Chúa Nhaät

Ngày 9/3: Thánh Frances of Rome (1348-1440)

Lập gia đ́nh với một vị lănh quân của Toà Thánh.

Gương mẫu trong đời sống khổ chế và hôn nhân.

Quan thày thành Rôma, giới góa phụ và lái xe gắn máy.


CHÚA NHẬT I MÙA CHAY


BÀI ĐỌC I: Gen 2:7-9; 3:1-7
“Nguyên tổ được tạo thành, và phạm tội”


Bài trích sách Sáng Thế.

Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vườn tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đă dựng nên. Thiên Chúa cho từ đất mọc lên mọi thứ cây trông đẹp, ăn ngon, với cây sự sống ở giữa vườn, và cây biết thiện ác. Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi dă thú mà Thiên Chúa tạo thành. Nó nói với người nữ rằng: Có phải Thiên Chúa đă bảo: “Các ngươi không được ăn mọi thứ cây trong vườn”? Người nữ nói với con rắn: “Chúng tôi được ăn trái cây trong vườn; nhưng trái cây ở giữa vườn th́ Thiên Chúa bảo: “Các ngươi đừng ăn, đừng động tới nó, nếu không sẽ phải chết”. Rắn bảo người nữ: “Không, các ngươi không chết đâu! Nhưng Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh”. Người nữ thấy trái cây đẹp mắt, ngon lành và thèm ăn để nên thông minh. Bà hái trái cây ăn, rồi lại cho chồng, người chồng cũng ăn. Mắt họ liền mở ra và họ nhận biết ḿnh trần truồng, nên kết lá vả che thân.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Lạy Chúa, nguyện thương tôi theo ḷng nhân hậu Chúa.
 

1. Lạy Chúa, nguyện thương tôi theo ḷng nhân hậu Chúa, xóa tội tôi theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa tôi tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy tôi sạch lâng tội ác.
2. V́ sự lỗi tôi, chính tôi đă biết, và tội tôi ở trước mặt tôi luôn. Tôi phạm tội phản nghịch cùng một Chúa.
3. Ôi lạy Chúa, xin tạo cho tôi quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người tôi. Xin đừng loại tôi khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi tôi.
4. Xin ban lại cho tôi niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng tôi. Lạy chúa, xin mở môi tôi, để miệng tôi sẽ loan truyền lời caXin ban lại


BÀI ĐỌC II: Rom 5:12, 17-19
“Chỗ mà tội lỗi đă đầy tràn, th́ ân sủng đă đầy dàn dụa”


Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đă nhập vào thế gian, và do tội lỗi có sự chết, và thế là sự chết đă truyền đến mọi người, v́ lẽ rằng mọi người đă phạm tội. V́ nếu bởi tội của một người mà sự chết đă thống trị do một người đó, th́ những người lănh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Đức Giêsu Kitô. Do đó, tội của một người truyền đến mọi người đưa tới án phạt như thế nào, th́ đức công chính của một người truyền sang mọi người đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. V́ như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, th́ do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế.

Lời của Chúa.


(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.


PHÚC ÂM: Mt 4:1-11
“Chúa Giêsu nhịn ăn bốn mươi ngày đêm, và chịu cám dỗ”.


Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêô.

Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Khi Người đă nhịn ăn bốn mươi đêm ngày, Người cảm thấy đói. Và tên cám dỗ đến gần, nói với Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hăy khiến những ḥn đá nầy biến thành bánh”. Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Bấy giờ ma quỷ đưa người lên Thành Thánh, và đặt Người trên góc tường Đền Thờ, rồi nói với Người rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hăy gieo ḿnh xuống đi, v́ có lời chép rằng: Ngài đă ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá”. Chúa Giêsu đáp: “Cũng có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa, là Thiên Chúa ngươi”. Quỷ lại đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp ḿnh xuống thờ lạy tôi”. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo nó rằng: “Hăy lui đi, hỡi Sa Tan! V́ có lời đă chép: “Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một ḿnh Ngài”. Bấy giờ ma quỷ bỏ Người. Và các thiên thần tiến lại, hầu hạ người.

