|
CHÚA NHẬT XVI QUANH NĂM
BÀI ĐỌC I: Gen 18:1-10a
“Đối với Thiên Chúa có gì khó đâu. Ta trở lại thăm ông và Sara được một đứa
con trai”
Bài trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng Abraham
dưới chòm cây ở Mambrê, đang lúc ông ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng bức. Ông
ngước mặt lên thấy ba người nam xuất hiện, đứng gần ông. Vừa trông thấy từ cửa
lều, ông chạy ra đón các vị ấy, rồi sấp mình lạy và thưa rằng: “Lạy Chúa, nếu
tôi được đẹp lòng Chúa, xin đừng bỏ đi qua, tôi xin lấy ít nước để các đấng rửa
chân, và nghỉ mát. Tôi xin đem ít bánh mời các đấng dùng để lấy sức lại rồi sẽ
đi: chính vì thế mà các đấng đã ghé vào nhà tôi”. Các đấng ấy nói: “Như ông đã
ngỏ, xin cứ làm”. Abraham liền vào lều và bảo Sara rằng: “Hãy mau mau trộn ba
đấu bột làm bánh nướng”. Còn ông, ông chạy đến đoàn bò bắt một con bê non hảo
hạng, trao cho đầy tớ đem đi nấu. Ông lấy bơ sữa và thịt bê đã chín, dọn ra
trước mặt các đấng. Chính ông đứng hầu các đấng dưới bóng cây. Ăn xong các đấng
hỏi Abraham rằng: “Sara bạn ông đâu?” Ông trả lời: “Kìa, bạn tôi ở trong lều”.
Một đấng nói tiếp: “Độ nầy sang năm, khi ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn
mạnh khẻo, bạn ông sẽ được một con trai”. Sara đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật
cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm
rằng: “Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!” Chúa
phán cùng Abraham rằng: “Sao Sara lại cười mà rằng: Nào tôi đã già mà còn sinh
nở được sao? Đối với Chúa có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ nầy sang năm, ta
sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn khẻo mạnh, Sara sẽ được một con trai”. Sara chối
mà rằng: “Tôi không có cười”. Bởi vì bà khiếp sợ. Nhưng Chúa đáp lại: “Không
đúng, bà có cười”.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Lạy Chúa, ai được cư ngụ trên núi thánh của Chúa?
1.
Người sống
thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi
không bịa lời vu khống.
2.
Người
không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ
đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.
3.
Người
không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương...
Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay.
BÀI ĐỌC II: Col 1:24-28
“Mầu nhiệm ẩn giấu từ muôn thuở, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh”
Bài trích thơ Thánh
Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlôssê.
Anh em thân mến, hiện nay tôi vui sướng trong
những đau khổ tôi phải chịu vì anh em. Tôi bổ khuyết nơi thân xác tôi những gì
còn thiếu sót trong cuộc thương khó của Đức Kitô, để Hội Thánh, là thân xác của
Người được nhờ. Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội Thánh theo sự an bài của
Thiên Chúa, Đấng đã trao phó cho tôi rao giảng đầy đủ lời Chúa, đó là mầu nhiệm
ẩn giấu từ muôn thuở qua muôn thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các thánh của
Người: Thiên Chúa muốn tỏ bày cho họ biết thế nào là sự phong phú vinh quang của
mầu nhiệm nơi dân ngoại, tức là Đức Kitô trong anh em, Người là niềm hy vọng
vinh quang. Tôi loan báo Người, cảnh tỉnh mọi người, đem tất cả khôn ngoan mà
dạy dỗ mọi người, để làm cho mọi người nên hoàn hảo trong Đức Giêsu Kitô.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời
do miệng Thiên Chúa phán ra. — Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 10:38-42
“Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ
nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi
bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thiết đãi khách. Bà
đứng lại thưa Người rằng: “Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không
quan tâm sao? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi với”. Nhưng Chúa đáp: “Martha,
Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã
chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
CHỌN Giêsu
Trong bất
cứ chọn lựa nào cũng đều để lại một ấn tượng và cái giá đi liền với hành động
chọn lựa đó. Người trưởng thành, do đó, phải bằng lòng chấp nhận kết quả chọn
lựa của mình với ý thức tự do mà không đổ lỗi cho người này người khác, hoặc lý
do này lý do kia. Những chọn lựa ấy nằm trong ba hình thức: Chọn lựa giữa cái
tốt và cái xấu, giữa hai điều xấu, và giữa hai điều tốt.
Chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu là một chọn lựa dễ dàng. Tâm lý con người ai
cũng muốn điều tốt và tránh điều xấu. Ai cũng thích được may lành mà sợ bị rủi
ro, xui xẻo. Do đó, việc chọn lựa trong những trường hợp như thế không đến nỗi
khó, hoặc đòi hỏi nhiều suy nghĩ, tính toán, và cân nhắc.
Chọn lựa giữa hai điều xấu, thí dụ, chấp nhận quỳ 1 tiếng hoặc không được đi xem
xinê vì một lỗi lầm nào đó. Sự chọn lựa này đòi hỏi phải cân nhắc hơn, suy nghĩ
hơn, và dĩ nhiên, để lại ấn tượng hơn.
Chọn lựa giữa hai điều tốt, thí dụ, chọn lựa mua một trong hai chiếc xe mà mình
đều thích và ưng ý, hoặc chọn lựa kết hôn với một trong hai người yêu của mình.
Đây là một chọn lựa khó nhất, đòi hỏi suy nghĩ nhiều hơn, và cũng để lại ấn
tượng mạnh mẽ hơn. Trong tâm lý, người chọn trong trường hợp này bao giờ cũng
cảm thấy hài lòng với kết quả của sự chọn lựa, tuy nhiên, người được chọn hay
vật được chọn có thể không hoàn toàn như ý mình mong muốn.
Mátta và Maria mà Thánh Kinh ghi lại hôm nay cũng đã làm một sự lựa chọn khi đón
tiếp Chúa Giêsu. Mátta chọn phương thức phục vụ, còn Maria chọn phương thức lắng
nghe. Trong sự chọn lựa ấy, cả hai đều muốn chứng tỏ với Thầy rằng, mình đã chọn
điều mà mình cho là đúng và tốt nhất để bày tỏ lòng kính trọng và yêu mến Thầy.
Tuy nhiên, về mặt tâm lý thì Maria đã chọn đúng và hài lòng với sự chọn lựa của
cô. Ngược lại, Mátta đã chọn sai và hậu quả là không hài lòng với chọn lựa của
cô: “Lậy Thầy, Thầy không để ý là em con để con bận rộn một mình sao? Xin Thầy
bảo nó giúp con một tay” (Lc 10:40). Chúa Giêsu nhân dịp này nói với cô: “Mátta,
Mátta. Con lo lắng và bối rối nhiều việc quá. Chỉ có một việc cần thôi. Maria đã
chọn phần nhất mà không ai có thể lấy đi được” (Lc 10:41-42). Nói một cách khác,
Maria đã chọn đúng.
Sự khác biệt giữa hai chị em được tìm thấy qua sự chọn lựa của các cô. Mátta thì
bực tức, cau có. Có thể lúc ấy cô đã nghi ngờ tình thương của Thầy dành cho em
hơn dành cho cô, hay ít nữa là bằng cô. Vì nghi ngờ, ghen tị như thế, cô đã làm
mất đi ý nghĩa hành động phục vụ của mình, và vì thế, sự chọn lựa của cô trở
thành một việc làm bắt buộc. Ngược lại, Maria thì bằng an, cô ngồi im lặng dưới
chân Chúa. Cô không tỏ vẻ ghen tị hay khó chịu với chị cô, mặc dù người ngoài
nhìn vào có thể cho là cô lười lĩnh, còn chị cô thì siêng năng, chịu khó.
Trong lãnh vực tâm linh – với cái nhìn sâu thẳm của niềm tin – Maria không những
chọn lựa đúng mà còn chọn được phần tốt nhất, điều mà chính Chúa Giêsu đã xác
nhận: “Maria đã chọn phần nhất” (Lc 10:42) đó là chọn chính Chúa. Còn Mátta thì
chọn cách thức làm vui lòng Chúa mà không chọn chính Ngài.
Mátta lo lắng, lăng xăng với công việc nấu nướng, dọn bữa với lòng mến Chúa,
muốn Chúa vui, nhưng qua cung cách của người thường. Cô nhìn Chúa như những
thượng khách, những khách quý mà không nhìn Chúa như Thiên Chúa của cô, do đó,
cô đã dám phiền trách Ngài, đã khó chịu với em mình trước mặt Ngài. Cô thấy Chúa
cũng ngồi đó, em cô cũng ngồi đó nói truyện với nhau; còn cô, cô vất vả một mình.
Em cô nói truyện với Chúa mà không nói với cô. Chúa nói truyện với em cô mà
không nói với cô.
