|
CHÚA NHẬT XIV QUANH NĂM
BÀI ĐỌC I: Is 66:10-14c
“Đây Ta khiến sông bình an chảy vào nó”
Bài trích sách Tiên tri
Isaia.
Các ngươi hãy vui mừng với Giêrusalem và hết những
ai yêu quý nó, hãy nhảy mừng vì nó. Hỡi các ngươi là những kẻ than khóc nó, hãy
hân hoan vui mừng với nó, để các ngươi bú sữa no nê nơi vú an ủi của nó, để các
ngươi sung sướng bú đầy sữa vinh quang của nó. Vì chưng Chúa phán thế nầy: “Ta
sẽ làm cho sự bình an chảy đến nó như con sông và vinh quang chư dân tràn tới
như thác lũ, các ngươi sẽ được bú sữa, được ẵm vào lòng và được nâng niu trên
đầu gối. Ta sẽ vỗ về các ngươi như người mẹ nâng niu con, và tại Giêrusalem, các
người sẽ được an ủi. Các ngươi sẽ xem thấy, lòng các ngươi sẽ hân hoan, và các
ngươi sẽ nẩy nở như hoa cỏ, và tôi tớ Chúa sẽ nhìn biết bàn tay của Chúa.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Toàn thể Đất Nước, hãy reo mừng Thiên Chúa.
1.
Toàn thể Đất Nước hãy reo mừng Thiên Chnúa, hãy ngợi vinh quang danh Người, hãy
kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc
thay sự nghiệp Chúa.
2.
Toàn thể Đất Nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới
và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa
con cái người ta!
3.
Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta
hãy hân hoan trong Chúa. Với quyền năng Người thống trị tới muôn đời.
4.
Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi
những điều trọng đại biết bao! Chúc tụng Chúa là Đấng không hất hủi lời tôi
nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi.
BÀI ĐỌC II: Gal 6:14-18
“Tôi mang trong mình tôi những dấu thánh của Chúa Giêsu”
Bài trích thơ Thánh
Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, phần tôi ước gì tôi đừng khoe
mình về một điều gì khác, ngoại trừ về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Nhờ cây thập giá mà thế gian đã chịu đóng đinh cho tôi, và tôi cho thế gian. Vì
chưng trong Đức Kitô có cắt bì hay không cũng chẳng có giá trị gì, điều quan
trọng là trở nên một tạo vật mới. Nguyện chúc bình an và lòng thương xót đến với
những ai rập theo qui tắc đó, và cho cả
Israel của Thiên Chúa
nữa. Từ nay trở đi, ước gì không ai làm phiền tôi nữa; vì tôi mang trong mình
tôi dấu thánh của Chúa Giêsu. Anh em thân mến, nguyện ân sủng của Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta, ở cùng anh em. Amen.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy,
và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. —
Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10:1-12, 17-20
“Sự bằng yên của các con sẽ đến trên người ấy”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và
sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính
Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy
các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Nầy Ta
sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao
bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy
nói: “Bình an cho nhà nầy”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của
các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các
con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các
con đừng đi nhà này sang nhà nọ. Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các
con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và
nói với họ rằng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”. Khi vào thành nào mà
người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: “Cả đến bụi
đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các
ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều nầy: Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Ta bảo
các con, ngày ấy thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này”. Bảy mươi hai
ông trở về rất vui mừng và nói rằng: “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ
cũng vâng phục chúng con”. Người bảo: “Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống như
luồng chớp. Nầy Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rít, bọ cạp, mọi quyền
phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được ác con; nhưng hãy vui mừng
vì tên các con đã được ghi trên trời”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
ĐỪNG CHÀO HỎI DỌC ĐƯỜNG
“Đừng chào hỏi ai dọc
đường” (Lk 10:4). Đó cũng là một câu nói khó nghe và khó hiểu trong nhiều câu
nói của Chúa Giêsu. Thí dụ, trước cái tang của ông bố, Ngài bảo người con: “Cứ
để kẻ chết chôn kẻ chết” (Lk 9:60), hoặc như khi nói về Phép Thánh Thể, Ngài đã
bảo mọi người: “Nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con Người, các ngươi
không có sự sống trong mình” (Jn 6:53). Những lời như thế quả là khó nghe và khó
chấp nhận. Nhiều người Do Thái lúc bấy giờ khi nghe Chúa nói, họ đã lẩm bẩm:
“Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Lời nói chói tai, ai nghe
cho nổi!” (Jn 6:52,60).
