Chúa Nhật

Ngày 21/12: Thánh Peter Canisius (1521-1597)

Nỗ lực hoạt động để canh tân đức tin Công Giáo ở Đức, Thụy Sĩ, Aùo và Bôhêmia.

Là một trong những vị Tiến Sĩ Hội Thánh.

Viết cuốn giáo lý ba cấp, cho trẻ em, học sinh trung học và sinh viên đại học.

Là tu sĩ thứ tám khấn trong dòng Chúa Giêsu.

Năm 1580 thiết lập đại học Thánh Micae ở Freiburg.

 


CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG
NĂM C



BÀI ĐỌC I: Mich 5:1-4a
“Nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel”

Bài trích sách Tiên tri Mikêa.

Đây lời Chúa phán: “Hỡi Bêlem Epharata, ngươi nhỏ nhất trong trăm ngàn phần đất Giuđa, nhưng nơi ngươi sẽ xuất hiện một Đấng thống trị Israel và nguồn gốc Người có từ nguyên thủy, từ muôn đời. Vì thế, Người sẽ bỏ dân Người cho đến khi một người nữ phải sinh, sẽ sinh con. Số còn lại trong anh em ngươi, sẽ trở về với con cái Israel. Ngươi sẽ đứng vững và chăn dắt trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Chúa là Thiên Chúa ngươi. Và họ sẽ trở về, vì bây giờ ngươi sẽ nên cao trọng cho đến tận cùng trái đất. Vì vậy, ngươi sẽ là chính sự bình an”.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, xin cho chúng tôi được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng tôi được ơn cứu sống.

1.      Lạy Đấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai nghe! Chúa ngự trên Vệ-binh-thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng tôi.

2.      Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho nầy. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành mà Ngài đã củng cố cho mình.

3.      Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng tôi sẽ không còn rời xa Chúa nữa. Chúa cho chúng tôi được sống và chúng tôi ca tụng danh Ngài.


BÀI ĐỌC II: Hebr 10:5-10
“Nầy đây tôi đến để thi hành thánh ý Chúa”

Bài trích thơ gởi tín hữu Do Thái.

Anh em thân mến, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: Lạy Chúa, nầy tôi đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về tôi ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế nầy: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật. Đoạn người nói tiếp: Lạy Chúa, nầy đây tôi đến để thi hành thánh ý Chúa. Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hóa nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.

Lời của Chúa.
 

(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Nầy tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền. — Alleluia.


PHÚC ÂM: Lc 1:39-45
“Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần: Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ và con lòng bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi? Vì nầy tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện”.

Phúc Âm của Chúa.

 

SUY NIỆM

 

Biến Cố Giáng Sinh: Tin Mừng Cứu Độ


 

Mầu Nhiệm Nhập Thể: Thần Linh Tin Mừng

Như đã nhận định, trong 4 tuần lễ Mùa Vọng, bất kỳ thuộc chu kỳ Phụng Vụ A, B hay C, tuần đầu tiên bao giờ cũng là bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn để nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức đón chờ Chúa Kitô tới, tuần cuối cùng bao giờ cũng là bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến biến cố Giáng Sinh của Chúa Kitô, và hai tuần giữa liên quan đến vai trò Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong việc dọn đường cho Người đến. Đó là lý do bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Thứ Bốn Mùa Vọng nói đến sự kiện Mẹ Maria đến thăm bà chị họ của mình đang mang thai 6 tháng. Thật ra, theo ý nghĩa Mùa Vọng thì biến cố viếng thăm trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng tuần này là biến cố Lời Nhập Thể đang ở trong lòng Mẹ Maria bấy giờ đến làm phép rửa Thánh Thần đầu tiên cho Thai Nhi Gioan Tẩy Giả, để thánh nhân được khỏi tội nguyên tổ ngay từ trong bụng mẹ, để Thánh Nhân được đầy Thánh Linh ngay từ trong lòng mẹ, như lời thiên thần cho thân phụ của thánh nhân biết khi báo tin việc đầu thai lạ lùng của thánh nhân (x Lk 1:15).