“Maria đã chọn phần nhất”. Vì Maria đã chọn Chúa. Việc cô ngồi im lặng dưới chân
Chúa, lắng nghe là một hình thức cô làm đẹp lòng Ngài. Đây là một lối diễn đạt
tư tưởng có tính cách tâm lý và tâm linh hơn là những công việc và lối diễn tả
hình thức. Chia sẻ, lắng nghe sẽ dẫn đến cho hiểu và yêu thương nhau. Mà còn gì
cao quí hơn là được hiểu và yêu mến Chúa. Điều này cũng cho thấy rằng, Thiên
Chúa thật sự mong muốn con người hiểu và yêu Ngài. Một hình thức nào đó, Chúa
cũng cô đơn và ít bạn hiền. Chính vì thế, khi Chúa thấy một ai chăm chỉ lắng
nghe, thì Ngài rất mực yêu thích và Ngài cảm thấy được yên ủi.
Cũng qua lăng kính Đức Tin, thái độ đón tiếp của Maria là một hành động kết hợp
mật thiết với Thiên Chúa. Mà vì có Chúa là có tất cả, nên xem như Maria đã không
để ý đến những chuyện đang xẩy ra quanh cô, như thái độ bận rộn của chị Mátta.
Cô cũng không màng đến chuyện ăn uống, hoặc ghen tị với chị, nếu như trong bữa
ăn Chúa có khen Mátta là khéo tay, nấu nướng giỏi. Hoặc giải dụ, ngay sau cái
càu nhàu của Mátta mà Chúa có quay lại nói với cô những lời an ủi, rồi bảo Maria
phải lo giúp đỡ chị.
Chọn lựa của Maria đã mở ra một lối nhìn về cung cách phục vụ Chúa, về thái độ
tông đồ của chúng ta. Đây là một thái độ sống và sự lựa chọn của người Kitô hữu
giữa dòng đời. Sự lựa chọn của những Kitô hữu trưởng thành. Một lựa chọn đòi
phải quên mình, quên những tiếng khen thưởng, quên đi cả những may lành, thành
quả mà nhẽ ra mình đáng được do những việc mình làm. Dù là ai và trong hoàn cảnh
nào, người Kitô hữu cũng phải như Maria chỉ tìm gặp và chọn một mình Chúa. Và
chỉ chăm chỉ lắng nghe tiếng nói của một mình Ngài.
Chọn lựa nào cũng có cái giá phải trả và cũng mang lại những kết quả đối với
người lựa chọn. Chọn Chúa hay chọn thế gian. Chọn làm điều lành hay làm điều ác.
Chọn phục vụ Chúa để được khen thưởng, hay chọn âm thầm lắng nghe tiếng Ngài.
Tất cả đều là một lựa chọn. Nhưng cái chọn lựa nhất mà theo Chúa, Maria đã thực
hiện là chọn Chúa. Vì Chúa chính là gia nghiệp, là đường, là sự thật, và là sự
sống của ta. Ngoài Chúa ra không còn chọn lựa nào khác cao quí hơn, cần thiết
hơn mà có thể mang lại phần rỗi cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, khi chọn Chúa,
người Kitô hữu cũng phải như Maria dám đánh đổi tất cả những gì thuộc về thế
gian với một mình Ngài. Chỉ biết nghe Chúa mà đừng bắt Chúa nghe mình. Âm thầm
mà đừng lăng xăng nhiều chuyện. Mà nếu có năng nổ, chịu khó như Mátta, thì đừng
làu bàu, kể lể công đức. Chúa biết hết, Ngài biết những ai yêu Ngài, và tình yêu
mỗi người dành cho Ngài như thế nào.
Tóm lại, một sự chọn lựa trưởng thành, một chọn lựa đúng trong đời sống Kitô hữu
là chọn Chúa. Chọn Ngài vì yêu mến Ngài, chứ không phải chọn Ngài vì được Ngài
khen thưởng, được tiếng khen, hay bất cứ một điều kiện nào. Và đó chính là điều
mà Chúa Giêsu đã nói với Mátta: “Maria đã chọn phần nhất” (Lc 10: 42). Cô đã
chọn Giêsu.
Trần Mỹ Duyệt
Thật tình yêu song chưa hết mình yêu…!
Bài Phúc Âm
Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Năm C tuần này tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm Chúa
Nhật XV Mùa Thường Niên Năm C tuần trước. Có thể nói, bài Phúc Âm tuần này làm
sáng tỏ ý nghĩa của bài Phúc Âm tuần trước. Theo bài Phúc Âm tuần trước, như
chúng tôi đã chia sẻ, “chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết mình trước rồi mới
có thể yêu thương tha nhân như bản thân mình được”, hay nói cách khác, chúng ta
chỉ có thể yêu thương tha nhân như mình sau khi yêu mến Thiên Chúa hết mình,
nghĩa là nếu không yêu mến Thiên Chúa hết mình sẽ không thể nào yêu thương như
mình. “Đó là lý do tại sao Chúa Kitô, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 21
hay đoạn 16 câu 3, đã vạch rõ căn nguyên thế gian bách hại môn đệ của Người như
sau: ‘Họ làm cho các con tất cả những điều ấy là vì họ chẳng nhận biết Cha cũng
không nhận biết Thày’”. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ chân lý yêu
thương và hệ thống yêu thương này nơi nhân vật Matta.