Theo tâm lý thường tình, một người niềm nở, vui vẻ và xã giao mới là người có
nhiều bạn bè, được nhiều người mến chuộng. Những người như vậy được coi là
trưởng thành về mặt xã hội và tình cảm. Giữa đám đông, họ sẽ kéo được sự chú ý
của người khác, và ảnh hưởng của họ sẽ chinh phục được cảm tình của quần chúng.
Ngược lại, người lầm lỳ, ít nói hoặc không muốn giao thiệp với ai, ít nữa là một
lời chào hỏi xã giao, những người như thế sẽ bị xếp vào loại ấu trĩ, thiếu giao
tế xã hội. Người ta sẽ không ai muốn đến gần, giao thiệp với họ.
“Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Nếu đi bên một người, nhất là người đó là người
đồng hành với mình trên một hành trình dài mà làm thinh không nói, hoặc không
tâm sự, chia sẻ với nhau ít là vài câu chào hỏi xã giao, thì đó là một hành động
khó hiểu, nếu không muốn nói là bất lịch sự. Sự im lặng này có thể dẫn đến thái
độ khó chịu cho người đi bên mình, và sự khó chịu ấy có thể biến người bạn đường
mình trở thành kẻ thù. Hành động im lặng như vô tình ấy lúc này sẽ là một hành
động thiếu khôn ngoan và lỗi bác ái. Nhưng nếu đó là một việc làm thiếu đạo đức,
ít là đạo đức xã hội, thiếu tư cách, thiếu trưởng thành như vậy, sao Chúa lại
bảo các môn đệ mình làm.
Đúng vậy, lời Chúa là lời hằng sống. Lời mà theo Thánh Phêrô đã tuyên tín: “Chúa
có lời ban sự sống đời đời” (Jn 6:68), do đó, hẳn là lời đó có ý nghĩa, ít nhất
là đối với tôi nếu tôi muốn trở thành người tông đồ đích thực của Ngài.
“Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Phải chăng Chúa muốn tôi đừng quá dễ dãi, phóng
túng và xã giao bừa bãi, vì hành động này sẽ dẫn đến việc tôi bị người khác ảnh
hưởng và chinh phục. Bằng cái nhìn tâm linh, thì hành động như thế tức là để
lòng mình chiều theo những cám dỗ của thế gian, xác thịt và ma quỉ. Đó là những
bạn đường xấu mà tôi cần phải xa tránh.
Từ sự chào hỏi dẫn đến trao đổi thân mật. Từ sự trao đổi thân mật dẫn đến tình
cảm thân mật. Và từ tình cảm thân mật dẫn đến quyến luyến, thân thiết với nhau,
nhất là những người cùng một cảnh ngộ, thí dụ, những người cùng đi trên một đoạn
đường với mình chẳng hạn. Rồi do những thân mật ấy, tôi sẽ bị dụ dỗ để lòng mình
bị dính bén và chạy theo những của cải vật chất, những đam mê dục vọng, những
danh lợi, quyền quí và sự giầu sang của đời này. Những thứ sẽ làm cho lòng người
bị chôn bám, bị ghì chặt vào với thế giới vật chất, với thế giới của con người,
không cho phép tôi thanh thản, vui vẻ trên bước đường phục vụ và tông đồ.