Sự kiện Lời Nhập Thể làm phép rửa Thánh Thần cho Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ngay từ trong lòng mẹ đây đã được bộc lộ ở chỗ, đã làm cho cả thai mẫu của thánh nhân là bà Isave cũng được đầy Thánh Thần và trở nên khôn ngoan sáng suốt mà cất tiếng chúc tụng người em Maria của mình là Mẹ Thiên Chúa. Trong biến cố viếng thăm này, chúng ta thấy một thứ ảnh hưởng thần linh giây chuyền thế này: Lời Nhập Thể ở trong lòng Mẹ Maria là Thai Nhi Giêsu đầy Thánh Thần, đã thông ban Thánh Thần của mình cho con người đầu tiên là thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, đến nỗi mức độ tràn đầy Thánh Thần nơi thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã tác động cả thai mẫu, vị thai mẫu đầy Thánh Thần đã nhận biết Mẹ Thiên Chúa, Vị tràn đầy ân sủng, tràn đầy Thánh Thần, đang cưu mang chính Lời Nhập Thể, khiến cho lời chào của Mẹ có một tác lực thần linh làm cho Thai Nhi Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng thai mẫu Irave.

Hẳn chính vì là con người đầu tiên được lãnh nhận phép rửa Thánh Thần này bởi Lời Nhập Thể là Thai Nhi Giêsu, đến nỗi đã đầy Thánh Thần ngay trong lòng mẹ, như lời thiên thần báo tin việc em đầu thai cho thân phụ của em (x Lk 1:15), mà sau này, như bài Phúc Âm tuần trước cho biết, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, dù chưa hề tận mắt thấy Con Người Giêsu, đã khẳng định về Đấng đến sau ngài là Đấng sẽ làm phép rửa Thánh Thần, đến nỗi khi vừa thấy Người, thánh nhân chẳng những nhận ra Người ngay là Đấng phải đến mà còn chỉ cho các môn đệ của mình biết Người thật là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian.

Đúng thế, lời thiên sứ Gabiên truyền tin cho Maria trong ngày truyền tin thế nào: “Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao” cũng xẩy ra đúng như thế trong đêm giáng sinh, đúng như lời thiên thần báo tin cho các mục đồng: “Ta đến để báo một tin mừng cho các người cũng là cho toàn dân. Hôm nay, một vị cứu thế đã giáng sinh trong thành Đavít, Người là Đấng Thiên Sai và là Chúa”.

Như thế, đối với dân Do Thái trông đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì việc Chúa Kitô Giáng Sinh thực sự là một tin mừng, nhưng lại là một tin mừng được loan báo trước hết cho thành phần đơn sơ nghèo nàn được tiêu biểu nơi đám mục đồng của họ. Vì thành tâm tiếp nhận tin mừng ấy, Phúc Âm Thánh Luca của Lễ Giáng Sinh Rạng Đông thuật lại rằng, chẳng những: “Họ vội vã lên đường và đã gặp thấy Maria, Giuse cũng như thấy hài nhi nằm trong máng cỏ”, mà còn đi loan truyền tin mừng ấy nữa, đến nỗi, như Phúc Âm cho biết: “tất cả những ai nghe lời họ tường thuật đều lạ lùng sửng sốt”. Vậy, Kitô hữu chúng ta có thực sự cảm thấy biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh Làm Người là một tin mừng cho nhân loại hay chăng, và riêng cá nhân mình, chúng ta đã hay đang cảm nhận tin mừng này như thế nào?