Phúc Âm của Chúa.

 

 

 

Suy Niệm

 

 

Nếu chay tịnh là để … th́ đi tu là yêu đời …


 


Niên lịch phụng vụ của Giáo Hội đă chính thức bước Mùa Chay được bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro. Bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay bao giờ cũng về biến cố Chúa Giêsu chay tịnh 40 đêm ngày trong sa mạc và chịu ma quỉ cám dỗ. Tuy nhiên, bài Phúc Âm của Thánh Marcô cho Phụng Vụ Chu Kỳ Năm B, không dài ḍng như Phúc Âm Thánh Mathêu và Thánh Luca đi sâu vào diễn tiến Người bị cám dỗ ra sao, chỉ nhắc đến sự kiện Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ mà thôi: “Thần Linh đưa Chúa Giêsu vào sa mạc. Người ở trong nơi hoang vắng này 40 ngày, bị Satan cám dỗ. Người ở giữa những hoang thú, và được các thiên thần hầu cận”. Giáo Hội đă lợi dụng cái ngắn gọn của Phúc Âm Thánh Marcô ở chỗ này để thêm một chi tiết rất quan trọng vào ngay sau khi Chúa Giêsu chay tịnh và chịu cám dỗ, một chi tiết mà dường như Giáo Hội muốn con cái ḿnh phải nhận thức là việc chay tịnh phải hướng đến vấn đề truyền đạt sự sống nội tâm, nghĩa là để làm việc tông đồ: “Sau khi Gioan bị bắt giam, Chúa Giêsu xuất hiện ở Galilêa loan báo tin mừng của Thiên Chúa: ‘Đây là thời gian viên trọn. Triều đại Thiên Chúa đă đến! Hăy cải thiện đời sống và tin vào tin mừng!’”

Về sự kiện Chúa Giêsu chay tịnh và bị Satan cám dỗ, Phúc Âm Thánh Marcô c̣n thêm một chi tiết không có trong Phúc Âm Thánh Mathêu, nhất là trong Phúc Âm Thánh Luca. Chi tiết đó là “Người ở giữa những hoang thú, và được các thiên thần hầu cận”. Căn cứ vào câu Phúc Âm của Thánh Marcô đây, th́ chi tiết thứ hai, “và được các thiên thần hầu cận”, tự nhiên làm cho người đọc khách quan, chẳng hạn những người không phải Kitô hữu, sẽ nghĩ rằng, Chúa Giêsu chay tịnh kiểu đó th́ ai mà chẳng chay tịnh được, chay tịnh kiểu có các thiên thần hầu cận, một sự kiện có thể hiểu được là hễ bao giờ thân xác của Người cảm thấy đói quá hay khát quá theo bản tính yếu đuối hạn hữu của loài người th́ các thiên thần đem bánh trái cho Người ăn hay nước nôi cho Người uống. Thế nhưng, về vấn đề Chúa Giêsu có ăn uống ǵ không trong 40 ngày này, Phúc Âm Thánh Luca đă ghi nhận như sau: “Trong thời gian đó, Người đă không ăn uống ǵ nên sau đó Người cảm thấy đói” (4:2). C̣n vấn đề các thiên thần hầu cận Người có cho Người ăn trong thời gian này chăng, Phúc Âm Thánh Mathêu ghi nhận là sau khi “ma qủi bỏ Người mà đi th́ các thiên thần đă đến phục dịch Người” (4:11).

