Chúa Nhật

Ngày 14/12: Thánh Spyridion

Sống sót sau cuộc hành hình trong thời bách đạo của Diocletian.

Tham dự Công Đồng Chung Nicêa.

Bênh vực Tín Điều Chúa Ba Ngôi.

 


CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG
NĂM C


BÀI ĐỌC I: Soph 3:14-18a
“Chúa sẽ hân hoan vì người”

Bài trích sách Tiên tri Sophonia.

Hỡi thiếu nữ Sion hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa các ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Đấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ qui tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Đấng Thánh của Israel thật cao cả.

1.      Đây Thiên Chúa, Đấng cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Đấng tôi ca ngợi. Người trở nên phần rỗi của tôi.

2.      Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Đấng cứu độ: Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu thánh danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người, hãy nhớ rằng danh Người rất cao trọng.

3.      Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hỡi dân Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Đấng Thánh của Israel thật cao cả.


BÀI ĐỌC II: Phil 4:4-7
“Chúa gần đến”

Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên. Đức ôn hòa của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết nhưng trong khi cầu nguyện anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.

Lời của Chúa.


(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. — Alleluia.


PHÚC ÂM: Lc 3:10-18
“Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: “Vậy chúng tôi phải làm gì?” Ông trả lời: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”. Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” Gioan đáp: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”. Các quân nhân cũng hỏi: “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” Ông đáp: “Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”. Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: “Có phải chính ông là Đức Kitô chăng?” Gioan trả lời cho mọi người rằng: “Tôi thì lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người. Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!”. Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng trong dân chúng.

Phúc Âm của Chúa.

 

SUY NIỆM

 

HÃY VUI LÊN 

Thánh Phaolô trong thư gửi Giáo Đoàn Philípphê đã viết: “Anh em thân mến, anh em hãy vui lên trong Chúa”. Và Ngài đã nhấn mạnh: “Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên” (Phil 4:4).  Ngài cũng đã viết cho Giáo Đoàn Thesalônica bằng một ý nghĩa tương tự: “Hãy vui mừng luôn” (Thes 5:16). Lễ Giáng sinh đang gần kề, Niềm Vui Giáng Sinh đang trở thành tâm điểm của mọi lời cầu chúc, và Giáo Hội đã dùng lại lời của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại nhắc nhở với mọi tín hữu về một niềm vui lớn: Kỷ niệm ngày hạ sinh của Đấng Cứu Thế.  

Trong Thánh Kinh, hàng trăm lần từ ngữ “vui mừng” và “hoan hỷ” được nhắc đi, nhắc lại. Điều này cho biết niềm vui, niềm hân hoan, vui sướng thật của ta là chính Thiên Chúa và phát xuất cũng từ nơi Ngài. Nói một cách khác, là nhân loại chỉ được hân hoan và vui thỏa trong Chúa cũng như những gì xuất phát từ Ngài.  

Như Đức Trinh Nữ Maria xưa, ta chỉ tìm được và chỉ được vui mừng khi biết hòa mình vào cuộc sống và hơi thở của Thiên Chúa. Maria đã thốt lên lời vui mừng này khi hiểu rằng mình được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa, và đã thực sự đón nhận đề nghị này bằng tâm tình và lòng mến qua tiếng “xin vâng” (Luc 1:46). Chỉ khi đó, Mẹ mới có thể hân hoan mà ca lên rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa; thần trí tôi vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Chuộc tôi, vì Người đã thương đoái nhìn tới phận hèn nữ tì Ngài” (Luke 1:46-47). Các mục đồng là những người trong đêm Giáng Sinh đã nhận được niềm vui của Thiên Chúa từ lời loan báo của các thiên thần: “Ta báo cho anh em một tin rất vui mừng” (Luc  2:10). Nhưng họ chỉ cảm nghiệm được niềm vui ấy khi họ lên đường lận lội dưới màn đêm và trong tuyết rơi tìm đến hang Belem. Và chỉ ở đó họ mới hiểu thế nào là Niềm Vui mà các thiên thần đã loan báo, và lúc ấy họ mới: “Hân hoan và ra về chúc tụng Thiên Chúa” (Luc 2: 20). 