Mầu Nhiệm Nhập Thể: Thời Gian Không Gian

Có thể có người sẽ cảm nhận về Tin Mừng Thiên Chúa Giáng Sinh Làm Người liên quan đến thời gian. Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo Rôma nói riêng đã Long Trọng Mừng Kỷ Niệm 2000 năm Thiên Chúa hóa thân làm người và ở giữa loài người thấp hèn tạo vật chúng ta, một sự thật không thể chối cãi đã xẩy ra trong thời gian được lịch sử loài người ghi nhận này. Thật vậy, Thiên Chúa đã hóa thân làm người và ở giữa loài người tạo vật chúng ta là một sự thật không thể chối cãi đã xẩy ra trong thời gian được lịch sử loài người ghi nhận. Đúng thế, theo những bản văn được Kitô Giáo công nhận là Phúc Âm của mình, điển hình nhất là của thánh sử Luca, đã cho thấy có một nhân vật tên là Giêsu ở Na-Gia-Rét xứ Galilêa, được sinh vào thời hoàng đế Cê-Sa Âu-Quốc-Tô làm sổ kiểm tra lần đầu tiên trong toàn đế quốc Rôma (x Lk 2:1), và đã hoạt động thuần tôn giáo song vẫn bị lên án tử bởi Hội Đồng Do Thái dưới quyền lãnh đạo của thượng tế Anna và Caipha bấy giờ, rồi cuối cùng đã bị kết án tử giá bởi Philatô, vị toàn quyền của đế quốc Rôma cai trị xứ Giuđa thời hoàng đế Cê-Sa Ti-Bê-Ri-Ô thống trị đế quốc Rôma cũng là thời quận vương Hêrôđê đang làm thủ hiến xứ Galilêa (x Lk 3:1, 2).

Kitô hữu chúng ta ngày nay không được diễm phúc và vinh hạnh như các vị tông đồ là những chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô, đã thấy tận mắt, đã nghe tận tai và đã sờ tận tay (x 1Jn 1:1) vị “Thiên Chúa vô hình” (Col 1:15), vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “đã trở nên hữu hình cho chúng ta” (x 1Jn 1:2) nơi nhân vật lịch sử Giêsu Na-Gia-Rét. Thế nhưng, những chi tiết về thời gian liên quan đến lịch sử trên đây đã chứng tỏ cho chúng ta thấy thực sự có một nhân vật, mà theo đức tin Kitô Giáo của mình, Người là một Vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23; x Is 7:14). Nguyên việc dân Do Thái cho đến ngày nay vẫn còn chối bỏ không chịu chấp nhận nhân vật Giêsu Na-Gia-Rét này là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai, cũng là một chứng cớ hùng hồn và hiển nhiên cho thấy thực sự đã có một đối tượng bị họ phủ nhận, một đối tượng mà chính các vị tông đồ, dù được sống gần và chứng kiến, cũng phải lấy đức tin mà chấp nhận, như lời tuyên xưng của vị trưởng tông đồ đoàn là Phêrô cho thấy: “Thày là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), lời tuyên xưng đã làm nên Kitô Giáo và là nền tảng Kitô Giáo, một tôn giáo tin Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật, đồng bản thể với Cha Người trên trời, và đồng thời cũng là người thật, như mọi người chúng ta dưới mặt đất này. Ôi, chỉ cần nghĩ đến bản tính vô cùng thấp hèn và khốn nạn của loài người chúng ta, chứ không phải bản tính thiêng liêng sáng láng tuyệt vời của các thiên thần, được Thiên Chúa là Thần Linh vô cùng toàn thiện và toàn năng mặc lấy, đã đủ làm cho con người ngây ngất, làm họ phải cố gắng sống xứng với thân phận làm người vô cùng diễm phúc của mình rồi vậy.