Trước hết, chúng ta cần phải xác nhận là vấn đề “Matta bận rộn với việc thiết
đãi khách”, như Phúc Âm thuật lại, thành phần khách có thể không phải chỉ duy có
một mình Chúa Giêsu mà còn bao gồm cả 12 vị tông đồ nữa, là một việc hết sức cần
thiết và tốt lành, chứ không phải là một việc xấu không được làm hay không cần
phải làm. Bởi vậy chúng ta mới đặt vấn đề, nếu thế thì tại sao chị lại bị Chúa
Giêsu khiển trách?
Về việc Chúa Giêsu khiển trách Matta, chúng ta nên để ý đến nội dung của lời
trách móc này và thời điểm Người lên tiếng trách móc chị. Trước hết, về nội dung
lời trách, Chúa Giêsu không trách chị về các việc chị làm, cho bằng trách chị về
tâm trạng “lo lắng bối rối về nhiều chuyện” của chị. Tức là, nếu chị làm việc mà
vẫn giữ được tâm hồn bằng an và vẫn tỏ thái độ vui vẻ thì thử hỏi chị có bị Vị
Đại Khách hết sức thân tình với cả 3 chị em chị (xem Jn. 11:5), và nếu có dịp
thì ghé thăm gia đình chị, lên tiếng trách móc như vậy hay chăng? Sau nữa, về
thời điểm Chúa Giêsu lên tiếng trách móc Matta, Người vẫn không hề nói năng gì,
tuy thấy chị cứ lăng xăng làm đủ mọi thứ để tiếp đãi Người như vậy, trái lại,
Người còn thông cảm và cảm kích tấm lòng của chị đối với Người nữa là đàng khác.
Đó là lý do, vì rất thương chị, lo đến tâm hồn chị, Người đã không ngần ngại lên
tiếng thức tỉnh chị vào ngay lúc chị tỏ ra choáng váng với chính việc chị tỏ
lòng yêu kính Người, đến nỗi chị đã không thể đứng vững được nữa và ngã xuống
ngay trước mặt Người và em của mình, khi lên tiếng trách móc đứa em: “Lạy Thày,
em con để con hầu hạ một mình mà Thày không quan tâm đến hay sao. Xin Thày hãy
bảo em con giúp con với”.
Lời trách móc của Matta, trước hết, chúng ta có thể nghĩ rằng, Chúa Giêsu chắc
chắn sẽ không lên tiếng trách móc chị, nếu chị, thay vì thốt lên những lời có vẻ
ghen tị với đứa em của mình và có vẻ tủi thân như thế, nhỏ nhẹ thúc giục em mình
rằng: “Maria ơi, chị đang bận việc tiếp đãi Vị Thượng Khách của chúng ta, em làm
ơn tiếp Người hộ chị với nhé”, hay chị cũng có thể thưa cùng Vị Thượng Khách ấy
rằng: “Thày ơi, con thật có lỗi với Thày, vì bận trở để làm bữa tiếp Thày nên
con không có nhiều giờ hầu chuyện Thày, xin Thày cứ nói chuyện với Maria và chờ
con nhé”?
Đúng thế, nếu căn cứ vào câu cuối lời Ngưới nói với Matta về Maria: “Chỉ có một
điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn và nó sẽ không bị mất đi phần tốt
hơn này”, Chúa Giêsu có thể, sau khi nghe những lời giả sử được Matta nên nói
trên đây, cũng sẽ lên tiếng để trấn tỉnh chị rằng: “Matta ơi, nếu đây không phải
là lần đầu tiên Thày đến với gia đình con thì con vẫn chưa hiểu Thày hay sao (xem
Jn 14:9). Con biết Thày quá rồi mà, Thày có cần gì mấy đâu con, bận bịu nhiều
thứ mà làm chi hả con! Thày ghé thăm các con và muốn có nhiều giờ hàn huyên tâm
sự với các con hơn là mất giờ ăn uống, một việc vừa vất vả cho con, lại vừa
không có giờ cho chúng ta. Thày đến nhà con không phải chỉ cho riêng mình Maria
đâu, mà cho cả con nữa đó”.