Theo Barry Folmar, “Niềm vui là một quà tặng tinh thần. Ta không thể điều khiển hay tạo mãi ra được. Nó liên quan tới những hành động xẩy ra do lòng biết ơn và sự cảm khích khi ta cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của Chúa”. Theo đó, thì  niềm vui không phải chỉ dành cho lớp người mộ đạo. Thiên Chúa có nhiều cách thế để tiếp xúc với con người, và từng người trong cuộc sống thường ngày: Ngài đến với ta qua hình ảnh người bạn cố tri mà nhiều năm chưa gặp mặt. Ngài là người tình đang sánh bước bên ta; tay trong tay và với những ánh mắt trao nhau thắm thiết. Ngài hiện hữu nơi bầu trời bao la, nơi ánh trăng thanh vào mỗi đêm rằm, nơi sức nóng và ánh rực rỡ của mặt trời, nơi những vì sao lung linh giữa màn đêm trên bầu trời cao thẳm. Ngài đó, là người vợ mà ta mọi ngày bị nghe những tiếng càm ràm, rên rẩm. Là người chồng mà mọi ngày ta thấy khó chịu bởi cái tính chậm chạp và ở dơ. Là những người con mà ta phải đối đầu với tính bướng bỉnh, khó vâng lời. Và những người mà ta phải rơi lệ khi giao tiếp với họ trong những giao tế thường ngày trong cuộc sống. Nhưng nhất là những người, những cảnh, những công việc, những cơ hội đem lại cho ta những giây phút êm đềm, thư dãn, và thoải mái. Đó là ý nghĩa của niềm vui đích thực. Niềm vui ấy đã được tìm thấy trong những gian nan và thử thách nơi đời sống của các vị thánh nhân và những tâm hồn đạo hạnh. Dù gặp nhiều gian nan, thử thách, nhưng họ vẫn vui vì biết rằng họ đang có Chúa ở bên mình. Thánh nữ Perpetua, trong khi nuôi con nơi hầm giam tại thành phố cổ Carthage nơi chờ được chết vì danh Chúa, đã sánh ví phòng giam của mình như cung điện nơi đó Ngài sẽ được trao vương niệm với vinh dự được chịu khổ hình vì Chúa. 

Nhưng khi đề cập đến niềm vui, ta thường hay có sự lẫn lộn với hạnh phúc. Tư tưởng này đã được Giáo Sư Thần Học Doris Donnelly thuộc viện Đại học Carroll ở Cleveland quảng diễn như sau: “Niềm vui hay bị lẫn lộn với hạnh phúc, nhưng hạnh phúc chỉ là một đặc tính bên ngoài của niềm vui mà thôi.  Hạnh phúc thay đổi tùy theo những biến cố chung quanh, còn niềm vui thì ổn định, vững bền. Nó có thể chịu đựng được những muộn phiền và thất vọng. Nó có thể tồn tại giữa khổ đau, trắc trở.” Theo đó, vì niềm vui không dựa trên những xúc cảm và sự thay đổi từ những biến cố bên ngoài, nhưng nó chính là chiếc neo được thả sâu dưới lòng biển tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Như một chiếc kim nằm im lìm dưới đáy biển, mặc cho bên trên mặt biển là những đợt sóng nhấp nhô, cao ngất và có thể nhận chìm những con tầu.  

Tóm lại, niềm vui đến không phải khi mọi sự đều tốt đẹp êm thắm, nhưng chỉ đến với ta khi biết tìm gặp Thiên Chúa qua những biến cố xẩy ra thường ngày trong cuộc đời của mỗi người. Những biến cố nói với ta về tình thương, sự thứ tha, hay những quan tâm và lo lắng giúp đỡ người đồng loại. Nó cũng đến với ta qua những thử thách và khó nhọc của cuộc đời. Do đó, đừng ngạc nhiên khi thấy những ai biết giúp đỡ, phục vụ và thành tâm chia sẻ với người khác, hoặc những người bị xã hội bỏ rơi, quên lãng luôn tìm được niềm vui. Họ chính là những người để mình bị cuốn hút trong cơn bão lốc của tình yêu Thiên Chúa qua những hành động bác ái, chia sẻ, và hy sinh. Họ là những người hưởng được lời chúc của Thiên Chúa như Giêsu đã đề cập đến khi Ngài quảng diễn về những mối phúc thật. 

Giáng Sinh đang gần về. Niềm Vui Giáng Sinh đang chờ để được trao ban cho nhân loại và cho mỗi người chúng ta. Như Thánh Phaolô đã nhắc nhở, ta hãy vui lên. Hãy biết qúi trọng những giây phút  khi ta có thể cảm nhận được hơi thoảng của cơn lốc thần linh chạm tới tâm hồn, để nhắc nhở rằng, ta vẫn luôn được Thiên Chúa yêu thương, săn sóc và mãi mãi không bao giờ cô đơn.
 