Trong Biến Cố Thiên Chúa Giáng Sinh Làm Người, nếu thời gian lên đến tuyệt đỉnh của nó vào thời điểm Lời Nhập Thể, thì không gian trở thành một cung thánh và trái đất là một nhà tạm. Thật vậy, Thiên Chúa đã hóa thân làm người và ở giữa loài người tạo vật thấp hèn chúng ta là một sự thật không thể chối cãi đã xẩy ra ngay trên mặt đất thuộc về cái vũ trụ bao la hầu như vô cùng bất tận này. Đúng thế, vũ trụ không gian đây bao la hầu như vô tận, đến nỗi trí khôn loài người dù có văn minh tân tiến theo khoa học và kỹ thuật đến đâu đi nữa, như hiện nay hay cả sau này, chắc chắn sẽ vĩnh viễn không thể nào khám phá ra hết, một cách chính xác, đầy đủ, hoàn toàn và trọn vẹn, tầm vóc cũng như chiều kích khôn dò như một mầu nhiệm hiển nhiên của nó. Hiện nay khoa học mới chỉ ước lượng một cách chung chung là có cả hằng triệu, hằng tỉ hành tinh hệ (galaxies) trong vũ trụ này, trong đó có một hành tinh hệ gần thái dương hệ nhất được gọi là Giải Ngân Hà (Milky Way), và có ba hành tinh hệ gần Giải Ngân Hà nhất mà con người không cần viễn vọng kính cũng có thể nhìn thấy từ trái đất, đó là, nếu nhìn từ Bắc Cực, hành tinh hệ Andromeda Nebula, cách trái đất 2 triệu năm ánh sáng, và nếu nhìn từ Nam Cực, hai hành tinh hệ nhỏ hơn, Magellanic Clouds, cách trái đất từ 160 đến 180 ngàn năm ánh sáng. Riêng nội bộ cấu trúc của mỗi hành tinh hệ, nếu nhỏ cũng rộng tới mấy ngàn năm ánh sáng, trong khi một tinh hệ lớn có thể rộng tới cả nửa triệu năm ánh sáng.

Nếu theo khoa học, mỗi giây vận tốc ánh sáng đi được một trăm tám mươi sáu ngàn hai trăm tám mươi hai dặm, hay hai trăm chín mươi chín ngàn bảy trăm chín mươi hai cây số, tức mỗi giây (hay mỗi tiếng tíc tắc của đồng hồ) ánh sáng đi được 7 vòng rưỡi trái đất (với chu vi từ đông sang tây rộng hai mươi bốn ngàn chín trăm lẻ một dặm, hay bốn mươi ngàn không trăm bảy mươi lăm cây số, tương đương với một chiếc xe chạy 366 ngày không ngừng với tốc độ 68 dặm một giờ, thì thử hỏi một ngày có 24 tiếng, tức có tám mươi sáu ngàn bốn trăm giây, ánh sáng sẽ đi được bao xa, một tháng có 30 ngày ánh sáng còn đi xa tới đâu, và một năm có 365 ngày ánh sáng đi xa tới cỡ nào. Cứ nghĩ đến 2000 năm lịch sử Kitô Giáo thôi con người đã thấy lâu lắm rồi, xưa lắm rồi, cổ lắm rồi, đằng này ánh sáng phải đi hết 2 triệu năm ánh sáng mới từ trái đất tới được hành tinh hệ Andromeda Nebula, thì thử hỏi vũ trụ không gian với cả tỉ hành tinh hệ khác nhau như thế không bao la bát ngát hầu như vô cùng bất tận hay sao?

Thế mà, chẳng là gì trong cái bao la hầu như vô cùng bất tận của thiên nhiên vũ trụ này, có chăng nó chỉ là một hạt bụi trong cõi không gian vô tận, trái đất lại là nơi xẩy ra một biến cố vô cùng hệ trọng, một biến cố làm cho thời gian đi vào vĩnh cửu, một biến cố gắn liền trời với đất, siêu nhiên với tự nhiên, vô hình với hữu hình, thần linh với tạo vật, đó là Biến Cố Nhập Thể, đó là biến cố Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình, đó là biến cố Thiên Chúa là Thần Linh đã hóa thành nhục thể! Bởi thế, biến cố lịch sử Thiên Chúa Giáng Sinh Làm Người quả thực là một Tin Mừng cho chung nhân loại cũng như cho từng cá nhân mỗi người thành tâm tìm kiếm chân thiện mỹ vậy.

