảnh hưởng bởi những điều ngài làm hơn là những ǵ ngài nói. Bởi thế mà ngài đă làm gương sáng.


Khi tôi trở lại Rôma làm viện trưởng Đại Học Bắc Mỹ vào năm 1994, tôi đă ra ngoài bách bộ vào một buổi sáng sớm Chúa Nhật. Đột nhiên tôi thấy cảnh sát ở các ngả đường, đang ngăn chặn việc lưu thông nhẹ nhàng qua lại ở đó bấy giờ.


Thấy một chiếc xe có nhân viên hộ tống tiến đến, tôi hỏi người cảnh sát đó là ai vậy. Anh ta đáp: “Ô, đó là Đức Giáo Hoàng. Ngài đi đến một giáo xứ ở Rôma vào mỗi sáng Chúa Nhật – ít là những Chúa Nhật ngài không cử hành Lễ công cộng ở Đền Thờ Thánh Phêrô – và ngài cử hành Lễ với các tín hữu trong giáo xứ”.


Ngài thấy được quyền năng của sự hiện diện. Ngài đă làm điều đó ở Krakow, việc ngài viếng thăm các giáo xứ, việc ngài ở với dân chúng. Ngài làm gương như thế đó.


Vai tṛ đa diện của một vị giám mục, được thấy rơ ràng trong tông huấn “Mục Tử chăn dắt đàn chiên”, là một yếu tố lớn của “sứ vụ”, đó là trách nhiệm, là nhiệm vụ, là sứ vụ của một vị giám mục trong việc giảng dạy, quản trị và thánh hóa. Vị Giáo Hoàng này đă dạy chúng tôi rằng chúng tôi cần phải giảng dạy một cách minh bạch, xác tín và bao giờ cũng bằng ḷng cảm thương, những chân lư vượt thời gian của Chúa Giêsu và của Giáo Hội Người.


Sau nữa, ngài dạy chúng tôi về tầm quan trọng của việc quản trị. Chúng tôi cần phải bảo đảm là các giáo phận được cai quản một cách tốt đẹp, là đang có tính cách bảo quản lành mạnh, là chúng tôi tin tưởng thành phần hợp tác viên có thể hỗ trợ chúng tôi theo đặc sủng quản trị v́ dân chúng cần thấy nơi chúng tôi một vai tṛ lănh đạo khôn ngoan và vững chắc.


Nhiệm vụ thứ ba được vị Giáo Hoàng này nhấn mạnh là thánh hóa. Dân chúng cần thấy chúng tôi cử hành các phép bí tích, tất cả các phép bí tích cho họ.


Trong cuốn “Đứng lên, nào chúng ta đi”, ĐTC đă đề cập tới cách hằng năm ngài phải làm sao để công khai cử hành đầy đủ 7 bí tích. Các giám mục chúng tôi thường cao cả ở việc cử hành Thánh Thể, cử hành thêm sức và cử hành bí tích truyền chức thánh.


Thế nhưng, chúng tôi cần cử hành tất cả 7 bí tích nữa. Dân của chúng tôi cần nh́n thấy chúng tôi rửa tội, xức dầu kẻ liệt, làm phép hôn phối, giải tội. Việc cử hành tất cả 7 phép bí tích là một phần thuộc “sứ vụ” thánh hóa của chúng tôi.


Phải, đó là “sứ vụ” tam diện, một vai tṛ đa diện của vị giám mục trong việc giảng dạy, quản trị và thánh hóa, tôi thấy được nơi gương của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ở cả Krakow lẫn Rôma vậy.

 

Vấn:     Điều ǵ làm ĐTGM lạ lùng nhất về những câu truyện cá nhân của Đức Thánh Cha trong cuốn sách này?


Đáp:     Có hai điều làm tôi thấy đáng kể.


Trước hết, cái ảnh hưởng sâu xa của nước Balan nơi ngài thật là sống động đến nỗi tôi không cần được thuyết phục mới chấp nhận điều này. Người ta nói rằng Balan là một xứ sở sâu xa Công Giáo. Văn hóa, xă hội, lịch sử, nghệ thuật và văn chương là tất cả những ǵ ăn sâu vào tính cách phong phú của Công Giáo.