Sự phóng tâm ấy cũng đồng nghĩa với thái độ mở lối cho chào hỏi mà Chúa Giêsu đã
đề cập. Đó phải chăng cũng là điều mà Ngài đã cẩn thận nhắc nhở những kẻ được
sai đi vào thế gian. Người Kitô hữu không thể chỉ biết Chúa, yêu Chúa và giữ
Chúa cho một mình. Sự hiểu biết và yêu mến phải dẫn họ vượt qua thế giới riêng
tư để tới một thế giới rộng lớn hơn. Họ phải giới thiệu Chúa cho những người
khác. Nhưng trên hành trình đức tin và sứ mạng rao truyền lời Chúa, giới thiệu
Chúa cho những người mà mình được sai tới, nếu muốn không bị rơi vào những cạm
bẫy của kẻ thù, thì cách tốt nhất vẫn là tránh mặt và đừng chào hỏi chúng.
“Đừng chào hỏi ai dọc đường”. Đây là một cuộc ra đi của sứ vụ. Một ơn gọi, và là
một việc làm linh thánh. Nó không hề liên quan đến bất cứ hình thức sinh hoạt
nào của xã hội tự nhiên. Nó chìm ẩn trong tâm hồn và nội tâm người được sai đi.
Và vì thế, nó cần phải có thời giờ kết hợp mật thiết với Đấng đã sai mình.
Con đường trần gian là một con đường nhiều gian nan, thử thách và cạm bẫy. Trên
con đường ấy, người qua kẻ lại. Người xấu, kẻ tốt, mà hầu hết là vội vàng, tất
tưởi, và bị cuốn hút vào những thị hiếu hoặc những động tĩnh bên ngoài. Nếu tôi
cứ để giờ la cà, săn đón, hoặc muốn làm hài lòng tất cả mọi người qua lại trên
đường, tôi đâu có thời giờ để nghĩ đến mục đích của hành động mình. Trong những
lần trước Chúa Giêsu đã chẳng dò hỏi các tông đồ để thấy xem Ngài có chỗ nào
trong tâm trí và trái tim các ông hay sao. Ngài hỏi họ người ta bảo Ngài là ai,
rồi đến các ông nghĩ Ngài là ai, và tinh thần Ngài là tinh thần gì. Trong những
lần thăm hỏi ấy, Ngài quá biết các ông không hiểu và không biết Ngài nhiều. Đúng
ra, các ông chỉ hơn những người khác ở chỗ là còn trung thành và quyến luyến ở
bên Ngài.
Khi tự đặt cho mình một lằn ranh giới hạn như thế, tôi cũng tự hiểu rằng tôi
phải có đời sống và suy nghĩ của mình. Sự tách biệt kia là một lối sống giữa
dòng đời của người tông đồ. Nó cũng cho tôi biết rằng, tôi cần phải sống sao để
trở thành một chứng nhân giữa dòng đời.
Chúa sai tôi vào đời. Đây là một thử thách lớn cho sự tin tưởng và tín nhiệm của
Ngài đối với tôi. Nó cũng là một bài trắc nghiệm về tất cả những hiểu biết của
tôi về Ngài, Đấng mà tôi đang muốn nói với quần chúng. Chính vì thế, Ngài muốn
tôi chú trọng nhiều vào sứ vụ. Ngoài ra, còn phải âm thầm nghiềm ngẫm, sống với
lời mình chia sẻ; nhất là tìm gặp và phản ảnh trung thực lời nói, hành động, và
hình ảnh Chúa cho những người khác. Đây cũng là những gì mà Đức Gioan Phaolô II
đã từng nhắc nhở những ai tự cho mình là tông đồ: Con người ngày nay không chỉ
cần những nhà giảng thuyết mà cần những nhà giảng thuyết chứng nhân. Bởi thế
Chúa Giêsu đã bảo tôi: “Đừng chào hỏi ai dọc đường”.