Trần Mỹ Duyệt

 

Tiếng Kêu Sa Mạc – Lương Tâm Con Người


 

Tiếng Kêu Sa Mạc: Sứ Điệp Lương Tâm

Trong 4 tuần lễ Mùa Vọng, bất kỳ thuộc chu kỳ Phụng Vụ A, B hay C, tuần đầu tiên bao giờ cũng là bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn để nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức đón chờ Chúa Kitô tới, tuần cuối cùng bao giờ cũng là bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Kitô, và hai tuần giữa liên quan đến vai trò Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong việc dọn đường cho Người đến.

Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng tuần trước, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả dựa vào lời của tiên tri Isaia kêu gọi một cách tổng quát và bóng bẩy là “hãy sưœa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ cuœa Thiên Chúa”.

Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng tuần này, vị tiền hô đã áp dụng những gì ngài đã kêu gọi tgrước đó vào từng trường hợp của các giới người trong xã hội Do Thái bấy giờ, điển hình là quần chúng nói chung, cách riêng thành phần thu thuế và binh lính là hai loại người đặc biệt theo đuổi một cái nghề có vẻ ngang trái trong xã hội Do Thái thời bấy giờ đang bị Đế Quốc Rôma đô hộ.

Đối với chung dân chúng, Tiền Hô Gioan bảo họ phải chia cơm sẻ áo cho nhau, tức là đừng vị kỷ, chẳng khác gì ngài khuyên họ hãy lấp đầy hố sâu tham lam và san bằng đồi núi huyênh hoang tự cao tự đại về những gì mình có hơn người đến khinh người nghèo và xa lánh người nghèo, như trường hợp của nhà phú hộ đối xử với Lazarô (x Lk 16:19-21).

Đối với thành phần thu thuế, ngài bảo họ đừng gian lận, tức sống một cách ngay thẳng liêm chính, và đối với thành phần binh lính, ngài bảo họ “đừng ức hiếp, đừng cáo gian”, tức hãy sống đúng với sứ mệnh của mình là bảo vệ và bênh vực dân chúng. Tức là, đối với hai thành phần tiêu biểu này, ngài khuyên họ hãy uốn thẳng những hành vi quanh co bất chính của mình (thu thuế), và hãy san bằng những cử chỉ gồ ghề hiếp đáp tác hại của mình (binh lính).

Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Ba tuần này, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng những áp dụng lời kêu gọi dọn đường lối cho ngay thẳng mà còn nói đến chính Đấng cần phải được dọn đường cho Người đến này, Đấng cao trọng hơn thánh nhân muôn ngàn lần và là Đấng sẽ làm phép rửa bằng chính Thánh Linh và bằng lửa thiêu đốt nội tâm con người chứ không phải bằng nước ở ngoài thân xác của con người như thánh nhân bấy giờ đang làm. Trường hợp của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cho chúng ta thấy thánh nhân chẳng những đã sống đúng và trọn những gì thánh nhân kêu gọi dân Do Thái thực hiện trong việc việc dọn đường cho Đấng cao trọng đến sau thánh nhân, bằng một đời sống khổ hạnh không tham lam và bằng một tinh thần khiêm hạ không tự phụ tự cao, cho mình không đáng cởi giây giầy cho Đấng đến sau, mà còn có một Cảm Nghiệm Thần Linh sâu xa, một cảm nghiệm thần linh hoàn toàn phản ảnh sự thật là Chúa Kitô, cho đến khi thánh nhân được đối diện với chính Sự Thật cả trước lẫn sau khi làm phép rửa cho Đấng đến sau mình, và truyền đạt sự thật ấy cho các môn đệ của thánh nhân.

Thật vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta đã ý thức được rằng, đối với Kitô hữu chúng ta, Chúa Kitô đã thực sự đến rồi, hai ngàn năm trước đây, và việc Kitô hữu chúng ta cử hành Mùa Vọng là việc chúng ta làm sao để mình có thể thực sự Cảm Nghiệm Thần Linh, cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người đang ở với chung Nhiệm Thể Giáo Hội cũng như riêng mỗi người chúng ta là chi thể của Giáo Hội cho đến tận thế. Bằng không, như Thánh Gioan Tiền Hô đã nói với dân Do Thái là thành phần cũng trông đợi Vị Cứu Tinh của họ đến, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26 là: “có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”. Đó là lý do tại sao, để nhận ra hay cảm nghiệm được Đấng Thiên Sai đã đến với loài người chúng ta và đang ở cùng Kitô hữu chúng ta, Lời Chúa trong bài Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm C vừa rồi đã kêu gọi chúng ta là "hãy thẳng đứng và ngước cao, vì ơn cứu độ gần đến", Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng cũng đã lập lại lời của tiên tri Isaia được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả lập lại là "Hãy dọn đường ngay thẳng cho Chúa... thì tất cả loài người sẽ được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa'", và Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng tuần này còn thuật lại lời của Vị Tiền Hô chỉ vẽ cho từng thành phần trong xã hội đến hỏi ngài "chúng tôi phải làm gì?", về cách thức cụ thể để dọn đường nghênh đón "Đấng phải đến mãnh lực hơn tôi. Tôi không đáng cởi giây giầy cho Người".