Tuy nhiên, ở đây, trong đoạn tŕnh thuật rất ngắn ngủi của Thánh Marcô về biến cố 40 ngày trước khi Chúa Giêsu chính thức bước vào cuộc đời công khai của Người, Phúc Âm đă cho chúng ta thấy được tất cả mọi sự đă được Thiên Chúa dựng nên ngay từ ban đầu, bao gồm hết mọi loài. Trước hết là khoáng vật, được biểu hiệu nơi cảnh “sa mạc” đầy những đất đá khô cằn, (bởi thế Satan đă lợi dụng những ǵ có sẵn ở đó như “đá” để cám dỗ Chúa Giêsu biến đá thành bánh mà ăn cho đỡ đói, như được Phúc Âm Thánh Mathêu và Luca đều thuật lại ở đoạn 4 câu 3). Thứ đến là thực vật cây cối là những ǵ tuy không minh nhiên được nói đến theo ngôn từ như chữ “sa mạc” trên đây, nhưng sự kiện có những loài hoang thú ở với Người đă chứng tỏ nơi Người ở có thể là một khu rừng “hoang vắng” không ai sinh sống. Sau nữa là đến loài vật, như rơ ràng được Phúc Âm ghi nhận, nhưng là hoang thú dữ tợn, “ăn tươi nuốt sống” theo luật rừng, theo bản năng, chứ không phải như loài gia súc thuần thục hiền lành quen sống bên con người. Sau hết là loài thần thiêng vô h́nh được Phúc Âm nói đến, thành phần hầu cận Chúa Giêsu. Chưa hết, loài thần thiêng ở đây, trong trường hợp này, không phải chỉ có thần lành mà c̣n có cả thần dữ là Satan nữa. Tất nhiên loài người ở đây được hiện thân ngay nơi bản thân Chúa Giêsu, một con người lịch sử, một con người có xác thịt thật sự, cũng cảm thấy đói khát như ai. Cũng chính ở đoạn Phúc Âm của Thánh Marcô ngắn ngủi này, chúng ta c̣n thấy những ư nghĩa hết sức sâu xa sau đây.

Trước hết, thân phận loài người là thân phận đệ nhất trong tất cả mọi tạo vật, một thân phận chẳng những chủ trái đất (x Gen 1:28), mà c̣n được thiên thần hầu cận nữa. Thật ra, các thiên thần đến hầu cận Chúa Giêsu v́ Người chẳng những là người thật mà c̣n là Thiên Chúa thật của các vị nữa. Thế nhưng, vấn đề ở đây là các vị không hầu cận một Vị Thiên Chúa Vô Cùng cao cả trên thiên đ́nh, mà là hầu cận một Vị Thiên Chúa Làm Người, một Vị Thiên Chúa không mặc lấy bản tính của các vị mà là bản tính của một loài hèn kém hơn các vị. Có thể nói, nhân tính của Chúa Giêsu là các tầng trời và thân xác của Người là ngai ṭa Vị Thiên Chúa Cao Cả ngự trị để các thần trời chầu chực tôn thờ. So sánh với cấu trúc của Lều Tạm (x Heb 9:2) hay đền thờ Giêrusalem th́ có thể ví nhân tính của Chúa Giêsu là nơi cực thánh (x Heb 9:3) và thân xác của Người là ḥm bia được các tượng thần cherubim rủ cánh (x Heb 9:5) ở trong nơi cực thánh biểu hiệu cho nơi Thiên Chúa ngự này. Nếu so sánh với các nguyện đường Công Giáo th́ nhân tính của Người là cung thánh và thân xác của Người là nhà tạm Thánh Thể vậy.

Sau nữa, h́nh ảnh Chúa Giêsu sống giữa các con hoang thú này đă gợi lại cảnh địa đàng khi con người mới được tạo dựng, đúng hơn khi mà con người đầu tiên Adong c̣n đang sống cô đơn lẻ loi giữa loài thú, một con người đang làm chủ chúng và thấu biết từng con, qua việc đặt tên cho chúng thế nào th́ chúng nên như vậy (x Gen 2:18-20). Việc các con hoang thú vốn sống theo bản năng dữ tợn ở chung quanh Chúa Giêsu mà không cắn xé Người cũng chứng tỏ cho thấy chúng nhận biết Vị Thiên Chúa Làm Người này, và chúng chỉ phục tùng những con người nào biết làm chủ bản thân ḿnh như Người, tức biết làm theo ư Đấng Tạo Thành là đệ nhất chủ tể của chúng. Thật vậy, nếu hoang thú biểu hiệu cho bản năng lăng loàn, mà con người tràn đầy Thần Linh có thể làm chủ được bản năng của ḿnh, th́ không phải là họ có khả năng làm chủ hoang thú, ở chỗ, làm cho chúng thuần phục họ, không phải thuần phục một con người thuần túy, mà là một con người chỉ biết làm theo ư Chúa, tức một con người sống động phản ảnh Vị Chúa Tể của chúng hay sao?