Trần Mỹ Duyệt
Vai trò của
người môn đệ nhân chứng là ở sứ mạng “ra đi”
Bài Phúc Âm Chúa Nhật
XIV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay lại càng cho chúng ta thấy rõ chiều hướng của
thời điểm Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, một thời điểm Giáo Hội tưởng nhớ Mầu
Nhiệm Chúa Kitô không tỏ mình ra cho dân Do Thái, nhất là cho các tông đồ như
thời điểm Hậu Giáng Sinh nữa, mà là tỏ mình ra cho chung nhân loại qua nhân
chứng của mình là Giáo Hội. Không phải hay sao, Chúa Nhật XII Mùa Thường Niên
Hậu Phục Sinh Năm C hai tuần trước chúng ta đã chia sẻ bài Phúc Âm về chủ đề cốt
lõi của người môn đệ nhân chứng là ở niềm tin “Thày Là”, Chúa Nhật XIII mới tuần
trước về chủ đề tinh thần của người môn đệ nhân chứng là ở thái độ “theo Thày”,
và Chúa Nhật XIV hôm nay về chủ đề vai trò của người môn đệ nhân chứng là ở sứ
mạng “ra đi”. Đó là lý do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm theo Thánh Luca đoạn
10 Chúa Nhật tuần này, Giáo Hội chỉ muốn nhấn mạnh đến việc truyền giáo, từ câu
1 đến câu 9, hơn là đến hậu quả và thành quả truyền giáo, từ câu 10 đến 12 và từ
câu 17 đến 20, phần được để trong ngoặc không buộc phải đọc. Tuy nhiên, trong 9
câu Phúc Âm chính yếu cho Chúa Nhật XIV Mùa Thường Niên Năm C Chúa Nhật tuần này,
chúng ta thấy một số điều Chúa Kitô nói và làm khiến người đọc hay người nghe
thắc mắc không ít và muốn biết Người thực sự có ý nói gì và dạy gì?
Đúng thế, sau đây là những vấn đáp cho bài Phúc Âm hôm nay:
1. Tại sao Chúa Giêsu lại “chọn thêm 72 người
nữa”, chẳng lẽ 12 vị tông đồ chưa đủ hay sao, hoặc là tại các tông đồ không đủ
tài đức, chẳng hạn hai trong các vị đã đòi sát hại người ta như bài Phúc Âm lần
trước đề cập tới, hay có lúc các vị còn đầu óc trần tục, tỏ ra muốn phân tranh
với nhau về ngôi thứ (xem Lk 9:46-48)?
Lý do tại sao Chúa Giêsu “chọn thêm 72 người nữa” đã được Người cho biết ngay
câu mở đầu những gì Người muốn nhắn nhủ các vị trước khi các vị ra đi thi hành
sứ vụ thừa sai của mình, đó là câu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy
các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Ngài”. “72 người nữa” này
chính là nhóm thợ gặt tiên phong được sai đi gặt lúa cho chủ ruộng vậy. Ở đây,
chúng ta nên lưu ý là Phúc Âm Thánh Mathêu ở toàn đoạn 10 lại cho biết là Chúa
Kitô đã chọn và sai 12 tông đồ đi, với những lời tương tự, tuy dài hơn và chi
tiết hơn, những gì Người căn dặn “72 người nữa” trong Phúc Âm Thánh Luca hôm
nay. Ở đây, trong chính cái mâu thuẫn giữa hai trình thuật Phúc Âm có vẻ khác
nhau và nghịch nhau này, chúng ta lại thấy chứng cớ rõ ràng cho thấy nhu cầu
truyền giáo cần thêm nhiều thợ gặt. Ở chỗ, theo Phúc Âm Thánh Mathêu, Chúa Kitô
đã sai 12 tông đồ đi, sau đó, theo Phúc Âm Thánh Luca, Người còn “chọn thêm 72
người nữa” cũng để sai các vị đi. Tóm lại, việc truyền giáo chẳng những là trách
nhiệm của hàng giáo phẩm kế thừa các thánh tông đồ, mà còn của tất cả những ai
mang danh môn đệ Chúa Kitô nữa vậy.