Tại sao Thiên Chúa không chọn một nơi nào khác trong vũ trụ này để tỏ mình ra, như ở mặt trời là nơi xứng đáng nhất, vì dù có là một trong số triệu triệu tinh cầu thuộc vũ trụ này, mặt trời dầu sao cũng chẳng những rộng hơn trái đất 109 lần, lại còn là chính nguồn ánh sáng và nhiệt năng, với 10 ngàn độ F hay 5 ngàn rưỡi độ C ở ngoài mặt, và 27 ngàn độ F hay 15 ngàn độ C ở bên trong, một nguồn nhiềt năng chi phối tất cả mọi sự trên trái đất nói chung và sinh vật nói riêng? Phải chăng biến cố vô cùng quan trọng và cao trọng vô tiền khoáng hậu này chỉ có thể xẩy ra duy nhất trên trái đất nhỏ bé này, là vì nó có loài người chúng ta, hay nói cách khác, là vì nó đã trở thành nơi Thiên Chúa vô cùng yêu thương và khôn ngoan thượng trí chọn để dựng nên loài người giống hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài, loài Thiên Chúa đã ban cho quyền làm chủ thế giới hữu hình nói chung và sinh vật nói riêng, vì Ngài đã dựng nên mọi sự cho họ (x Gen 1:26, 28; Hiến Chế Gaudium et Spes, 39.1).

Đúng thế, bởi Thiên Chúa đã thực sự nhập thể làm người trên trái đất này, chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng: trái đất chính là con tim của vũ trụ, dù nó có quay chung quanh mặt trời (như con người phải giữ ngày hưu lễ), đến nỗi, nếu không có trái đất cũng không có vũ trụ, kể cả mặt trời, vì mặt trời là để cho trái đất chứ không phải trái đất cho mặt trời, giống như ngày hưu lễ được lập nên vì loài người chứ không phải loài người vì ngày hưu lễ (x Mk 2:27). Vũ trụ không gian dù có bao la hầu như vô tận đi nữa cũng chỉ là một thực tại hữu hình và hữu hạn, rồi cũng có ngày cùng tháng tận, chứ không thể nào vô cùng bất tận như chính Thiên Chúa là Toàn Hữu, Hằng Hữu. Chính vì thế vũ trụ không gian hầu như vô cùng bất tận này mới cần phải có một hồn sống, đó là con người, một thực thể nhỏ bé so với cả không gian vũ trụ chỉ giống như một vi khuẩn cần phải có kính hiển vi mới nhìn thấy. Bởi vì, chính ở nơi con người và nhờ có con người nhỏ bé như hư không này, vũ trụ hữu hình và hữu hạn ấy mới có thể giao tiếp với thế giới vô hình và vô hạn, mới có thể ý thức được Đấng Hóa Công của mình để mà sinh động theo cùng đích siêu việt của mình, nhất là vũ trụ bao la hầu như vô tận theo không gian mênh mông dài rộng này mới có thể vươn lên cao vời tới tầm mức thần linh tối thượng được, tầm mức Thiên Chúa Toàn Năng muốn tỏ ra cũng như muốn tạo vật phải đạt tới, nơi con người, nhờ con người và cùng với con người, một loài đã được chính Ngài mặc lấy bản tính của họ.

Trái đất này đã thực sự trở thành nơi Thiên Chúa là Thần Linh tỏ mình ra, nhất là cho dân Do Thái vào thời Cựu Ước, qua các cuộc thần hiển của Ngài (theophany) diễn ra trong không gian (điển hình nhất là với Moisen và cho dân Do Thái trong cuộc Xuất Ai Cập về Đất Hứa), một cách mầu nhiệm nơi các yếu tố thiên nhiên (ánh sáng, mây trời, ngọn núi, bụi cây, đá, khói, lửa, nước v.v.). Chẳng những thế, trái đất còn thực sự trở thành nơi Thiên Chúa vô cùng cao cả cư trú và sinh sống với loài người trên 2000 năm trước đây (tại mảnh Đất Hứa của dân Do Thái). Chính vì thế trái đất sẽ không thể nào hoàn toàn bị hủy diệt và trở về với hư vô vì những băng hoại của nó do con người gây ra từ khi hai nguyên tổ loài người sa phạm (x Rm 8:19-22). Trái lại, nếu bản tính của con người đã được thánh hóa, được thần linh hóa, khi Thiên Chúa làm người, tức là nếu bản tính loài người, sau khi bị hư hại vì nguyên tội, hay sau khi tội lỗi cùng với sự chết đột nhập thế gian (x Rm 5:12), đã được nên một với Thần Tính hằng hữu vô cùng toàn năng và toàn thiện nơi “vị trung gian duy nhất là con người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5), thì “toàn thể tạo vật nôn nóng trông chờ việc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa... sẽ được giải phóng khỏi phải chịu bị hủy hoại và được thông phần vào phúc tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19, 21).