Gioan Tiền Hô: Vai Trò Lương Tâm

Những lời của Thánh Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến mối liên hệ giữa thánh nhân và Chúa Kitô, tự nhiên làm cho chúng ta thấy vai trò của thánh nhân chẳng khác nào như vai trò của lương tâm con người đối với Mạc Khải Thần Linh vậy. Theo tôi, "tiếng kêu trong sa mạc", như tiên tri Isaia trong Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng báo trước về Thánh Gioan Tiền Hô, chính là tiếng lương tâm hướng con người về Chân Thiện Mỹ cho đến khi con người được thấy ơn cứu độ. Thật ra cả chính tiếng kêu trong sa mạc và nội dung của tiếng kêu này đều liên quan đến lương tâm con người. “Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng” đây là gì, nếu không phải là hãy sống theo lương tâm chân chính, hãy tìm kiếm chân lý, vì “ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37), hay nhận ra Chúa Kitô, gặp được Chúa Kitô. Mà Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, kể từ khi được Thai Nhi Giêsu thanh tẩy bằng Thánh Linh trong lòng mẹ khi vừa được sáu tháng, chưa hề thấy Đấng đến sau, lại là con người đầu tiên nhận ra Người khi Người bắt đầu xuất đầu lộ diện, và loan báo cho dân chúng biết mà nhận ra Người và nghênh đón Người cho xứng đáng, thì thánh nhân, như đã tự nhận, là chính “tiếng kêu trong sa mạc”, là tiếng nói của Lời Chúa, là lương tâm (tiếng nói của Thiên Chúa) nơi con người hay sao? Thật thế, nếu lương tâm chân chính nơi con người có bản chất, quyền thế, vai trò và khả năng đối với con người thế nào, thì các Phúc Âm cũng cho chúng ta thấy nơi Thánh Gioan Tiền Hô hội đủ tất cả những yếu tố này của lương tâm chân chính, ít là năm yếu tố hay năm tính chất tiêu biểu sau đây:

Tính chất thứ nhất, như lương tâm chân chính có uy tín và khả năng bảo con người phải làm lành lánh dữ thế nào, thì Thánh Gioan Tiền Hô, như trong bài Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 3 từ câu 10 đến hết câu 14 hôm nay cho thấy, cũng đóng vai trò chỉ vẽ cho các thành phần dân Do Thái phải làm gì;

Tính chất thứ hai, như lương tâm chân chính có quyền khiển trách con người thế nào, Thánh Gioan Tiền Hô cũng vậy, như trong cùng đoạn Phúc Âm Thánh Luca trên, từ câu 7 đến câu 10 hay trong Phúc Âm Mathêu đoạn 3, từ câu 7 đến 12 cho thấy, thánh nhân đã khiển trách và cảnh cáo dân Do Thái như thế;

Tính chất thứ ba, như lương tâm chân chính, nhờ khả năng dạy dỗ, sẽ làm cho lòng người thiện chí nên tinh tuyền thế nào, cũng thế, Thánh Gioan Tiền Hô, sau khi giảng dạy ngài cũng đã làm phép rửa thống hối cho con người, như lời thánh nhân xác nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 1 câu 31 như sau: "Tôi đến làm phép rửa bằng nước để Người (Người ở đây là Đấng Thiên Sai) có thể tỏ mình ra cho dân Israel";

Tính chất thứ bốn, như lương tâm chân chính chẳng những tự mình là tiếng vang vọng của chân lý mà còn hướng con người về chân lý thế nào, cũng thế, Thánh Gioan Tiền Hô có khả năng chẳng những nhận biết Chúa Kitô "là chân lý" (Jn 14:6) mà còn chỉ cho con người thấy Người nữa, như chính miệng thánh nhân xác nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 1, từ câu 29 đến 34: "Tôi đã không biết Người... Giờ đây chính tôi đã thấy và làm chứng, 'Đây là Đấng Thiên Chúa Tuyển Chọn'";

Tính chất thứ năm, như lương tâm chân chính là tiếng nói của chân lý thường bị con người lấn át và triệt hạ thế nào, Thánh Gioan Tiền Hô cũng là một con người chính trực và bất khuất trước những gì bất chính, đến nỗi đã bị con người sát hại, như trường hợp của quận vương Hêrôđê trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 14, từ câu 1 đến 12 cho thấy.