“Thợ gặt thì ít” đây, trước hết có thể hiểu là hàng giáo phẩm và giáo sĩ, một
thành phần thiểu số và “ít” ỏi, bởi đó mới cần tới cả thành phần tu sĩ và giáo
dân. Tuy nhiên, sứ vụ truyền giáo của thành phần tu sĩ và giáo dân không phải là
chỉ để bổ khuyết hay hỗ trợ hàng giáo phẩm và giáo sĩ mà thôi, hơn thế nữa, theo
bản chất của phép rửa đòi hỏi, hay bản chất của chính vai trò làm môn đệ Chúa
Kitô đòi hỏi, thì đã là Kitô hữu, dù là giáo dân hay giám mục hoặc giáo hoàng,
tất cả đều phải “là muối đất, là ánh sáng” (Mt 5:13-14).
2. Tại sao Người lại sai các vị môn đệ này đi
từng cặp “hai người một”, chẳng lẽ thành phần “72 người nữa’ này toàn là những
người mới chưa hề ở với Người, lại là thành phần còn trẻ trung và ngây ngô lắm
hay sao?
Lý do tại sao Chúa Kitô sai “72 người nữa” này ra đi từng cặp “hai người một” là
vì, ngay sau khi truyền cho các vị: “Các con hãy ra đi”, Người liền báo cho các
vị biết trước những gì bất hạnh chắc chắn sẽ xẩy ra cho các vị, chứ không giấu
diếm, đó là số phận của các vị: “như chiên giữa sói rừng”. Như thế, các vị cần
phải đi đôi với nhau “hai người một”, mục đích trước hết là để nâng đỡ nhau, như
trường hợp “2 môn đệ đi về làng Emmau” (Lk 24:13) với tâm trạng hoang mang buồn
nản về biến cố Thày mình đã tử nạn mà lại nghe là Người đã phục sinh. Chính nhờ
“ở đâu có hai ba người họp lại vì danh Thày, Thày sẽ ở giữa họ”, như Người quả
quyết với các tông đồ trong Phúc Âm Thánh Mathêu ở đoạn 18 câu 20, mà Người đã
thực sự đến tỏ mình ra cho cặp môn đệ hai người này, làm cho các vị đã hoàn toàn
nhận ra Người. Bởi vậy, qua hình ảnh “hai người một” được sai đi này, chúng ta
lại càng thấy được ý Chúa Kitô muốn việc truyền giáo chẳng những là của mọi
thành phần, cả giáo phẩm lẫn giáo dân, mà còn là một việc làm chung nữa, vì đó
là việc Người tiếp tục tỏ mình ra cho thế gian, qua mối hiệp nhất của thành phần
môn đệ của Người. Trong sổ bộ các thánh tử đạo, cách riêng 117 vị tử đạo Việt
Nam, chúng ta thấy liệt kê cả hàng giám mục, giáo sĩ, tu sĩ (Thày Giảng) và giáo
dân.
3. Tại sao Người lại sai các môn đệ này “đi
trước Người đến các thành và các nơi Nguòi sẽ tới” để làm gì, trong khi chính
bản thân Người đã từng đi nhiều nơi và đã gặp chống đối, phủ nhận; chẳng lẽ đây
là phương cách mới mẻ Người muốn sử dụng để thử nghiệm xem việc Người tỏ mình ra
có công hiệu hơn hay chăng?