Sau hết, sự kiện Satan xuất hiện ở đây chẳng những cho thấy việc chúng hồ nghi con người Chúa Giêsu vô cùng lạ đời này chính là “miêu duệ người nữ… sẽ đáp nát đầu hắn” (Gen 3:15), mà c̣n gợi lại cảnh địa đường, nơi hắn lấy h́nh con rắn để cám dỗ nữ nguyên tổ Evà. Thế nhưng, nếu Evà bị sa ngă v́ theo ư riêng của bà, theo sở thích tự nhiên của con người bà thúc đẩy thế nào th́ ở đây Chúa Giêsu đă thắng được chước cám dỗ v́ Người lúc nào cũng chỉ làm theo Ư Cha của Người, cũng làm theo Thần Linh thúc đẩy như vậy. Ở chỗ, dù đói, tức dù Người được phép ăn và được quyền ăn để bảo vệ sự sống, Người vẫn nhất định không ăn, chẳng những không ăn theo bản năng tự nhiên, mà nhất là không ăn khi đang bị ma quỉ cám dỗ, bằng không, việc ăn uống của Người bấy giờ là việc ăn uống theo chước cám dỗ, theo ư Satan, theo bản năng như con vật là loài sẽ không phục Người nữa v́ Người cũng chẳng hơn ǵ chúng. Việc các thiên thần đến hầu cận Chúa Giêsu sau khi Người thắng được tất cả mọi chước cám dỗ, cách riêng chước cám dỗ đầu tiên về xác thịt, cho chúng ta thấy Người chỉ t́m của ăn không hư nát, đúng như Người đă cho Satan biết rằng: “Con người sống không nguyên bởi bánh, mà c̣n bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4; x Lk 4:4).

Thật thế, chỉ có bao giờ con người biết làm chủ ḿnh, biết khao khát và sống bởi Lời Chúa, sống theo ư Chúa, sống theo Thần Linh như Chúa Giêsu Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay, họ mới có thể rao giảng lời Chúa, loan báo Tin Mừng Cứu Độ mà thôi. Chúng ta nên để ư là, trước khi công khai thực hiện công cuộc loan báo Nước Trời và rao giảng Phúc Âm, Chúa Giêsu đă làm hai việc, việc thứ nhất liên quan đến phần hồn, đó là việc lănh nhận phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở Sông Dược-Đăng, và việc thứ hai liên quan đến phần xác, đó là việc chay tịnh 40 ngày trong hoang địa. Việc Chúa Giêsu lănh nhận phép rửa và chay tịnh này, đối với Người, một con người hoàn toàn vô tội, một Thiên Chúa Làm Người, hoàn toàn là những ǵ không cần thiết, nếu không muốn nói là bất xứng hợp. Tuy nhiên, sở dĩ Người cần phải thực hiện những hành động tiền Phúc Âm này là v́ những lư do sau đây. Lư do thứ nhất, đó là Người muốn tỏ ḿnh ra qua nhân tính tràn đầy Thần Linh của Người, hay nói cách khác, Người muốn nhân tính của Người nói chung và thân xác của Người nói riêng mỗi ngày một trào tràn Thần Linh, cho đến nhân tính này, qua thân xác phục sinh của Người, trở thành phương tiện thông ban Thần Linh cho loài người: “Bấy giờ Người thở hơi trên các vị mà nói: ‘Các con hăy nhận lấy Thánh Linh’” (x Jn 20:21-22). Lư do thứ hai, đó là Người muốn làm gương cho thành phần môn đệ của Người, thành phần muốn theo Người, thành phần sẽ tiếp tục và sẽ thay Người thực hiện sứ mệnh loan báo Nước Trời và rao giảng Tin Mừng của Người khắp thế gian cho đến tận cùng trái đất.