Theo tôi, đó là lý do cho thấy, như lương tâm chân chính tự bản chất là thực tại cao trọng nhất nơi con người, hơn cả linh hồn thiêng liêng bất tử của con người thế nào về bản chất tự nhiên, cũng thế, như Chúa Giêsu khẳng định trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 7 câu 28, Thánh Gioan Tẩy Giả là con người cao trọng nhất trong loài người như vậy; thế nhưng, dù sao, so với Ơn Thánh, với Đức Tin Cứu Rỗi là thực tại đến sau nhưng cao trọng hơn, mãnh liệt hơn, thì lương tâm thực sự chẳng khác gì như đèn soi trước ánh sáng (xem Jn 5:35, 1:8), hay hoàn toàn không đáng cúi xuống cởi giây giầy mà thôi, như chính lời thánh nhân thú nhận trong bài Phúc Âm Thánh Luca đoạn 3 câu 16 hôm nay, hay như lời thánh nhân tuyên ngôn trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 3 câu 30 thế này: "Người phải lớn lên còn tôi phải giảm xuống".

Đó cũng là lý do cho thấy con người phải làm người trước, tức phải sống theo lương tâm chân chính trước rồi mới làm thánh được, vẫn biết Chúa có thể làm cho con người nên thánh bất cứ lúc nào. Đó còn là lý do cho thấy, nếu con người có lương tâm chân chính hay nghe theo tiếng lương tâm chân chính chỉ dẫn, như hai vị môn đệ của Thánh Gioan nghe lời của thánh nhân mà đi theo Chúa Kitô, thì thế nào họ cũng gặp được Chúa Kitô: "Chúng tôi đã thấy Đức Kitô", lời họ thú nhận trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 41, hợp với lời Chúa Kitô cũng đã khẳng định với Philatô trong Phúc Âm Thánh Gioan, đoạn 18, câu 37: "Ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi".

Vậy, nếu Thánh Gioan Tiền Hô đóng vai trò của lương tâm đối với dân Do Thái đã chỉ cho họ biết cách nhận ra Đấng ở giữa họ mà họ không biết thế nào, thì để áp dụng bài Phúc Âm hôm nay, mỗi người trong chúng ta cũng có thể bắt chước các thành phần dân Do Thái đã đến chất vấn Vị Tiền Hô của Chúa Kitô "chúng tôi phải làm gì", để xem tiếng kêu trong sa mạc nơi chúng ta là chính lương tâm của chúng ta bảo chúng ta biết chúng ta phải làm sao để có thể cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa Làm Người đã thực sự đến với loài người chúng ta và đang ở với Kitô hữu chúng ta cho đến tận thế. Vì Mùa Vọng là thời điểm, đối với Kitô hữu, Ơn Cứu Độ gần hơn là lúc mới chấp nhận đức tin, tức là thời điểm Kitô hữu cần phải làm sao thực sự cảm nghiệm được Thiên Chúa làm người và ở với chúng ta.


Lời Nhập Thể: Tất Cả Sự Thật

Tuy nhiên, Mùa Vọng chẳng những là thời điểm Giáo Hội hướng về Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn là thời điểm rất thích hợp để Kitô hữu chúng ta trở về nguồn nữa, tức trở về với Lịch Sử Cứu Độ của Thiên Chúa, để có thể cảm nhận được "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24) đã thực sự tỏ mình ra cho loài người chúng ta, cho đến khi “Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), nhờ đó chúng ta mới chẳng những “được sự sống", mà còn là "một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).

Chủ yếu hay cốt lõi của Lịch Sử Cứu Độ đồng thời cũng là nguồn gốc hay khởi diểm của Lịch Sử Cứu Độ chính là Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa, mà Dự Án Cứu Độ của "Thiên Chúa", như Thánh Phaolô xác định trong Thư Thứ Nhất gửi môn đệ Timôthêu, đoạn 2, câu 4: "là muốn mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ", do đó, chủ yếu của Lịch Sử Cứu Độ cũng là “tất cả sự thật” (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn mạc khải, muốn truyền đạt cho loài người, để nhờ nhận biết bằng đức tin, họ được thông phần Sự Sống Thần Linh. Như thế, diễn tiến của Lịch Sử Cứu Độ chính là việc Thiên Chúa muốn tỏ mình và thông mình ra cho loài người, tức là việc Mạc Khải Thần Linh. Bởi thế, chúng ta thấy toàn bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, cả hai đều chỉ là chứng từ ghi nhận và lưu truyền lại tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ mình, muốn mạc khải cho loài người biết, để họ tin mà được sống, đúng như Thánh Ký Gioan viết vào đoạn kết Phúc Âm của mình ở đoạn 20, câu 31 như sau: "Những điều này được ghi chép để giúp anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, để nhờ đức tin này anh em được sự sống nhờ danh Người".