Mầu Nhiệm Nhập Thể: Nguyên Nhân Động Lực

Đến đây, có thể có người trong chúng ta thắc mắc là tại sao Thiên Chúa Giáng Sinh Làm Người? Về lý do tại sao Thiên Chúa phải Giáng Thế Làm Người, căn cứ vào Thánh Kinh và Thánh Truyền, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo cho biết có 4 lý do đã khiến cho Thiên Chúa hóa thành nhục thể như sau:

Lý do thứ nhất ở số Giáo Lý 457, đó là: “Lời đã hóa thành nhục thể vì chúng ta để cứu độ chúng ta bằng việc hòa giải chúng ta với Thiên Chúa, Đấng ‘đã yêu thương chúng ta và đã sai Con Ngài đến để đền bồi tội lỗi cho chúng ta’: ‘Cha đã sai Con mình đến như Đấng Cứu Thế’, và ‘Người đã tỏ mình ra để xóa bỏ tội lỗi’ (1Jn 4:10, 4:14, 3:5)”.

Lý do thứ hai ở số Giáo Lý 458, đó là: “Lời đã hóa thành nhục thể để nhờ đó chúng ta có thể nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa: ‘Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ giữa chúng ta ở chỗ là Thiên Chúa đã sai Người Con duy nhất của Ngài đến thế gian, để chúng ta nhờ Người mà được sự sống’ (1Jn 4:9). ‘Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến ban Người Con duy nhất của mình, để ai tin vào Con thì không phải chết song được sự sống trường sinh’ (Jn 3:16)”.

Lý do thứ ba ở số Giáo Lý 459, đó là: “Lời đã hóa thành nhục thể để nêu gương thánh thiện cho chúng ta: ‘Hãy mang lấy ách của Tôi và hãy học cùng Tôi’. ‘Thày là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thày’ (Mt 11:29; Jn 14:6). Trên núi Biến Hình, Chúa Cha truyền phán: ‘Hãy lắng nghe lời Người!’ (Mk 9:7; x. Deut 6:4-5). Chúa Giêsu là mẫu gương sống Các Mối Phúc Đức và là đường lối của tân luật: ‘Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con’ (Jn 15:12). Tình yêu này bao gồm việc con người thực sự hiến bản thân mình theo gương của Người (x. Mk 8:34)”.

Lý do thứ bốn ở số Giáo Lý 460: “Lời đã hóa thành nhục thể để làm cho chúng ta được trở nên ‘những người được thông phần vào bản tính thần linh’ (2Pt 1:4): ‘Vì đó là lý do tại sao Lời đã làm người, và Con của Thiên Chúa đã trở thành Con của con người: để con người được trở nên con của Thiên Chúa, bằng việc hiệp thông với Lời nhờ đó được làm con cái thần linh’ (Thánh Irênêô, Adv. Haeres. 3, 19, 1: PG 7/1, 939). ‘Vì Con Thiên Chúa đã làm người để chúng ta trở nên Thiên Chúa’ (Thánh Anathasiô, De Inc., 54, 3: PG 25, 192B). ‘Người Con duy nhất của Thiên Chúa, vì muốn làm cho chúng ta trở nên những kẻ tham phần vào thần tính của mình, đã mặc lấy bản tính của chúng ta, để Đấng làm người có thể làm cho con người nên những vị thần linh’ (Thánh Tôma Aquina, Opusc. 57:1-4)”.

Theo phụng niên, Giáo Hội Công Giáo toàn cầu một năm cử hành hai đại lễ, Đại Lễ Giáng Sinh và Đại Lễ Phục Sinh. Ở chỗ, chẳng những sau mỗi đại lễ này có một tuần bát nhật, mà trước mỗi đại lễ này cũng có một tuần sửa soạn nữa. Nếu trước Đại Lễ Phục Sinh có Tuần Thánh thì trước Đại Lễ Giáng Sinh có Tuần Bát Nhật, từ ngày 17 đến 24. Nếu Đại Lễ Phục Sinh có tính cách mừng rỡ, vì liên quan đến tình trạng khổ đau và chết chóc, thì Đại Lễ Giáng Sinh có tính cách vui tươi, vì liên quan đến niềm hy vọng và lòng trông mong. Tuy nhiên, Kitô hữu chúng ta có thực sự cảm thấy vui tươi trước Lễ Giáng Sinh hay chăng, một thứ vui tươi linh thánh chứ không phải một thứ vui tươi trần tục, một thứ vui tươi vì thực sự cảm thấy Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta?

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

CHÚA LÀ NIỀM VUI 

“Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ Chúa đến thăm” (Luc 1:43). Isave chị họ của Đức Maria đã thốt lên lời vui mừng này khi hai chị em vừa gặp nhau. Thánh Kinh kể lại, Đức Maria vừa nhận được niềm vui mang Chúa trong lòng, liền vội vàng ra đi và trao ban niềm vui ấy. Người mà Mẹ nhắm tới là chị họ Isave của Mẹ. Được Mẹ chia sẻ niềm vui, Bà Isave rất đỗi vui mừng. Hạnh phúc không chỉ đến riêng với Bà mà còn tràn sang người con mà Bà đang mang trong dạ. Gioan lúc ấy cũng đã nhẩy mừng vì sự xuất hiện của người dì đáng kính; đặc biệt, là sự có mặt của người em họ mình: “Thoạt khi tai tôi nghe lời bà chào, hài nhi đã nhẩy mừng trong lòng tôi” (Luc 1:44)

“Bởi đâu tôi được diễm phúc Mẹ Chúa đến viếng thăm. Thoạt khi tai tôi nghe lời bà chào, hài nhi trong lòng tôi đã nhẩy mừng” (Luc 1:43-44). Qua câu nói này, Isave đã cho biết Chúa Giêsu chính là sự vui mừng lớn lao, là niềm vui duy nhất của nhân loại và của riêng từng người. Các thiên thần khi loan báo cho các mục đồng về sự xuất hiện của Con Thiên Chúa, cũng đã nói với họ: “Ta báo cho anh em một tin vui, cũng là tin rất mừng cho toàn dân” (Luc 2:10). Thánh ký Luca đã tiếp tục ghi lại rằng: “Các mục đồng hân hoan ra về và ca tụng Thiên Chúa về những gì họ đã nghe và đã thấy đúng như lời các thiên sứ đã nói với họ” (Luc 2:20). Những người kế tiếp hưởng được niềm vui này là Ba Vua, những đạo sỹ thành tâm đến từ Phương Đông để được gặp Chúa. Tiên tri Simêon, người đã mong đợi được xem thấy Chúa, và khi đã thấy Ngài thì sung sướng quá không thèm thiết sống nữa: “Giờ đây lậy Chúa! Xin cho tôi tớ Ngài được ra đi bình an. Chúa đã hoàn tất lời Ngài, vì mắt tôi đã được thấy ơn cứu độ của Ngài xuất hiện trước chư dân. Ánh sáng đã được tỏa chiếu trên dân Ngoại, và vinh quang của Israen dân Ngài” (Luc 2:29-32). Nữ tiên tri Ana, không những cảm thấy vui mừng, mà còn chia sẻ niềm vui ấy với mọi người. 