Như thế, lời trách móc của Matta đã cho chúng ta thấy tâm trạng và trình độ tu
đức, hay trình độ yêu thương thân tình của chị, chẳng những theo hàng ngang, tức
đối với “tha nhân”, được hiện thân nơi đứa em gái của chị, mà còn theo hàng dọc
nữa, tức đối với “Chúa là Thiên Chúa” (xem Lk 10:27), nơi Vị Thượng Khách Giêsu
nữa.
Chắc Matta không có ý, nếu không muốn nói là không dám, trách Chúa Giêsu, mà chỉ
có ý trách Maria em mình thôi. Thế nhưng, lời trách móc của chị cũng bộc lộ một
giọng điệu hàm chứa cả việc trách móc chính Vị Thượng Khách khả kính khả ái của
chị nữa. Điều này cũng có thể đúng, vì nếu Matta chỉ trách em mình thôi, thì tại
sao chị không nói thẳng với em, việc gì phải lôi cả Chúa Giêsu vào cuộc. Chẳng
hạn, Matta có thể gọi riêng Maria đến gần mà nhỏ nhẹ nói: “Maria ơi, còn nhiều
việc phải làm lắm, em đến hộ chị một tay được không, để chị em mình kịp dọn bữa
cho Thày dùng, vì Thày đâu có nhiều giờ ở với chị em mình...”.
Bởi thế, sở dĩ lời trách móc công khai của Matta bao gồm cả Chúa Giêsu trong đó:
“Lạy Thày, em con để con hầu hạ một mình mà Thày không quan tâm đến hay sao?”,
có thể là vì Matta tự cảm thấy tủi thân trước việc Chúa Giêsu đối xử không đồng
đều giữa hai chị em của chị. Ở chỗ, Matta tỏ ra hết sức vất vả để tiếp đãi Người
như vậy mà Người lại chẳng để ý gì đến chị cả, trái lại, trong khi chị đang vất
vả đến tối tăm mặt mũi như thế mà Người cứ tỉnh bơ ngồi nói chuyện riêng với
Maria như không có gì xẩy ra. Rõ ràng là Người chẳng để ý gì đến chị cả, chẳng
để ý đến việc chị làm gì hết. Nếu để ý đến chị, thì chẳng cần chị phải lên tiếng,
Người cũng đã tự động thúc giục Maria giúp chị một tay rồi, chẳng hạn, Người có
thể nói với Maria rằng: “Maria ơi, Thày thấy Matta bận bịu quá đi, con hãy ra
giúp chị con một tay, Thày ngồi đây nghỉ một mình cũng được mà, (hay) đằng nào
Thày cũng muốn ở yên tĩnh một chút, (hoặc) để Thày có giờ đi cầu nguyện, trong
khi các con dọn bữa cho Thày dùng trước khi Thày tiếp tục lên đường thi hành sứ
vụ của Thày”.
Phân tích cũng có lý. Lời trách móc của Matta chẳng những nhắm đến Maria em chị
mà còn bao gồm cả Chúa Giêsu nữa, nói trắng ra, Matta thực sự đã có ý trách cả
Chúa Giêsu. Vì mọi sự xẩy ra là do Người, nếu Người lên tiếng như chị nghĩ “Xin
Thày bảo em con giúp con với”, thì đố Maria còn dám tỏ ra thái độ như bài Phúc
Âm thuật lại: “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người”.
Thế nhưng, mặt nổi của lời trách móc này có thể là như thế, song chiều sâu của
lời trách móc này cho thấy Matta rất muốn được Thày yêu, chỉ vì chị thật lòng
yêu Người. Trường hợp Matta bộc lộ lòng yêu của mình ra đối với Chúa Giêsu bằng
việc hết sức săn đón tiếp đãi Người, kể cả qua lời chị trách yêu Người, lại bị
Người chẳng những không cảm nhận và khen thưởng, còn bị Người khiển trách như
thế, cũng giống hệt như trường hợp tông đồ Phêrô, trong khi tỏ ra rất kính mến
Thày, lại bị Thày thậm tệ xua đuổi: “Đồ Satan, hãy xéo đi...” (Mt 16:23), chỉ vì
vị tông đồ sốt sắng nhiệt tình này đã dám can ngăn Vị Thày rất khả kính khả ái
có một không hai của mình đừng tử nạn theo ý Đấng sai Người. Thế nhưng, nếu căn
cứ vào nguyên tắc yêu thương trọn lành, ở chỗ yêu mến Chúa hết mình và yêu
thương nhau như mình, thì dầu sao cũng phải công nhận là tình yêu của Matta đối
với cả Chúa Giêsu lẫn Maria em chị còn khiếm khuyết, cần phải cải tiến hơn nữa.