Như thế, việc Chúa Giêsu chay tịnh trước khi chính thức nhập cuộc loan báo Nước Trời và rao giảng Thống Hối, như bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay Năm B hôm nay cho thấy, là một chứng cớ hùng hồn cho thấy nhưng sự thật sau đây.

Trước hết, đời sống nội tâm phải là nguồn mạch của hoạt động tông đồ truyền giáo, bằng không, không biết hay không đủ khả năng làm chủ ḿnh, sống theo Thần Linh thúc đẩy, sống theo ư Chúa, con người tông đồ tự động sẽ, một là ngă gục, gẫy cánh, bỏ cuộc v́ bị gánh nặng tông đồ đè bẹp, nhất là khi gặp chống đối, trở ngại, hai là, thậm chí có thể đi đến chỗ làm gương mù, như nạn linh mục làm dụng t́nh dục ở Hoa Kỳ bùng nổ từ đầu năm 2002, hay là trở thành cấp tiến, rối đạo và phá đạo, như một số vị giáo sư dạy trong các đại học Công Giáo, hay như một số thần học gia phổ biến những chủ trương phản tinh thần Chúa Kitô và Giáo Huấn Tông Truyền của Giáo Hội. Thử hỏi, những con người Kitô hữu phá giới hay cấp tiến này có thể tỏ ra những hành động phản tông đồ tác hại cho cả bản thân cũng như cho Giáo Hội này hay chăng, nếu họ có một đời sống nội tâm, được thể hiện qua việc năng lănh nhận các bí tích, như gương Chúa Giêsu đă lănh nhận phép rửa thống hối của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, cũng như qua việc chay tịnh, hy sinh, hăm ḿnh, nguyện cầu như Người đă làm trong hoang địa 40 ngày?

Sau nữa, việc chay tịnh không phải là để làm khổ hay làm hại thân xác cao quí của con người, mà là, đúng hơn, để sửa soạn cho nó phục sinh vinh hiển tốt lành như thân xác của Chúa Kitô. Chính v́ chay tịnh liên quan đến Phục Sinh mà việc này đă được Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm Thứ VIII Mùa Thường Niên Năm B, liên kết nó với việc ra đi tử nạn của Người (x Mk 2:19-20), một cuộc ra đi không phải để chết mà là để phục sinh vinh hiển, để làm chủ tội lỗi và sự chết. Bất cứ việc chay tịnh, hăm ḿnh nào không nhắm đến hay đưa đến niềm vui phục sinh, không sinh hoa trái tông đồ, đều là những việc hủy hoại bản thân, ngược lại với tinh thần Chúa Kitô và đường hướng Phúc Âm. Chay tịnh chính đáng và thực sự chẳng khác ǵ như việc của một hạt lúa miến được gieo xuống đất mục nát đi để nhờ đó có khả năng sinh nhiều hoa trái (x Jn 12:24). Đó là lư do ơn gọi tu tŕ Kitô giáo không phải là ơn gọi sống siêu thoát một ḿnh, trái lại, ơn gọi này là một ơn gọi tông đồ, ơn gọi phục vụ, ở chỗ bỏ ḿnh đi để dấn thân cho đời, phục vụ đời: “Không phải các con đă chọn Thày, song chính Thày đă chọn các con và sai các con đi để các con sinh hoa trái” (Jn 15:16). Như thế, hành động bỏ thế gian đi tu của người môn đệ Chúa Kitô là hành động yêu đời và cho đời, là việc “đến để phục vụ” như Thày chí thánh của họ vậy (x Mt 20:28)!

 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
 

 

 

 

HĂY XÉ L̉NG ĐỪNG XÉ ÁO
(Joel 2:13)


Trần Mỹ Duyệt
 

 



Nếu ai đă có kinh nghiệm về một lần đứt tay, gẫy tay chân, trật gân, hoặc đă qua một lần giải phẫu đều có cảm giác là, những tai nạn ấy ít nhiều đă gây ra những khó chịu và đau đớn. Tùy theo từng trường hợp, ảnh hưởng của những cơn đau này có thể làm phát sinh những triệu chứng tâm bệnh. Đó là một h́nh thức tâm sinh lư bị ảnh hưởng do những cơn đau đớn, hoặc sợ hăi làm mất ăn, mất ngủ, bàng hoàng, hồi hộp, và đôi khi suy giảm trí nhớ. Nhưng những điều này vẫn không thể so sánh được với cái đau của việc phải “xé ḷng” ḿnh ra. Thế mà Kinh Thánh lại dùng h́nh ảnh “xé” này để chỉ về hành động xám hối, quay trở về với Thiên Chúa, về với cuộc sống tâm linh: “Hăy xé ḷng, đừng xé áo”. Điều này phải hiểu rằng, Thiên Chúa không chấp nhận việc xé áo như một hành động quay trở về, một hành động hoán chuyển, và thống hối. Ngài muốn con người phải “xé ḷng”. Đ̣i hỏi của Ngài ít nhất mang 3 ư nghĩa: Thống hối, sửa sai, và bác ái.

THỐNG HỐI:

Xé ḷng ḿnh cũng hiểu tương đương như chết. V́ có ai xé ḷng ḿnh, xé ruột gan ḿnh mà sống được bao giờ. Họa may con người có thể sống thiếu một cánh tay, một cái chân, một con mắt hay một cái tai, nhưng không thể thiếu ruột gan, tim, phổi. Vậy tại sao Thiên Chúa không hài ḷng với việc con người xé áo như một hành động thống hối. Aùo quần, dù thuộc loại đắt tiền cũng chỉ được khoác ngoài thân thể, mà không đi nhập vào thân thể. Người ta thay đổi áo quần thường ngày mà không cảm thấy đau đớn, nhưng đứt tay, gẫy chân, gẫy tay, hoặc bị mổ xẻ th́ lập tức cảm thấy đau đớn.

Nhưng nếu muốn thống hối thành thật, muốn quay trở về với Thiên Chúa, th́ không c̣n cách nào hơn bằng việc con người phải chấp nhận xé ḷng ḿnh. V́ phải xé ḷng ḿnh mới nói lên được chủ ư đoạn tuyệt với quá khứ, với tội lỗi. Và phải xé ḷng ḿnh ra ta mới có thể nh́n vào để thấy rơ tâm tư ḿnh. Sự quay trở về sẽ không thực hiện được, nếu ta không nhận ra ḿnh là ai, đang ở đâu, và như thế nào.

Tuy nhiên, khi Thiên Chúa đ̣i hỏi con người phải xé ḷng ḿnh, th́ cũng là một h́nh thức Ngài đưa ra một đề nghị giúp con người có thể hoàn tất việc thống hối của ḿnh, v́ hành động xé ḷng ḿnh ra dưới h́nh thức nào cũng là một đ̣i hỏi vượt quá sức con người. Mà bởi v́ con người không tự ḿnh làm được, nên phải cậy nhờ Thiên Chúa.

Tóm lại, th́ như người cha “giơ cao mà đánh khẽ”, Thiên Chúa cũng chỉ cần con người thành thật với ḿnh, và quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ. Sự thôi thúc và ước muốn trở về ấy cũng chính là niềm thao thức và an ủi cho tâm hồn. Augustin đă cảm nhận được điều này khi viết: “Trái tim tôi được tạo dựng nên cho một ḿnh Thiên Chúa. Nó không ngừng thao thức cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài”.

SỬA SAI:

Sự thống hối, trở về với Thiên Chúa như Augustin vừa cảm nhận là một việc làm êm đềm và hạnh phúc. V́ mặc dù Thiên Chúa đ̣i hỏi con người phải xé ḷng ḿnh để lục lọi và xem xét kỹ lưỡng, nhưng Ngài cũng lại là một người Cha rất mực nhân từ trước những lầm lỡ của con cái. Ngài là Thiên Chúa “chậm bất b́nh và rất mực khoan nhân”. Việc Ngài đ̣i con người trở về với cuộc sống ân sủng, và vai tṛ làm con Chúa của ḿnh, là Ngài muốn con người thật sự sống trong hạnh phúc và b́nh an. Hạnh phúc và b́nh an tâm hồn chứ không phải thể chất.