Lý do tại sao Chúa Kitô sai các môn đệ “đi trước Người đến các thành và các nơi
Người sẽ tới”, vì mục đích của việc Giáo Hội truyền giáo, hay thừa sai truyền
giáo, là để dọn đường cho thế gian có thể nhận biết Chúa Kitô để họ được sự sống
đời đời. Thật ra, khi sai hai phái đoàn thừa sai đi truyền giáo bấy giờ, phái
đoàn thứ nhất là 12 tông đồ và phái đoàn thứ hai thêm “72 người nữa”, Chúa Kitô
chưa tỏ hết mình ra, do đó, các môn đệ của Nguòi, với vai trò như hừng đông báo
trước mặt trời công chính đang lên, cần phải dọn lòng trước cho dân Do Thái đang
trông đợi Đấng Thiên Sai đến biết rằng, sẽ có một “Đấng đến sau tôi song cao
trọng hơn tôi”, như vị tiền hô của Người đã thực hiện trong Phúc Âm Thánh Gioan
đoạn 1 câu 30. Thế nhưng, kể cả sau khi Người đã tỏ hết mình ra qua cuộc Vượt
Qua của Người từ tử giá đến phục sinh rồi, tức đã giải thoát con nguòi “vuọt qua
sự chết mà vào sự sống” (Jn 5:24) rồi, như ở vào thời điểm Giáo Hội chúng ta
đang sống đây, các vị thừa sai Thời Tân Uóc vẫn phải tiếp tục làm việc dọn đuòng
này, vì chung loài nguòi vẫn chưa nhận biết Chúa Kitô. Đó là ý nghĩa làm nên
thành phần chứng nhân Chúa Kitô, thành phần làm cho thế gian nhận biết Chúa Kitô,
chẳng những qua lời rao giảng của mình mà còn qua chính tinh thần sống đạo của
mình nữa. Một khi thế gian nhận biết Chúa Kitô qua họ, không phải là họ đã thực
sự “đi trước Người đến các thành và các nơi Người sẽ tới” hay sao?
4. Tại sao Người cho các môn đệ này biết Người
sai họ “đi như chiên giữa sói rừng” mà lại bảo họ “đừng chào hỏi ai dọc đường”,
một thái độ chẳng những dễ làm mất cảm tình với người ta mà lắm khi còn khiến
cho người ta ghét bỏ mình nữa?
Ở đây Chúa Kitô chỉ bảo
các vị thừa sai “đừng chào hỏi ai dọc đường” thôi, chứ không bảo ai chào mình
thì đừng chào lại, nhất là đến nơi nào rồi thì Người lại dặn các vị hãy chào
chúc “bình an cho nhà này”. Như thế, lý do tại sao Chúa Kitô bảo các vị “đừng
chào hỏi ai dọc đường”, theo tôi, là vì “dọc đường” đây liên quan đến vấn đề
ngoại giao, vấn đề vận động, trong khi đó, Người không muốn việc loài người nhận
biết chân lý, nhận biết Người chỉ vì nể nang nhau, cảm tình với nhau, hay vì bất
cứ một lý do nào đó trần tục, để rồi, như một ngôi nhà xây trên cát, khi bão tố
tới liền sụp đổ tan tành, như Người đã khẳng định ở Bài Giảng Trên Núi trong
Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 7 câu 25 và 26. Chính vì ý thức được vấn đề liên hệ
“dọc đường” có vẻ nguy hại hơn là sinh lợi này mà, hơn ai hết, Vị Tông Đồ Dân
Ngoại đã tuyên bố với Kitô hữu Côrintô ở Bức Thư Thứ Nhất, đoạn 1 câu 17 thế này:
“Chúa Kitô đã không sai tôi làm phép rửa, mà là rao giảng phúc âm, tuy nhiên,
không phải bằng lời lẽ khéo léo kẻo thập giá của Chúa Kitô mất hết ý nghĩa của
mình”.
5. Tại sao Người còn bảo các vị “đừng mang theo
túi xách, bao bị, giầy dép” là những thứ tùy thân tối thiểu và tối ư cần thiết
cho một cuộc hành trình, chẳng lẽ đó là cách hay nhất trong việc kéo chú ý của
người ta và dễ đánh động lòng người nhất hay sao?