Không phải hay sao, qua lời trách móc của mình, chị đâu yêu thương em chị như
bản thân chị đâu. Nếu chị muốn được Thày yêu thì khi thấy Maria được diễm phúc
ấy, thì chị phải mừng như chị được mới phải chứ, mới chứng tỏ chị yêu em chị như
bản thân chị vậy. Cũng qua lời trách của mình, Matta còn tỏ ra chưa yêu mến Chúa
hết mình, yêu một cách mù quáng si mê, yêu một cách quảng đại dấn thân, trái lại,
chị yêu Người một cách ngập ngừng, tùy theo mức độ được Người thương. Tóm lại,
dù đã thật tình yêu Chúa, song chưa hết mình yêu Người, do đó, chị cũng chưa thể
yêu tha nhân, trong đó có người em ruột của chị, như bản thân mình. Và sở dĩ
Matta chưa hết mình yêu mến Người là vì chưa hiểu biết Người, chưa sống thân
tình với Người, như Maria em chị.
Như thế có nghĩa là, trong chính khi khiển trách Matta, Chúa Giêsu đã mở ra cho
chị một chân trời sống đạo chân chính: “Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã
chọn phần tốt hơn và nó sẽ không bị mất đi phần tốt hơn này”. Đúng vậy, qua lời
trách yêu này, Chúa Giêsu như muốn khuyên Matta rằng: “Con hãy ‘chọn phần tốt
hơn’ như Maria em con, ở chỗ, con hãy lấy việc gắn bó với Thày và lắng nghe lời
Thày làm ưu tiên và trọng yếu hơn bất cứ một cái gì phụ thuộc khác, dù những cái
phụ thuộc ấy có cần thiết đến đâu đi nữa, như việc dọn bữa cho Thày con đang làm.
Bằng không, nếu con không có hay không nắm được ‘phần tốt hơn’ bất khả thiếu hay
‘không bị mất đi’ này, con chẳng những sẽ dễ bị ngoại cảnh thu hút mà còn bị đau
khổ quật ngã nữa, điển hình là chính con đã tỏ ra bất mãn với em con và lên
tiếng trách móc Thày vừa rồi đó...”. Đó là nguyên tắc sống nội tâm và là đường
lối tông đồ bất di dịch được Người khẳng định với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly ở
Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 5: “Thày là cây nho, các con là cành. Ai ở trong
Thày và Thày ở trong họ sẽ sinh muôn vàn hoa trái, ngoài Thày ra các con không
làm gì được”.
Qua những gì vừa được chia sẻ, chúng ta đã thấy được ý nghĩa của bài Phúc Âm
Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh Năm C tuần này, thời điểm Giáo Hội
cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tiếp tục tỏ mình trên thế gian cho đến tận thế ra
qua chứng từ Giáo Hội của Người, cũng chính là ở chỗ này. Ở chỗ là, sau khi các
tông đồ được sai đi truyền giáo trở về hớn hở thuật lại cho Thày mình nghe tự sự
những gì “các vị đã làm và đã giảng dạy”, như Phúc Âm Thánh Marcô của Chúa Nhật
XVI Mùa Thường Niên thuộc chu kỳ Năm B hôm nay ghi nhận, thì Chúa Giêsu đã
khuyên các tông đồ rằng: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một
chút”.
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh tuần này,
qua hình ảnh Matta và Maria, chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ nhấn mạnh đến đời
sống nội tâm và cầu nguyện hơn đời sống tông đồ và hoạt động. Tuy nhiên, không
phải vì thế mà đời sống tông đồ và cầu nguyện không cần bằng hay kém giá hơn đời
sống nội tâm và cầu nguyện. Trái lại, hai đời sống này phải đi song song với
nhau và nâng đỡ nhau. Nếu chỉ chuyên hoạt động đến không có giờ cầu nguyện thì
hoạt động sẽ như cành nho lìa khỏi thân nho và sẽ không sinh hoa kết trái gì;
trái lại, một người lại chỉ chuyên chú nội tâm và cầu nguyện đến không quan tâm
gì đến phần rỗi các linh hồn theo tinh thần tông đồ thì cũng chẳng khác gì như
cây vả xum xuê hoa lá cành mà không có trái, cũng sẽ bị nguyền rủa mà chết đi
như Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại ở đoạn 11 câu 13, 20 và 21.