Nhưng sao nhìn quanh ta vẫn thấy người này, người khác kêu rêu, than thở. Ngay chính cuộc đời ta, đôi lúc cũng cảm thấy như bị căng thẳng, dồn nén, và chán chường mệt mỏi. Đời người như một chuỗi ngày buồn vui lẫn lộn, vui ít buồn nhiều. Từng triệu triệu người ngày nay phải đối diện với hội chứng trầm cảm, một hội chứng tâm lý từng làm cho con người cảm thấy biếng ăn, mất ngủ, chán chường, mỏi mệt và nhiều lúc không thiết sống nữa. Sự chán nản này không những ảnh hưởng về thể lý, tâm lý, sinh lý mà cả tâm linh nữa. Về phương diện tâm linh, nhiều người ra khô khan, trễ nải và lơ là cầu nguyện. Người ta coi thường việc thực hành các nguyên tắc đạo lý vì quá thật vọng và buồn khổ. Người ta trở thành khó chịu vì nghĩ rằng Thiên Chúa xa cách hoặc không quan tâm đến những nỗi khổ của mình. Lý do vì họ không gặp và thấy Chúa. Niềm vui mà họ có không phải đến từ Chúa.  

Cám ơn sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Cám ơn cuộc thăm viếng của Đức Maria. Và cám ơn sự nhận thức và cảm nghiệm niềm vui mừng của người biết đón nhận và tiếp rước Chúa của thánh nữ  Isave, của Gioan Tiền Hô. Chính các Ngài đã chỉ cho nhân loại biết đâu là nguồn vui thật, và nguồn vui ấy đã và đang hiện diện ngay trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Isave đại diện cho những cha mẹ và người sống trong ơn gọi gia đình. Gioan đại diện cho những người con. Các mục đồng quê mùa và đơn sơ, đại diện cho những thành phần nghèo khổ, bị xã hội bỏ quên và xa tránh. Ba Vua, đại diện cho những thành phần trí thức và địa vị trong xã hội. Simêon và Ana, đại diện cho những người lớn tuổi, cao niên mà ngày ngày chỉ biết vui với lời kinh khấn nguyện. Tóm lại, họ đại diện cho tất cả mọi thành phần trong xã hội, để kể lại cảm nghiệm vui mừng qua cuộc gặp gỡ Đức Kitô. Nhưng nhất là cảm ơn Mẹ Maria, Người đã giới thiệu Đức Kitô cho toàn thể nhân loại.  

Nhưng cũng sẽ có người nói: “Thế thì bây giờ làm gì tôi có Chúa Giêsu đến thăm, và Đức Maria có bao giờ ghé thăm tôi để tôi nghe lời chào của Người như Isave và như Gioan Tiền Hô.” Câu trả lời không hẳn là thế. Đức Tin cho chúng ta biết rằng, mỗi người chúng ta chính là đền thờ của Chúa Thánh Thần, và trong đền thờ ấy có sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, sự va chạm, giao tiếp thường ngày với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em, và với những người chung quan mình chẳng phải là những dịp chúng ta gặp gỡ, va chạm, và chào hỏi Chúa đấy sao? Với cái nhìn ấy, chúng ta không những có niềm vui, mà còn được vui luôn vì mọi ngày đều có cơ hội nói lên như Isave đã nói: “Bởi đâu tôi được diễm phúc chú của Chúa, bác của Chúa, anh của Chúa, chị của Chúa, em của Chúa, hoặc bạn của Chúa đến viếng thăm”.  

Tóm lại, bằng cặp mắt đức tin, chúng ta sẽ khám phá ra rằng, trong cuộc đời chúng ta thực sự không phải cô đơn, vì Chúa luôn có mặt để ở bên và tiếp cận với chúng ta. Không những thế, chính chúng ta còn là niềm vui đem Chúa đến cho mọi người. Như Đức Maria, như Isave, và Gioan. Như các mục đồng, Ba Vua, Simêon, và Ana, chúng ta cũng có nhiệm vụ phải đem Chúa đến và chia sẻ niềm vui ấy cho mọi người. Có được niềm vui, chia sẻ niềm vui, và tiếp nhận niềm vui, thử hỏi chúng ta còn muốn chi hơn nữa. Và phải chăng Chúa chẳng phải là niềm vui trọn vẹn, viên mãn mà chúng ta đang mong đợi đó sao.
 

Trần Mỹ Duyệt