Trước hết, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã tìm cách từ từ tỏ mình ra cho Dân Do Thái biết Ngài thực sự là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài Ngài không có một Chúa nào khác. Để làm việc này, đầu tiên Thiên Chúa đã tự chọn cho mình một dân tộc, đó là Dân Do Thái; sau đó Ngài đã tự hứa hẹn với tổ phụ cha ông họ là Abraham, Isaac và Giacóp; và sau hết Ngài đã tỏ ra tuyệt đối trung thành thực hiện lời hứa của Ngài nơi con cháu của các vị tổ phụ ấy, bất chấp những bất trung của đám con cháu này, để họ có thể mở mắt ra nhận biết Ngài thực sự là Hiện Hữu, đúng như Danh xưng Ngài tỏ cho Moisen ở bụi gai cháy sáng mà không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), tức Ngài thực sự là Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài Ngài không có Chúa nào khác.

Việc Thiên Chúa mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh, lên đến hết cỡ, trong “thời sau hết” (Heb 1:2) mở màn cho thời Tân Ước, khi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Jn 1:14), tức nơi chính Đấng Thiên Sai của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Ngài đã hứa ban ngay trong bản án nguyên tội (xem Gen 3:15), cũng là Đấng Ngài đã hứa hẹn xa xa với tổ phụ Abraham (xem Gen 22:18) cũng như với Đavít (xem 2Sam 7:16). Đó là lý do tại sao khi kể đến gia phả của Chúa Kitô, Thánh Ký Luca đã chẳng những liệt kê Đavít và Abraham thuộc huyết tộc Do Thái mà còn cả Adong là nguyên tổ cả loài người nữa. Phần Đấng Thiên Sai, Người đến "để tỏ Cha ra", như Phúc Âm Thánh Gioan minh định ở đoạn 1 câu 18, và như chính lời của Chúa Kitô cho thấy khi nguyện cùng Cha trong Bữa Tiệc Ly ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 17, câu 6: "Con đã tỏ danh Cha cho những kẻ Cha trao cho Con nơi thế gian". Đấng Thiên Sai "đã được sinh ra, đã đến trong thế gian", như Người tuyên bố với tổng trấn Philatô trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 18, câu 37, "là để làm chứng cho sự thật", một sự thật bao gồm hai khía cạnh, khía cạnh Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất, như Mạc Khải Cựu Ước cho thấy, và khía cạnh Người chính là Đấng Thiên Sai, như Mạc Khải Tân Ước chứng thực, một sự thật mà ai nhận biết thì được sự sống đời đời.

Tóm lại, tất cả diễn tiến của Lịch Sử Cứu Độ hay của Công Cuộc Cứu Độ là việc Thiên Chúa chẳng những tỏ mình cho con người biết Ngài là Thiên Chúa chân thật duy nhất qua Mạc Khải Cựu Ước, mà còn thông mình cho con người nơi Đấng Thiên Sai của Ngài là Chúa Giêsu Kitô nơi Mạc Khải Tân Ước, để con người được hiệp thông với Ngài trong Thần Linh là Đấng được ban cho chúng ta (x Rm 5:4), Đấng ở trong chúng ta (xem Rm 8:11), Đấng ban Sự Sống, bằng cách dẫn chúng ta "vào tất cả sự thật" (Jn 16:13), tức giúp chúng ta thấu triệt được Mạc Khải Thần Linh, thấu triệt được chính Thiên Chúa, Vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) “đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Ý Thức Phép Rửa

 

Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria bao giờ cũng được Giáo Hội kính vào đầu Mùa Vọng, và sứ mệnh của Chúa Kitô đến để tái sinh con người từ trên cao bằng phép rửa trong Thánh Linh và bằng lửa như được Tiền Hô Gioan tẩy Giả khẳng định trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, cho chúng ta nhớ đến đặc ân làm cho Kitô hữu chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa qua Bí Tích Rửa Tội. Vậy chúng ta hãy lợi dụng dịp này để ôn lại Bí Tích Rửa Tội rất cao quí và thiết yếu của chúng ta, ở 4 vấn đề sau đây: 1) Làm sao chúng ta biết là mình mắc nguyên tội? 2) Nếu chúng ta thực sự mắc nguyên tội thì nguyên tội đã được truyền sang cho chúng ta như thế nào hay bằng cách nào? 3) Tại sao chúng ta cần phải rửa tội ngay từ khi còn nhỏ mà không đợi lớn lên có ý thức rồi mới lãnh nhận? 4) Làm sao để có thể làm cho hạt giống đức tin được gieo vào tâm hồn qua Bí Tích Rửa Tội phát triển?