Lý do tại sao Chúa Kitô bảo các vị môn đệ thừa sai “đừng mang theo túi xách, bao
bị, giầy dép” là vì Người muốn nhấn mạnh đến tinh thần hoàn toàn dấn thân quên
mình của các vị, một tinh thần không thể thiếu để các vị có thể hoàn thành một
sứ mệnh cao cả, một công cuộc của Thiên Chúa. Luật độc thân linh mục nơi Giáo
Hội Công Giáo Latinh không phải đã được qui định theo chiều hướng này hay sao?
Nếu các vị thừa sai còn lo đến hay chỉ để ý đến những thứ phụ thuộc và lặt vặt,
không sớm thì muộn, các vị chắc chắn sẽ trở thành, như Chúa Kitô quả quyết ở
cuối bài Phúc Aâm tuần trước: “cầm cầy mà còn quay trở lại thì không xứng đáng
với Nước Thiên Chúa”, một Nước Thiên Chúa Người đã dứt khoát kêu gọi các tông đồ
ở Bài Giảng Trên Núi trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 6 câu 33 là phải được tìm
kiếm trước hết và trên hết, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho sau. Quả thực, trong
bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Kitô đã đề cập đến những thứ khác sẽ được
Thiên Chúa lo liệu cho các vị thừa sai chỉ chuyên tâm rao giảng Nước Thiên Chúa,
khi Người nhắc đến sự kiện các vị sẽ được tiếp đãi và ăn uống xứng với công lao
của các vị.
6. Tại sao sau khi Người bảo các môn đệ cứ ăn
uống những thứ người ta dọn cho rồi dặn các vị tiếp “đừng đi nhà này sang nhà
khác”, phải chăng Người có ý nói với các vị rằng hễ ai có cảm tình với mình,
tiếp đãi mình tử tế thì ở, bằng không thì hãy dũ áo “phủi bụi chân” ra đi?
Trước hết, chúng ta nên lưu ý, Chúa Kitô không bảo chỉ ở cố định nguyên một nhà
và đừng đi nhà khác. Và lý do tại sao Chúa Kitô bảo các môn đệ thừa sai “đừng đi
nhà này sang nhà khác” không phải là vì và chỉ vì được họ tiếp đãi tử tế, hơn là
vì nhà ấy đã tin tuỏng các vị, một niềm tin mới chớm nở nên cần phải được củng
cố thêm cho vững vàng hơn nữa. Bởi thế, ở đoạn Phúc Âm không buộc đọc hôm nay,
Người có đề cập đến trường hợp ngược lại, trường hợp hễ ở đâu không tiếp rước
các vị thì các vị hãy phủi bụi ra đi. Thật vậy, việc “đừng đi nhà này sang nhà
khác” liên quan đến niềm tin chân chính hơn là đến tình cảm cá nhân tự nhiên,
như trường hợp Chúa Kitô được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại ở đoạn 4 từ câu 40
đến 41, trường hợp Người đã ở lại 2 ngày với dân làng Samaritanô, một dân làng
đã nghe lời của người phụ nữ trong họ về loan báo cho họ biết rằng chị đã được
gặp một vị tiên tri ở bờ giếng Giacóp. Việc Người ở lại với dân làng Samaritanô
này là để niềm tin gián tiếp của họ nơi Người được trọn vẹn hơn. Đó là lý do
Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại thái độ của dân làng ngoại lai này trước và sau
thời gian Chúa Kitô ở với họ thế này. Trước khi gặp Người thì “nhiều người
Samaritanô ở làng đó tin tưởng Người vì chứng từ của người phụ nữ”; để rồi sau
khi được thực sự đích thân ở với Người rồi thì: “Nhờ những lời Người nói nên
nhiều người khác đã tin tưởng. Vì họ nói với người phụ nữ rằng: ‘Chúng tôi tin
tưởng không phải do lời chị thuật lại nữa. Chính chúng tôi đã nghe và chúng tôi
biết rằng vị này thực sự là Đấng cứu thế’”.