Để có thể dung hòa đời sống nội tâm và hoạt động, trước hết, về phương
diện lý thuyết và nguyên tắc, chúng ta cần lưu ý đến những điều sau đây:
Trước hết, nói đến đời sống nội tâm là nói đến một đời sống giao tiếp với vị
“Thiên Chúa là Thần Linh trong tinh thần và chân lý” (Jn 4:24), và nói đến đời
sống hoạt động là nói đến đời sống tông đồ phục vụ tha nhân trong Thiên Chúa hay
phụng sự Thiên Chúa nơi tha nhân. Bởi thế, nếu đời sống nội tâm liên quan đến
lòng yêu mến “Chúa là Thiên Chúa” hết tình, thì đời sống hoạt động liên quan đến
lòng yêu thương tha nhân như chính bản thân mình. Thực ra, nếu “đức tin hoạt
động qua đức mến” (Gal 5:6), thì đời sống nội tâm liên quan đến đức tin, đến vị
“Thiên Chúa là Thần Linh”, và đời sống hoạt động liên quan đến đức ái, đến tha
nhân. Trong cuộc chủng thẩm, Chúa Kitô Vua, Thẩm Phán Tối Cao sẽ phán xét con
người về hoạt động đức ái đối với tha nhân, nhưng hoạt động này không thể nào có
nếu họ không sống đức tin, tức dù không thấy Người cũng làm ơn cho tha nhân là
hiện thân của Người (x Mt 25:40). Đó là lý do, một khi đức tin đối với Thiên
Chúa yếu kém, con người sẽ không thể nào yêu thương tha nhân trọn lành như Cha
trên trời được (x Mt 5:48), trái lại, còn đi đến chỗ tỏ ra những hành động phản
lại tinh thần Phúc Âm, thậm chí muốn nhân danh cả Thiên Chúa để khủng bố tha
nhân nữa, như trường hợp của các môn đệ muốn khiến lửa trời xuống thiêu hủy một
ngôi làng Samaria vì đã không chịu tiếp đón Thày mình trong bài Phúc Âm Chúa
Nhật hai tuần trước (x Lk 9:54-55). Như thế, đức tin càng mạnh, đức ái càng trọn
hảo, và đức ái càng trọn hảo càng chứng tỏ con người đã đạt tới mức độ đức tin
thần hiệp, mức độ yêu thương trọn lành như Thiên Chúa.
Kinh nghiệm sống đạo thực tế cho thấy Kitô hữu chỉ có thể yêu thương tha nhân
như bản thân mình một khi họ thật lòng và hết lòng yêu mến Thiên Chúa, hay nói
đúng hơn, Kitô hữu chỉ có thể yêu thương tha nhân một cách chân tình và trọn hảo
bằng chính tình yêu của Thiên Chúa mà thôi. Đó là lý do Chúa Kitô đã truyền dạy
cho môn đệ của Người là “các con hãy mến thương nhau như Thày đã yêu thương các
con” (Jn 13:34, 15:12). Qua câu khẳng định này, Chúa Kitô muốn khẳng định với
Kitô hữu chúng ta là thành phần môn đệ của Người là: “Thày là cây nho, các con
là cành. Ai ở trong Thày và Thày ở trong họ sẽ trổ sinh muôn vàn hoa trái, vì
ngoài Thày ra các con không thể làm được gì cả” (Jn 15:5).
Linh Đạo Kitô Giáo là như thế, là ở chỗ, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
nhấn mạnh trong Tông Thư Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ ban hành ngày Lễ Hiển
Linh 6/1/2001, dịp bế mạc Đại Năm Thánh 2000, đâm rễ vươn cao, là “duc in altum”
(Lk 5:4), tức thả lưới ở chỗ nước sâu mới bắt được nhiều cá. Bằng không, dù tài
giỏi mấy đi nữa và vất vả cật lực mấy đi nữa, như trường hợp các tay thuyền chài
chuyên nghiệp trước khi bỏ hết mọi sự theo Chúa Kitô, vẫn không thể bắt được một
con cá nào.
Kinh nghiệm hoạt động tông đồ cũng cho chúng ta thấy rõ điều này. Có những người
rất hăng say hoạt động. Hội đoàn nào cũng tham gia. Công tác nào cũng có mặt.
Thế nhưng, hơi gặp trái ý một chút là bất mãn, than trách, chia rẽ. Bị phê bình
chỉ trích là nản lòng, sợ hãi, bỏ cuộc. Phải chăng thành phần hoạt động tông đồ
này đã như cây nho dính liền với thân nho? Nếu quả thực họ đã sống trong Chúa
Kitô và Chúa Kitô sống trong họ thì không thể nào xẩy ra tình trạng phản sống
đạo như thế được. Đó là những trường hợp của thành phần hoạt động thiếu đời sông
nội tâm.