1. Làm sao chúng ta biết là mình mắc nguyên tội?

Phải, theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, nguyên tổ của loài người đã phạm tội, và tội đầu tiên được gọi là nguyên tội này đã được truyền sang cho giòng dõi của các vị, làm cho con cháu không phạm mà lại mắc. Trong cả loài người, kể cả vị đệ nhất tiên tri cao trọng nhất loài người là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, chỉ có một mình người nữ được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Lời Nhập Thể là không mắc nguyên tội, tức được Thiên Chúa gìn giữ cho khỏi những hậu quả của tội này, bằng cách Ngài đã cho Mẹ được hưởng trước ơn cứu độ của Chúa Kitô. Thế nhưng, làm sao loài người chúng ta biết được mình mắc nguyên tội để cần phải lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội?

Áp dụng định luật xem quả biết cây chúng ta sẽ thấy rõ chúng ta quả thực mắc nguyên tội. Nếu những triệu chứng ho, sổ mũi, rát cổ là dấu cho thấy chúng ta bị cúm, thì những triệu chứng tội lỗi, đau khổ và chết chóc nơi con người cũng cho thấy họ thực sự mắc nguyên tội. Đúng thế, theo Thánh Kinh, ngay từ ban đầu, con người sống trong tình trạng công chính nguyên thủy, không hề biết đến tội lỗi là gì, trần truồng không biết xấu hổ, (không có đam mê nhục dục, tính mê nết xấu), nhờ đó con người của họ nói chung và thân xác của họ nói riêng không phải trải qua tình trạng đau khổ, (như tâm hồn cảm thấy lo âu sợ hãi, buồn phiền chán nản, hay thân xác của họ phải chịu đủ mọi thứ tật nguyền, bệnh hoạn, già nua), và cuối cùng chết đi, trở về với bụi tro. Vậy nếu không một con người nào thoát khỏi tội lỗi, khổ đau và tội lỗi thì không phải là họ mắc nguyên tội rồi hay sao?

Trường hợp Chúa Giêsu và Mẹ Maria cũng chịu đau khổ như ai, mà còn chịu khổ đau chưa từng có, chịu khổ đau hơn hết loài người, thì không phải là vì các Ngài cũng mắc nguyên tội, song là để cứu độ loài người, để giải phóng loài người khỏi tội lỗi và sự chết, bởi đó Chúa Giêsu mới sống lại để chiến thắng sự chết là hậu quả của tội lỗi.

2. Nếu chúng ta thực sự mắc nguyên tội thì nguyên tội đã được truyền sang cho chúng ta như thế nào hay bằng cách nào?

Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu hai nguyên tổ phạm tội thì tội ấy chỉ có ở nơi hai vị thôi, tại sao lại có thể lây nhiễm sang cho giòng dõi con cháu của các vị được? Tuy nhiên, nếu nguyên tội làm hư hoại cả bản tính của con người, làm cho cả hồn lẫn xác của họ phải chịu hậu quả của nguyên tội, như những triệu chứng con người phải chịu đã được đề cập đến ở vấn đề thứ nhất, thì hai nguyên tổ đã bị hư đi theo nguyên tội không thể nào sinh ra được những hoa trái còn sống trong tình trạng công chính nguyên thủy như khi các vị mới được Thiên Chúa dựng nên. Và cũng chính vì toàn thể bản tính của con người đã bị hư đi, mà bất cứ con người nào được sinh vào trần gian này đều bị mắc nguyên tội. Vậy nguyên tội được truyền sang cho con người qua việc truyền sinh.

3. Tại sao chúng ta cần phải rửa tội ngay từ khi còn nhỏ mà không đợi lớn lên có ý thức rồi mới lãnh nhận?

Chính vì được sinh ra với một bản tính hư hoại mà con người cần phải được cứu độ và thánh hóa ngay từ khi còn sơ sinh, còn thơ bé. Vẫn biết ý thức là cần thiết trong việc đóng vai trò làm con cái Thiên Chúa cả trước khi lẫn sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, nhưng không phải vì thế mà con người không thể trở nên con cái Thiên Chúa và không đáng có sự sống đời đời. Một thai nhi đang được cưu mang hay một hài nhi vừa được sinh ra, dù chưa biết cha mẹ mình là ai, nó vẫn là con cái của những người sinh ra nó. Không phải bao giờ con người bắt đầu có trí khôn hay đã trưởng thành rồi họ mới được sinh vào đời, họ mới là con, mới có sự sống. Nếu tự nhiên, con người phải có sự sống rồi mới có khả năng ý thức ra sao, về siêu nhiên, con người cũng cần phải được tái sinh bởi phép rửa rồi mới có thể nhận biết Thiên Chúa như vậy.