Có ǵ trên đời này quí giá hơn b́nh an và hạnh phúc, nhất là sự b́nh an và hạnh phúc dẫn ta đến sự b́nh an và hạnh phúc đời đời. Do đó, cho dù con người có phải từ bỏ cả mạng sống ḿnh để chiếm hữu niềm b́nh an và hạnh phúc này, th́ sự đánh đổi ấy vẫn chưa tương xứng. Đức Kitô đă nói: “Aùch ta êm, và gánh ta nhẹ”. Aùch mà êm, gánh mà nhẹ th́ chỉ là một kiểu nói chơi. Nhưng Thiên Chúa lại không nói chơi khi khẳng định như vậy, v́ so với những ách nặng nề, cồng kềnh của kiêu căng và hận thù, của dục vọng và nhiều đam mê khác, th́ việc làm tôi kính mến Thiên Chúa, sống ḥa thuận với tha nhân là một việc làm nhẹ nhàng, mà kết quả lại rất tốt lành.

Những ai đă từng có kinh nghiệm với những dằn vặt, khống chế của đam mê, của rượu chè, của dục vọng, và những thù hận trong cuộc sống. Hoặc những ai đă có kinh nghiệm với sự ác độc, thâm hiểm của con người, và sự cắn rứt của lương tâm, đều cảm thấy rằng lời Đức Kitô đúng, và ách của Ngài, gánh của Ngài rất nhẹ nhàng, êm ái.

Tóm lại, việc sửa sai lại những hành động sai trái và loại bỏ khỏi ḷng ḿnh những hệ lụy, những hướng chiều của tội lỗi, của đam mê là một việc làm đúng, và phải làm để được ơn xám hối, và sự b́nh an của tâm hồn.

BÁC ÁI:

Sau khi đă lục lọi, đă t́m kiếm để sửa sai cuộc sống ḿnh, con người mới cảm nhận được sự thu hút êm ái và hạnh phúc của t́nh Chúa yêu thương. Đồng thời cũng hiểu rằng ḿnh phải có trách nhiệm chia sẻ hạnh phúc ấy với tha nhân. Thông thường, ta vẫn nghĩ rằng ḿnh không làm ǵ sai trái, không ăn trộm, không cướp của, không giết người, do đó, ḿnh không cần phải thống hối, và không lỗi bác ái. Nhưng đức ái trọn hảo không chỉ căn cứ vào những hành động tối thiểu ấy, mà nó c̣n phải vượt qua khỏi tầm nh́n ích kỷ và tiêu cực của con người.

Chỉ có đức ái trọn hảo mới giả thích được thế nào là hành động chia cơm, xẻ áo. Cũng chỉ có đức ái trọn hảo mới giải thích được rằng tại sao Con Thiên Chúa chết treo trên thập tự giá cho con người, mặc dù con người không bao giờ có ǵ đền đáp cân xứng. Và cũng chỉ có đức ái trọn hảo mới giải thích được bài học bác ái của người Samarita nhân lành. Người này đă làm việc bác ái không v́ phải làm, mà v́ tự nguyện và v́ t́nh thương thôi thúc. Nhưng bác ái nhất vẫn là đem Chúa đến cho tha nhân, nh́n và khám phá Chúa trong tha nhân. Thương yêu, và mến Chúa trong tha nhân.

Tóm lại, khi xé ḷng ḿnh như Chúa đ̣i hỏi, Kitô hữu tự nhiên sẽ hiểu được ḿnh như thế nào, và cũng một lượt cảm nhận được bổn phận phải xám hối. Và sau khi đă t́m gặp Chúa, đă nếm hưởng được t́nh yêu ngọt ngào của Ngài, ngựi Kitô hữu cũng phải có trách nhiệm chia sẻ niềm vui an b́nh ấy cho tất cả những ai mà ḿnh hằng ngày vẫn hằng giao tiếp. Không những bằng tinh thần, mà cả của cải vật chất trong những điều kiện thuận lợi và khả năng. Mùa Chay là mùa của xám hối, quay về, và bác ái.