Điều này ăn sâu vào tận xương tủy của bản thân Karol Jozef Wojtyla. Ngài đang để lộ ra một cách tuyệt vời cái nhăn hiệu phong phú, đạo hạnh và sống động của Công Giáo Tính Balan là những ǵ từng thu hút thế giới chung quanh ngài. Bởi thế, điều nổi bật đầu tiên về ngài ở chỗ con người này là người con hết sức sâu đậm của một nước Balan, và ngài hết sức yêu mến quê hương của ngài cũng như văn hóa của quê hương ấy.


Điều thứ hai nẩy lên nơi tôi sau khi đọc tác phẩm này đó là việc ngài sống thoải mái với thành phần giáo dân – ngài có biết bao nhiêu là bạn bè giáo dân, nhất là các gia đ́nh và giới trẻ. Ngài rất thường nói về những người bạn linh mục của ngài, thế nhưng cuối cùng đặc biệt vẫn là những người bạn đă nuôi dưỡng đời sống của ngài, những người thuộc thành phần giáo dân.


Ngài đă ưa thích những cuộc đi cấm trại với giới trẻ, những lần đàm thoại với sinh viên, thích vui vầy với các cặp vợ chồng cùng gia đ́nh của họ. Ngài sống rất tự nhiên với tất cả những người này.


Một lần nữa, với gương của ḿnh, ngài đă thể hiện và phát động giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II, một giáo huấn về phận sự chính của một linh mục, do đó cũng là của một vị giám mục, là phục vụ giáo dân, là hiểu biết họ và mến thương họ, nhờ đó, họ có thể thi hành vai tṛ truyền bá phúc âm hóa của họ trong thế giới.

Vấn:     Tư tưởng nào của vị Giáo Hoàng này về các vấn đề hiện đại có thể là quan trọng nhất đối với ĐTGM?


Đáp:     Một lần nữa, tôi có thể nói rằng tư tưởng của ngài về vai tṛ của thành phần giáo dân. Thế nhưng, ngài cũng cảm thấy cái kinh khủng của chiến tranh, ngài cũng lo lắng về t́nh trạng suy đồi sống đức tin ở Âu Châu; ngài cũng suy nghĩ dữ dội về Thánh Địa; ngài cũng thấy được nhu cầu đoàn tính và hợp tác trong Giáo Hội; ngài cũng nghĩ đến Phi Châu và Mỹ Châu Latinh.


Đó là những lănh vực ngài có được những minh thức sâu xa về các vấn đề gay go trong thế giới tân tiến này, những minh thức thực sự đă khiến tôi phải lưu tâm chú ư.

Vấn:     ĐTGM đă học được ǵ nơi kinh nghiệm làm giám mục của Đức Gioan Phaolô II để giúp vào việc phục vụ của ĐTGM giành cho Giáo Hội?


Đáp:     Tôi học được một số điều. Trước hết, tôi phải là một con người say mến Chúa Giêsu Kitô. Tôi phải là một con người sống thư thái với chính bản thân ḿnh cũng như với sứ vụ và ơn gọi làm giám mục của tôi; một con người một một số đích điểm mục vụ rất cụ thể trong đầu không bao giờ bị tôi xao lăng; một con người không biết sợ hăi, con người vững mạnh tin rằng Chúa Giêsu chăm sóc cuộc đời của tôi và ơn của Người đủ cho tôi.


Tôi không được sợ việc “thả lưới ở chỗ nước sâu” và kêu gọi dân chúng của ḿnh sống thánh thiện, thực hành nhân đức anh hùng và nên trọn lành. Đức Thánh Cha nói với chúng tôi rằng đó là những ǵ ngài đă làm ở Krakow; đó là những ǵ ngài vẫn làm với tư cách là giám mục Rôma và giám mục của Giáo Hội hoàn vũ. Tôi cũng cần phải học cả điều ấy nữa.    


Sau nữa, kinh nghiệm làm giám mục của ngài dạy tôi rằng tôi phải sống rất gần gũi với các vị linh mục của tôi. Đức Giaon Phaolô II yêu thương các linh mục của ngài. Ngài đă yêu thương thành phần linh mục của ngài khi ngài c̣n là tổng giám mục ở Krakow, giờ đây ngài yêu thương thành phần linh mục với tư cách là vị thừa kế Thánh Phêrô.


Tôi cần phải làm sao để tiến đến với những vị linh mục của tôi hơn nữa, biết lắng nghe các vị, biết ở với các vị, biết cầu nguyện với các vị, biết phấn khích các vị, và, phải, biết thách thức các vị và sửa chữa cho các vị khi cần.


Một mẫu gương rất tuyệt vời về một vị giám mục mà tôi nghĩ Đức Gioan Phaolô II làm gương đó là một vị giám mục cần phải trở nên cho thành phần linh mục của ḿnh những ǵ một vị mục tử phải là đối với dân của ngài.


Chúng tôi phải là một linh mục cho các linh mục – chúng tôi phải là một vị mục tử của các linh mục. Đó là bài học thứ hai tôi học được từ cả tác phẩm của ĐTC, từ tông huấn “Mục Tử chăn dắt đàn chiên” cũng như từ gương mẫu của ngài.


Điều thứ ba đó là tôi học được một lần nữa tầm quan trọng của Thánh Thể, một minh thức xứng hợp trong Năm Thánh Thể này.


Phần quan trọng nhất trong ngày sống của vị Giáo Hoàng này đó là việc ngài cử hành Thánh Thể. Hết mọi sự từ đó mà xuất phát, và suốt ngày ngài trở về ở với Chúa thực sự và đích thực hiện diện nơi Thánh Thể. Thánh Thể là tâm điểm của ngày sống, chứ không phải chỉ là một phần trong ngày, như có một câu ngạn ngữ nói.


Đối với tôi việc ở với các vị linh mục và dân chúng ở với Thánh Thể, và đối với bản thân ḿnh việc ở trước sự hiện diện của Giêsu nơi Thánh Thể, là những ǵ nói lên tất cả mọi sự.


Sau hết, tôi nghĩ rằng những văn kiện này, cả những bài phản tỉnh về bản thân chính yếu của ngài lẫn bức tông huấn hậu thượng nghị giám mục thế giới, đều thực sự giúp cho tôi thực hiện một cuộc kiểm điểm lương tâm ḿnh.


Tôi phải thú nhận rằng khi tôi thấy tất cả những ǵ ngài hoàn thành cũng như tất cả những nhiệm vụ được tông huấn “Mục Tử chăn dắt đàn chiên” đặt lên vai của các vị giám mục, tôi cảm thấy phần nào nao núng, rùng ḿnh và thực sự lo âu. Khi tôi đọc bức tông huấn này, tôi nghĩ, “Chúa tôi ơi, tôi là ai mà có thể sống trọn tất cả những điều này đây?”


Thế nhưng, chúng tôi không bao giờ thôi cố gắng. Chúng tôi giữ điều này như là một đích điểm cao quí. Chúng tôi giữ nó trước mắt chúng tôi luôn luôn và xét ḿnh xem chúng tôi thực sự là một vị mục tử tốt lành đối với dân Chúa hay chăng.


Chúng tôi không bao giờ có thể thực hiện được tất cả điều ấy. Chúng tôi không bao giờ có thể hoàn toàn theo nổi gương của Chúa Giêsu. Thậm chí chúng tôi sẽ không thể nào theo gương của Vị Đại Diện Chúa Kitô là Đức Gioan Phaolô II, một cách trọn vẹn. Thế nhưng, chúng tôi không bao giờ được thôi cố gắng.


Chúng tôi liên lỉ cải đổi và canh tân cách thức chúng tôi làm thừa kế các vị tông đồ. Vị Giáo Hoàng này cống hiến cho chúng tôi rất nhiều; đó là điều tốt, v́ ngài đang muốn những ǵ tốt nhất nơi chúng tôi. Ở đây không có vấn đề lưỡng lự, không có vấn đề lỏng lẻo. Ngài đang nêu cao lư tưởng ấy và ngài đang kêu gọi chúng tôi sống lư tưởng ấy.


Việc kiển điểm lương tâm này là điều tất cả chúng tôi cần làm. Như Đức Thánh Cha của chúng ta thường nói: “T́nh yêu mến Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người phải là đam mê của đời sống anh em”.
 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Zenit ngày 6-7/12/2004