4. Làm sao để có thể làm cho hạt giống đức tin được gieo vào tâm hồn qua Bí Tích Rửa Tội phát triển?

Bí Tích Rửa Tội có một tác dụng thần linh lưỡng diện, tha tội và thánh hóa. Về tác dụng tha tội, Bí Tích Rửa Tội tha cho con người chẳng những nguyên tội, mà còn cả tư tội nếu con người được rửa tội sau khi đã có trí khôn, đã biết phạm tội. Về tác dụng thánh hóa, Bí Tích Rửa Tội ban cho con người Thánh Sủng để họ được thông phần vào Bản Tính Thần Linh của Thiên Chúa, nhờ đó họ được trở nên con cái của Chúa Cha, nên chi thể của Chúa Kitô và nên đền thờ của Chúa Thánh Thần, và cũng nhờ đó họ có khả năng sống Sự Sống Thần Linh của Chúa Ba Ngôi, bằng ba thần đức Tin Cậy Mến.

Tuy nhiên, dù Phép Rửa có tác dụng chẳng những tha đủ mọi thứ tội lỗi mà còn tha cả hình phạt là hậu quả của tội lỗi nữa. Bởi thế, bất cứ người lớn nào chết đi ngay sau khi vừa được rửa tội xong sẽ được lên Thiên Đàng lập tức, không phải qua lửa luyện tội. Thế nhưng, Phép Rửa vẫn không thể làm được một điều, đó là không tẩy xóa được những hậu quả của tội lỗi ngay ở đời này. Đó là lý do sau khi lãnh nhận Phép Rửa, con người Kitô hữu vẫn còn mang nặng mọi đam mê nhục dục, vẫn còn đủ mọi thứ tính mê nết xấu, vẫn phải trải qua đủ mọi thứ đau khổ cả hồn lẫn xác, và vẫn phải chết như bất cứ người ngoại giáo hay vô thần nào. Do đó, không lạ gì thực tế đã không ngừng cho thấy Kitô hữu nói chung và thành phần giáo sĩ nói riêng vẫn có thể làm gương mù gương xấu trước mắt thế gian.

Thánh Sủng con người lãnh nhận qua Phép Rửa chẳng khác gì như Hạt Giống Thần Linh được gieo vào mảnh đất tâm hồn của con người. Hạt Giống Thần Linh Thánh Sủng này chỉ có thể nẩy mầm và phát triển cho đến tầm vóc viên trọn của mình khi gặp mặt đất tốt mà thôi. Thế nhưng, thực tế cho thấy tâm hồn con người ngay từ nhỏ đã chất chứa đầy những mầm mống sự dữ có thể làm chết ngạt Thánh Sủng. Thật thế, dù tự bản chất nhân chi sơ tính bản thiện của mình khi còn nhỏ, ở chỗ chưa ý thức được tội lỗi là gì, nhưng con người vẫn đã tỏ ra những dấu hiệu vị kỷ và bạo động, như giành đồ chơi và cắn cấu. Bởi thế, nếu ngay từ nhỏ con người không được giáo dục để thành nhân thì tự nhiên mà nói họ khó có thể, nếu không muốn nói là không thể nào thành thánh được.

Chính Thánh Sủng nơi Kitô hữu tự bản chất có khả năng phát triển đến tầm vóc viên trọn của mình, đến độ có thể làm chủ điều khiển con người tự nhiên của Kitô hữu theo Thánh Thần tác động hợp với Tinh Thần Chúa Kitô. Tuy nhiên, để tiến tới tình trạng thần hiệp siêu việt này, trình độ Thánh Sủng biến Kitô hữu trở thành chứng nhân đích thực và sống động phản ảnh Chúa Kitô, Kitô hữu phải biết Xin Vâng cho đến cùng như Mẹ Maria, phải bỏ mình đi và vác thập giá mà theo Chúa. Mẹ Maria đầy ơn phúc không phải chỉ ở chỗ được làm Mẹ Lời Nhập Thể mà còn ở chỗ nghe và giữ Lời Chúa, Kitô hữu cũng thế.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL