|
BÀI ĐỌC I: Ez 2:2-5
“Đây là nhà phản loạn, và
họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri” Trong những ngày ấy, sau khi nói với tôi, thần linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy. Tôi nghe người nói với tôi rằng: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm giao ước của Ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng rằng: “Chúa là Thiên Chúa phán như vậy”. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết gằng giữa chúng có một tiên tri”. Lời của Chúa.
1. Mắt chúng tôi nhìn vào Chúa, cho tới khi người thương xót chúng tôi. 2. Tôi ngước mắt nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa như mắt những người nam tôi tớ, nhìn vào tay các vị chủ ông. 3. Như mắt của những người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa, là Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương xót chúng tôi. 4. Nguyện xót thương, lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng tôi đã bị khinh dể ê chề quá đỗi! Linh hồn chúng tôi thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang, nỗi miệt thị của lũ kiêu căng.
“Tôi rất vui sướng khoe
mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi” Anh em thân mến, để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối”. Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ngự trong tôi. Vì thế tôi vui thỏa trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhực, quẫn bách, bắt bớ và khốn khó vì Đức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ. Lời của Chúa.
“Không một tiên tri nào mà
không bị khinh bỉ ở quê hương” Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbat, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: “Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Và họ vấp phạm vì Người. Chúa Giêsu liền bảo họ: “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình”. Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
----------------------------------
Chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh. Như tuần trước đã chia sẻ, Chúa Kitô đã tái sinh con người bằng việc tỏ mình ra của Người, trước hết bằng “nước” qua các sinh động của nhân tính Người, rồi sau đó bằng “Thần Linh” khi Người từ trong kẻ chết sống lại. Việc Người tái sinh con người bằng “nước”, qua lời Người nói và việc Người làm, là để con người tin vào Người, là để con người được “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ con người có biết đáp lại Mạc Khải Thần Linh hay chăng, tức có biết chấp nhận những lời Người nói và việc Người làm hay chăng, đúng hơn có biết chấp nhận chính bản thân Người “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16) hay chăng? Đó là vấn đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm B, vấn đề liên quan đến thái độ đáp ứng của dân Do Thái, một thái độ cứng lòng tin của dân này, một dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn và được Ngài tỏ mình ra cho suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, một mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Lời Nhập Thể là Con Người Giêsu Nazaret, Vị Thiên Sai của Ngài.
Thật vậy, việc dân Do Thái đáp ứng Mạc Khải Thần Linh, (một Mạc Khải được thể hiện qua Giao Ước và Lề Luật của họ do Chúa đã tự ký kết với họ và ban bố cho họ), bằng thái độ cứng lòng của dân Do Thái đã được chính Thiên Chúa minh định qua miệng tiên tri Êzêkiên trong bài đọc một như sau: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến cùng những người Do Thái, đến cùng những kẻ phản loạn chống lại Ta; họ và cha ông họ đã phản chống Ta cho tới ngày hôm nay. Ta sai ngươi đến với họ là những kẻ dầy mặt và cứng lòng”. Thái độ thiếu đáp ứng đến cứng lòng này của thành phần dân tuyển chọn này được bộc lộ rất rõ ràng nơi thánh phần dân Do Thái ở quê quán của Vị Thiên Chúa Làm Người. Ở chỗ, trước Mạc Khải Thần Linh là Chúa Giêsu Kitô, họ đã đặt vấn đề: “Làm sao hắn lại có được tất cả những điều này nhỉ? … Khôn ngoan…? …. Các việc lạ lùng….? Hắn chẳng phải là một tay thợ mộc, đứa con trai của bà Maria, anh em của James, Joses, Judas và Simon hay sao? Và chị em của hắn không phải là dân làng của chúng ta hay sao?” Thánh Ký Marcô tóm lược nội dung thắc mắc của họ như sau: “Họ thấy Người quá sức đối với họ”. Đến nỗi, vị tác giả Phúc Âm này kết luận: “Người không làm một phép lạ nào ở đó, ngoại trừ chữa một ít người bị bệnh bằng cách đặt tay lên họ”. Chưa hết, “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”.
Qua những câu Phúc Âm vừa trích dẫn trên đây, chúng ta thấy, trước hết, muốn thấy phép lạ hay muốn được hưởng phép lạ cần phải có đức tin. Việc Chúa Kitô thực sự có làm một vài phép lạ ở quê quán của Người bấy giờ chứng tỏ không phải tất cả mọi người không tin vào Người. Song kẻ tin vào người thường là thành phần xấu số bất hạnh, như thành phần khốn khổ, thành phần mong được Đấng Quyền Năng giải cứu cho khỏi cảnh khốn khổ của mình, thành phần Đấng Toàn Năng thực sự cũng muốn sử dụng hay lợi dụng để tỏ vinh hiển của Người ra, như trường hợp thiếu rượu ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:11), hay trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3), nhất là trường hợp Lazarô ở Bêthania (x Jn 11:4). Tuy nhiên, khi tỏ mình ra cho một cá nhân nào hay nơi một cá nhân nào, Thiên Chúa cũng muốn qua cá nhân ấy tỏ mình ra cho những người khác nữa. Ba trường hợp vừa được viện dẫn trên đây đã cho thấy rõ ý định này của Chúa Giêsu. Thậm chí chính việc Người tỏ mình ra cho riêng chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp cũng đã trở thành động lực thúc đẩy chị làm cho dân làng chị tiếp đón Người để rồi đi đến chỗ tự động nhận biết Người (x Jn 4:39-42).
Nếu mục đích của Lời Nhập Thể là để “tỏ Cha ra” (Jn 1:18), và Người đã làm hết mình để cho con người nhận biết Cha qua Người, thì quả thực Người chỉ khao khát được mọi người nhận biết và yêu mến, đúng như Người đã có lần bày tỏ nỗi niềm thao thức của mình: “Thày đến để thắp sáng trên thế gian. Thày muốn cho nó bừng lên biết bao!” (Lk 12:49). Bởi thế, một khi không được mãn nguyện, về bản tính loài người, Người làm sao không thật sự cảm thấy buồn phiền, một nỗi buồn phiền sâu xa day dứt, đúng như Thánh Ký Marcô đã nhận định về Người ở gần cuối bài Phúc Âm “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”. Thế nhưng, Người vẫn không nản. Chính vì thế mà Người càng phải nỗ lực tỏ mình ra hơn nữa cho con người, không ở nơi này thì ở nơi khác, không vào lúc này thì ở lúc kia, nhất là cho thành phần chiên lạc của Người, thành phần nghe thấy tiếng của Người và cũng là thành phần Người đến tìm kiếm cho bằng được, cho đến khi họ đi theo Người (x Jn 10:27,26). Đó là lý do, bài Phúc Âm đã kết luận bằng câu: “Thế nhưng, (tức là cho dù có cảm thấy hết sức buồn phiền về tình trạng thiếu lòng tin nơi quê quán của mình), Người đã rảo khắp các làng mạc lân cận để giảng dạy”.
Nếu Chúa Kitô đã khẳng định với người Do Thái: “Chiên Tôi thì nghe tiếng của Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27), và Người cũng đã khẳng định với tổng trấn Philatô: “Ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37), thì quả thực ai được nghe Lời Chúa đã là một đặc ân và ai nghe được Lời Chúa là càng là một ơn phúc chứ không phải chuyện thường. Tức là muốn nghe được Lời Chúa vô cùng sâu nhiệm như chính Thượng Trí của Người thì con người trần gian cần phải được Người ban cho chính Thần Linh của Người là Thần Chân Lý nữa, một Thần Linh Người quả thực đã thông ban cho Giáo Hội qua các vị tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại (x Jn 20:22), họ mới có thể phần nào thấu triệt “tất cả sự thật” (Jn 16:13), thấu triệt “những mạc khải phi thường” mà đạt đến Thực Tại Thần Linh.
Ở bài đọc thứ hai, qua bức thư thứ hai gửi cho giáo đoàn Côrintô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã cho thấy hậu quả và thái độ của chính bản thân mình, một con người đã nhận được “những mạc khải phi thường”, những mạc khải được thánh nhân cho biết là “nghe thấy những lời khôn tả không ai có thể nói” trên tầng trời thứ ba (x 2Cor 12:4). Hậu quả mà con người nhận được “những mạc khải phi thường” này phải chịu đó là, như đương sự thành thật chia sẻ trong bài đọc thứ hai: “một cái gia đâm vào xác thịt, một thần của Satan làm tôi bầm dập để giữ cho tôi khỏi kiêu hãnh”. Và thái độ của con người nhận được “những mạc khải phi thường” này cần phải tỏ ra là “bằng lòng với nỗi yếu hèn, với bạc đãi, với buồn đau, với bách hại và các thứ khốn khó vì Chúa Kitô. Vì khi tôi bất lực là lúc tôi mạnh mẽ”. Thái độ của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một con người không hề ở với Chúa Kitô ngay từ đầu đến cuối như Mathias, vị tông đồ được chọn thay cho Giuđa (x Acts 1:21-22), nhưng vẫn được gọi là Tông Đồ, tức thuộc về thành phần chứng nhân tiên khởi, thành phần phải hội đủ điều kiện được Chúa Kitô đích thân tỏ mình ra cho và trực tiếp sai đi, vì con người này cũng được chính Chúa Kitô tỏ mình và sai đi (x Gal 1:12, 16; Acts 9:3-6, 13:2-3), thực sự là tinh thần của một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô, một người môn đệ sau khi nhận được những mạc khải phi thường thì vì Chúa mang đi chia sẻ, bất chấp mọi khó khăn thử thách.
Ở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV năm B cũng nhắc đến sự kiện các môn đệ theo Chúa Giêsu về quê quán của Người, thành phần đi theo Người ấy không thể nào không chứng kiến thấy nỗi khổ tâm buồn phiền của Thày mình trước tình trạng cứng lòng tin nơi dân làng của Thày, hay nói cách khác, tình trạng có vẻ thất bại của Thày, nhưng đồng thời các vị cũng chứng kiến thấy thái độ hăng say không nản chí của Thày, như cuối bài Phúc Âm nói tới, trong việc hoàn thành sứ vụ chứng nhân của Người về chính bản thân Người và về Cha của Người. Các môn đệ được Chúa Kitô tuyển chọn để sống sát bên Người không phải chỉ để nghe lời Người nói và thấy việc Người làm, mà còn để thấy được tinh thần sống của Người nữa hầu bắt chước mà làm theo, như Người khẳng định với các vị sau khi làm gương phục vụ qua việc rửa chân cho các vị trước Bữa Tiệc Ly (x Jn 13:15).
Tóm lại, tất cả những gì phát xuất từ Chúa Kitô là Lời Nhập Thể đều là “những mạc khải phi thường”, những mạc khải trước hết được tỏ ra cho thành phần môn đệ của Người (x Mt 13:16-17), để họ có thể trở thành những chứng nhân của Thày (x Lk 24:48), thành phần sẽ được Người sai đi rao giảng ngay khi Người còn sống, như bài Phúc Âm tuần tới nói đến…
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
SỐNG LÀM SAO CHO ĐẸP LÒNG THIẾN CHÚA?
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Vì không được giúp đỡ - ngay cả trong Năm Sống Lời Chúa này - để biết cách liên hệ những bản văn Thánh Kinh, những truyện kể trong Cựu và Tân Ước với đời sống cá nhân và xã hội hiện tại của mình, nên đại đa số giáo dân Việt Nam khi nghe và đọc Thánh Kinh cứ tưởng nghe và đọc những chuyện đâu đâu của quá khứ xa xăm chẳng liên quan gì với đời sống đức tin của mình. Vì thế mà họ không khám phá ra tính “hiện sinh” và “hữu dụng” của Lời Chúa.
Chúng ta sẽ tập liên hệ những nhân vật và sự kiện trong bài sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en 2,2-5 và đoạn Phúc Âm Mác-cô 6,1-6 hôm nay với bản thân và cộng đoàn mình để tìm ra cách sống mà Thiên Chúa mong đợi và ưa thích.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh
(1) Bài đọc 1: Ed 2,2-5: Có một ngôn sứ của Thiên Chúa đang ở giữa dân.
2 Bấy giờ, thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng 3 Người phán với tôi: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. 4 Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: "ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này." 5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.
(2) Bài đọc 2: 2 Cr 12,7-10: Tự hào về yếu đuối của mình.
7 Thưa anh em, để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
(3) Bài Tin Mừng: Mc 6,1-6: Đức Giê-su về thăm Na-da-rét (Mt 13, 53-58; Lc 4,16-30)
1 Hồi ấy, Đức Giê-su trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: "Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao? " Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Ed 2,2-5) là một trích đoạn của Sách Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en trong đó vị ngôn sứ nói về sứ mạng mà Thiên Chúa đã ép ông phải nhận. Sứ mạng đó là nói Lời Thiên Chúa cho những người Ít-ra-en nổi tiếng là ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ!
Trong đoạn Thánh Kinh này chúng ta khám phá Thiên Chúa là Đấng chịu đựng sự ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ của dân Ít-ra-en và tìm mọi cách thay đổi họ, biến họ thành những người dễ bảo và vâng phục.
(2) Bài đọc 2 (2 Cr 12,7-10) là một đoạn của thứ thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô trong đó Thánh Phao-lô nói về sự yếu đuối hoặc khiếm khuyết hoặc cám dỗ thiêng liêng mà ngài phải chịu đựng suốt cuộc đời. Chúng ta không rõ đó là gì, vì Thánh Phao-lô nói một cách rất mơ hồ là “một cái dằm”. Cái dằm thì không đủ làm cho người ta chết, nhưng nó làm cho người ta đau đớn và khó chịu. Điều chúng ta cần ghi nhận là nhờ cái dằm ấy mà Thánh Phao-lô sống cách khiêm tốn giữa bao ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho ngài.
Trong đoạn Thánh Thư này chúng ta khám phá Thiên Chúa là Đấng ban mọi ơn cần thiết cho Phao-lô (và chúng ta), để Phao-lô (và chúng ta) sống đẹp lòng Thiên Chúa, làm chứng cho quyền năng của Thiên Chúa và phục vụ kế hoạch giúp dân ngoại trở về với Thiên Chúa.
(3) Bài Tin Mừng (Mc 6,1-6) là bài tường thuật của Phúc âm Mác-cô về tư tưởng và hành động của những người đồng hương Na-da-rét đối với Đức Giê-su. Khi thấy Đức Giê-su bộc lộ sự khôn ngoan khác người, dân làng Na-da-rét cũng ngạc nhiên và thắc mắc; nhưng họ hoặc chỉ dựa vào những gì họ biết về Người (cha mẹ, họ hàng, nghề nghiệp, tài sản và giai cấp xã hội) hoặc ganh tỵ không muốn Người hơn họ nên sinh ra nghi ngờ và trở thành những kẻ không tin Người, thậm chí còn xô đầy Người xuống vực (xem Lc 4,29).
Trong đoạn Phúc âm này chúng ta khám phá Chúa Giêsu là Đấng rất đơn sơ chân chất và rất hiền hòa, dễ thương: Bằng chứng là Chúa Giêsu tỏ ra ngạc nhiên về thái độ không tin của những người đồng hương và vui vẻ đi đến các làng chung quanh để giảng dạy.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Để khám phá ra sứ điệp của Lời Chúa hôm nay chúng ta thử trả lời hai câu hỏi này:
(1) Tôi, gia đình tôi, giáo hội tôi, dân tộc tôi có là những con người ngỗ ngược và cứng đầu cứng cổ đối với Thiên Chúa, giống như dân Ít-ra-en xưa không? Tôi, gia đình tôi, giáo hội tôi, dân tộc tôi có cứng lòng và nghi ngờ mà từ chối và không tin Chúa Giê-su Ki-tô không?
(2) Trước sự ngỗ ngược, cứng đầu cứng cổ và không tin của tôi cũng như của gia đình, giáo hội và dân tộc tôi, Thiên Chúa có thái độ nào? Chúa Giê-su Ki-tô có thái độ nào? Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô muốn gì ở tôi, ở giáo hội tôi, ở dân tộc tôi?
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Từ hai câu hỏi và trả lời trên, chúng ta sẽ thấy mình phải cố gắng trở thành những người con ngoan ngoãn, dễ thương, dễ bảo, biết lắng nghe và vâng lời Thiên Chúa, vì sống như thế là đẹp lòng Thiên Chúa và ích lợi cho chính mình.
Là người con ngoan ngoãn, dễ bảo của Thiên Chúa thì phải biết trân trọng và thực thi mệnh lệnh của Chúa là kính Chúa yêu người như Chúa đã truyền dạy.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương, kiên nhẫn và quảng đại vô cùng, Cha chẳng chấp tội phản nghịch, thói cứng đầu cứng cổ, óc hẹp hòi thiển cận của chúng con. Chúng con xin cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha.
Chúng con nài xin Cha ban cho chúng con hai ơn này:
* Một là ơn biết noi gương bắt chước Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Cha mà sống như những người con ngoan ngoãn và dễ bảo của Cha, và
* Hai là ơn biết quí trọng Thánh Kinh là Lời Hằng Sống của Cha để chúng con tìm vào kho tàng ấy mà học biết Thánh Ý Cha và thi hành Thánh Ý ấy trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn của chúng con. AMEN.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Sàigòn ngày 02.07.2006-
CHÚA CŨNG NGỠ NGÀNG
Trần Mỹ Duyệt
Con người sửng sốt, ngỡ ngàng và khâm phục trước những kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa, trước muôn ơn lành Ngài ban tặng cho trong cõi sống nhân sinh là điều bình thường và cần thiết. Vì quả thực: “Con người là chi mà Chúa tôi nhớ đến. Con người là chi mà Ngài để mắt trông nom.” Nhưng Thiên Chúa mà cũng ngỡ ngàng và sửng sốt đối với con người, thì đây là một điều khiến con người phải suy nghĩ, phải đắn đo. Bởi vì, con người chẳng là chi và chẳng có gì đáng cho Thiên Chúa phải sửng sốt cả.
Điều làm Thiên Chúa ngạc nhiên nơi con người là Đức Tin của nó. Và điều làm cho Ngài sững sờ nơi con người cũng chính là sự cứng lòng tin của nó.
Thật không thể tưởng tượng nổi một Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất mực nhân hậu, và rất mực quyền năng như Ngài mà lại bị con người chối bỏ để đổi lấy chút giầu sang, quyền lực và lạc thú chóng qua, tạm bợ.
Thật không thể tưởng tượng nổi một Thiên Chúa rất mực thánh thiện, rất mực tốt lành, đời đời vinh hiển mà lại bị con người chối bỏ để chọn lấy Satan là đầu mối mọi tội lỗi, đau khổ, xấu xa và thất vọng trầm luân.
Nếu Thiên Chúa có thể buồn, có thể giận, và có thể thất vọng thì đây là sự buồn phiền, bực bội, và thất vọng lớn lao nhất mà Ngài có thể chịu đựng từ phía con người. Do đó, khi Ngài thấy bất cứ ai dám đặt niềm tin nơi Ngài, đón nhận Ngài vào cuộc đời mình, nhất là mật thiết và sống với lời Ngài, thì sự ngỡ ngàng và niềm vui của Ngài không thể kìm hãm được. Ngài thật bỡ ngỡ như Tin Mừng Thánh Máccô đã diễn tả khi Ngài cảm thấy sức mạnh tình thương và chữa lành của Ngài toát ra vì cái động vào áo Ngài của một thiếu phụ.
Cái chạm tay của người thiếu phụ vào áo Chúa đã làm cho Ngài vui mừng đến không dấu nổi xúc động: “Chúa Giêsu nhận thấy có sức mạnh chữa lành từ Ngài phát ra. Đưa mắt nhìn đám đông, Ngài hỏi: “Ai đã chạm đến ta” (Mc 5:30). Và khi đã biết con người giầu lòng tin đó là ai, Ngài nói với bà: “Hỡi con hãy đi bình an và được chữa lành” (Mc 5:34). Thử hỏi nếu con người đụng chạm đến trái tim Ngài, tức là động chạm đến tình yêu của Ngài thì sự vui mừng và sung sướng ấy to lớn đến đâu!
Ngược lại với thái độ ân cần, yêu thương và săn sóc mà Ngài dành cho người thiếu phụ tin tưởng, là thái độ buồn phiền, ưu tư của Ngài trước sự cứng cỏi, lạnh lùng và thờ ơ của dân làng Ngài. Thánh Ký diễn tả: “Người không làm phép lạ nào ở đó, ngoại trừ đặt tay và chữa lành một vài bệnh nhân. Và Ngài lấy làm bỡ ngỡ vì sự cứng lòng tin của họ” (Mc 6:5-6).
Sự cứng cỏi và thờ ơ của đồng hương Ngài là điều khiến Chúa phải bỡ ngỡ, và cũng là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ. Phải chăng đó cũng là thái độ và lối sống của nhiều Kitô hữu chúng ta.
Vì tự cho mình biết Chúa, hiểu Chúa, nên chúng ta không còn trọng kính, tin tưởng nơi Ngài. Có lẽ cũng như những đồng hương Ngài, nhiều lần chúng ta cũng tự hỏi: “Ở đâu ông ấy nhận được những điều này. Sự khôn ngoan của ông được ban cho là gì? Tại sao tay ông làm được những phép lạ như thế? Ông ta chẳng phải là anh thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon? Chị em ông chẳng phải là hàng xóm với chúng ta ở đây sao?” (Mc 6:2-3). Đem áp dụng vào đời sống tâm linh và mối dây mật thiết với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu của nhiều Kitô hữu chúng ta lúc này cũng có thể diễn nghĩa: Chúng tôi là người đạo gốc. Chúng tôi chịu phép Rửa từ nhỏ. Chúng tôi thường xuyên dâng lễ, tham dự thánh lễ, chầu Thánh Thể, rước Thánh Thể, nghe đọc Thánh Kinh và cầu nguyện. Nhưng nào đâu thấy Chúa? Nào được việc gì? Chúa vẫn ở đâu đâu, và kiếp sống con người vẫn chẳng là một gánh nặng đè trên cuộc sống chúng tôi sao? Những suy nghĩ ấy, những lối sống ấy đã làm ngạc nhiên, sửng sờ đối với Thiên Chúa. Một phản ứng mang ý nghĩa tiêu cực, một điều mà như Chúa Giêsu đã có đối với đồng hương của Ngài. Nó khiến Ngài không thể làm gì được ngoại trừ một vài ân huệ nho nhỏ mà Ngài có thể thực hiện.
Trong nhiều trường hợp Kitô hữu chúng ta cũng giống như quần chúng thời Ngài. Chúng ta chen chúc đi đến thánh đường. Lô lấn lên hôn chân Chúa. Vội vàng lên rước Thánh Thể. Bực tức vì bỏ lỡ một buổi rước kiệu. Khó chịu vì không được đồng tế trong một thánh lễ long trọng có Giám Mục chủ sự. Không được giảng nhân ngày đại hội đông đảo. Than ôi! Chúng ta chen lấn, giành giật và cố đến gần Chúa, nhưng lại chưa một lần động vào được Chúa như cái chạm áo của người đàn bà mang bệnh loạn huyết.
Thật vậy, những lần chúng ta dâng lễ, tham dự thánh lễ, rước Mình Máu Thánh Chúa nhưng đã không một đụng chạm khiến Chúa ngỡ ngàng. Bởi vì đó chỉ là những hành động, những việc làm mang tính xô lấn, va chạm ồn ào quanh Chúa; nhiều khi còn mang tính cách phô trương, tìm mình nên khiến Ngài dù muốn tâm sự, muốn chia sẻ với chúng ta cũng không được. Cũng thế, bao nhiêu lần chúng ta nghe lời Chúa, đọc lời Chúa, cần xin với Chúa mà vẫn không đụng chạm được đến Chúa. Bởi vì đó cũng chỉ là những tiếng la lối, ồn ào khiến Chúa dù muốn lắng nghe cũng không hiểu ta nói gì và xin gì.
Tâm trạng ấy, lối sống ấy quả thực gây cho Người sự ngạc nhiên. Có lẽ Ngài cũng không hiểu sao sự cứng cỏi, và thờ ơ của con người lại mãnh liệt, mạnh mẽ và ghê gớm đến thế!
Tâm trạng ấy, lối sống ấy như những tâm trạng và thái độ của đồng hương Ngài. Những người cho rằng mình đã hiểu, đã biết rất rõ về gia thế, và con người của Ngài, nhưng lại không chấp nhận Ngài như là một Cứu Chúa!
Khi còn nhỏ, tôi vẫn tự hỏi tại sao Chúa lại phải chết cho nhân loại. Và tại sao Ngài lại phải chịu đóng đinh trên thập giá. Chết như vậy Ngài có đau không?! Trong những lúc suy niệm như thế, tôi cũng muốn thông cảm với nỗi đau và cực hình của Ngài nhưng không sao hiểu nổi và cảm nổi. Nhiều lần, nhất là trong những tuần Thương Khó, một mình âm thầm trong nhà nguyện, tôi đã thử lấy tay véo mạnh vào người để cảm được nỗi đau của Chúa, và để hiểu Ngài thương yêu tôi như thế nào, nhưng tôi vẫn không hiểu.
Sau này khi lớn khôn và nhờ tình yêu thương Chúa, tôi đã từ từ hiểu và cảm được lý do cũng như nỗi đau của Ngài khi phải chết cho con người. Câu trả lời ấy đến từ cảm nghiệm lời Chúa qua Tin Mừng Thánh Máccô mà tôi đang suy niệm hôm nay. Nó đã thức tỉnh lòng tôi và làm cho tôi hiểu rằng Chúa đã chết một lần, nhưng nếu Ngài có thể chết không phải một mà là ngàn lần đi nữa thì vẫn còn có kẻ không tin. Đối với họ, Chúa Giêsu quê quán Nazareth ai mà chả biết. Con bà Maria, anh em với Giacôbê, với Giuse, với Simon và Giuđa ấy ai mà chả biết. Một anh phó mộc ấy ai mà chả biết. Những cái biết ấy họ muốn thay thế cho những cái biết qua ánh mắt Đức Tin. Bởi vì nếu nhìn Ngài bằng cặp mắt Đức Tin, thì họ phải thay đổi lối nhìn và lối sống là điều mà họ không muốn. Và đó cũng là lý do tại sao Đức Tin con người có thể động chạm đến Ngài, khiến sức mạnh chữa lành phát ra từ Ngài, và làm cho Ngài phải bỡ ngỡ.
|