7. Tại sao Chúa không đề cập đến chủ đề
cần phải rao giảng trước, chủ đề “Nước Thiên Chúa đã đến”, mà lại nói đến chủ đề
cuối cùng sau tất cả những điều khác, nhất là sau khi nói với các vị “hãy ăn
những thứ người ta dọn cho”, làm như phải ăn rồi mới nói, theo kiểu có vay có
trả vậy?
Lý do tại sao Chúa Kitô không đề cập đến chủ đề “Nước Thiên Chúa đã đến” trước
hết mà sau hết, là vì con người cần phải sửa soạn đàng hoàng rồi mới có thể lãnh
hội được chân lý. Mà điều kiện thiết yếu để con người có thể nhận ra sự thật đây
là gì, nếu không phải là một tâm hồn bằng an, một tâm hồn chẳng những khao khát
và tìm kiếm chân thiện mỹ của một kẻ thiện tâm: “bằng an dưới thế cho người
thiện tâm” (Lk 2:14), mà còn là một tâm hồn không bị chi phối bởi tình cảm hay
tư lợi, là những gì vốn làm cho con người không thể nhận ra chân thiện mỹ, trái
lại, qua hoàn cảnh bất hạnh trên đời, tâm hồn bình an này còn có thể nhờ đó nhận
ra chân thiện mỹ nữa. Tuy nhiên, một bình an như thế con người trần gian không
thể nào tìm thấy được ở trên cuộc đời ô trọc này, ngoại trừ thứ bình an Chúa
Kitô để lại cho thành phần môn đệ của Người, như được Phúc Âm Thánh Gioan ghi
nhận ở đoạn 14 câu 27, và quả quyết với các vị ở đoạn 16 câu 33 thế này: “Các
con sẽ tìm thấy bình an nơi Thày. Trên dương gian các con sẽ gặp khốn khó. Nhưng
hãy can đảm lên! Thày đã thắng thế gian”. Phải, cần phải có thứ bình an Chúa
Kitô ban cho các môn đệ sau khi Người sống lại từ trong kẻ chết (xem Jn
20:19,26), con người mới có thể nhận biết Người, chấp nhận Người và theo Người.
Đó là lý do, ngay mở đầu những gì Người nói về việc truyền giáo, Người đã căn
dặn các vị thừa sai môn đệ của Người biết các vị cần phải làm sao cho người ta
biết lắng đọng đã: “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ‘Bình an cho nhà
này’”. Nếu bình an của thành phần môn đệ thừa sai làm cho người thiện tâm nhờ đó
có thể sẵn sàng và dễ dàng chấp nhận Tin Mừng “Nước Thiên Chúa đã đến”, thì quả
thực tác động chào chúc mở đầu này của họ đã cho thấy rất xác thực bản chất
chứng nhân của họ là thành phần được Chúa Kitô sai “đi trước đến các thành và
các nơi Người sẽ tới”.
Qua 7 vấn đáp trên đây liên quan đến ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV tuần
này, chúng ta thấy được một điều hết sức chân thật này, đó là Lời Chúa nói không
bao giờ qua đi, chẳng hạn những gì Chúa dạy 72 môn đệ đi truyền giáo trong bài
Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, tuy hợp với trường hợp của các vị ấy bấy giờ, lúc
Chúa Kitô chưa hoàn toàn tỏ mình ra, mà còn áp dụng cho cả thời Giáo Hội hiện
đại nữa về vấn đề truyền giáo, đó là vấn đề được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô ý
thức và chia sẻ trong bài đọc thứ hai: “Nhờ cây thập giá mà thế gian đã bị đóng
đanh cho tôi và tôi cho thế gian. Vì chưng, trong Đức Kitô, có cắt bì hay không
cũng chẳng có giá trị gì, điều quan trọng là trở nên một tạo vật mới”?
Đaminh Maria Cao Tấn
Tĩnh, BVL
|