Trái lại, cũng có trường hợp sống đạo đức mà chẳng sinh hoa kết trái gì, thậm
chí còn sinh trái xấu nữa. Điển hình là những Kitô hữu, như ở Việt Nam xưa chẳng
hạn, hằng ngày vốn có thói quen sáng lễ, trưa nguyện, chiều chầu, tối kinh: Tức
sáng nào cũng dự lễ rước lễ, trưa nào cũng không quên nguyện Kinh Truyền Tin,
chiều nào cũng đi chầu Thánh Thể, tối nào cũng đọc kinh chung gia đình. Ngày nào
bị ngăn trở không thực hiện thói quen đạo đức này thì cảm thấy áy náy và lấy làm
hết sức khó chịu. Thế mà, vừa thấy con gái mình “không chồng mà chưa mới ngoan”,
đã có người trong họ liền bảo “mày phải phá nó đi cho tao”, hay thấy con mình
long đong lận đận khổ sở với người phối ngẫu của nó liền khuyên: “mày cứ bỏ mẹ
nó đi cho xong”, “con cứ ly dị nó quách đi cho rồi” v.v. Đấy là chưa kể đến
nhưng hành vi cử chỉ ăn gian nối dối trong việc làm ăn hay công sở chỉ vì một
chút lợi lộc trần gian.
Tóm lại, muốn làm chứng cho ai cần phải biết đích xác về người ấy thế nào, thì
muốn làm chứng cho Chúa Kitô, tức muốn hoạt động tông đồ để Người được nhận biết
và yêu mến, người môn đệ đích thực của Người cũng phải sống hết sức thân tình
mật thiết với Người trong nội tâm của mình, bằng những giờ chiêm niệm nguyện cầu
như vậy.
Trên phương diện thực hành, để có thể dung hòa đời sống nội tâm và hoạt động,
chúng ta cần lưu ý đến những điểm chính yếu thực tế sau đây:
Về mặt tiêu cực liên quan đến đời sống nội tâm:
1. Đừng sợ bỏ giờ ra cầu nguyện là uổng phí mất thời giờ cần thiết cho rất nhiều
hoạt động và hãy cầu nguyện chẳng những bằng việc tham dự phụng vụ, đọc kinh, mà
còn bằng cả việc đọc sách thiêng liêng và trầm lặng chiêm niệm nữa.
2. Đừng
động một tí, tức không có lý do khẩn thiết, là bỏ cầu nguyện; nếu thật sự cần
thiết có thể châm chước việc cầu nguyện, nhưng cố gắng làm bù lại bao nhiêu có
thể.
3. Đừng vì
khô khan, không cảm thấy hứng thú mà lơ là với việc cầu nguyện, trái lại, càng
cảm thấy nguội lạnh càng cần phải bỏ giờ ra cầu nguyện nhiều hơn.
4. Đừng dấn
thân hoạt động một khi cảm thấy tâm hồn thật sự sa sút đến mức nguy hiểm, bỏ ơn
gọi hay phạm trọng tội; nếu cần phải tạm ngưng mọi hoạt động để lấy lại quân
bình nội tâm, thậm chí phải dứt bỏ hay xin thôi hoạt động, dù hoạt động có ích
lợi mấy đi chăng nữa.
5. Đừng tìm
thành công ở những lời khen tặng hay ở mức đông đảo dân chúng tuốn đến với mình,
mà là ở chỗ chu toàn Thánh Ý Đấng đã muốn mình làm việc của Ngài và cho Ngài.
Về mặt tích cực liên quan đến đời sống hoạt động:
1. Hãy tìm hiểu kỹ lưỡng xem thực sự Chúa muốn mình làm gì, và luôn làm sao để
sống trọn và sống theo những ước nguyện của Kinh Lạy Cha ở mọi nơi và trong mọi
lúc.
2. Hãy dấn
thân thực hiện, bất chấp mọi giá hy sinh và gian nan khốn khó, một khi đã biết
rõ ý Chúa muốn mình làm gì.
3. Hãy dâng
từng việc làm cho Chúa khi bắt đầu làm và cố giữ tâm hồn bình thản trong khi làm
để có thể lắng nghe tiếng Chúa nói trong mọi nơi mọi lúc hầu mau mắn đáp ứng kịp
thời, như trường hợp Mẹ Maria là tâm hồn đã sống hết sức gắn bó và cởi mở với
Chúa, bằng thái độ luôn giữ và suy niệm trong lòng những cảm nghiệm thần linh
xẩy ra trong cuộc đời của Mẹ.
4. Hãy luôn
ý thức rằng vì mình làm việc của Chúa và cho Chúa, nên Chúa sẽ lo hoàn tất việc
của Ngài, phần mình chỉ là phương tiện được Ngài sử dụng, hãy ngoan ngoãn ở
trong bàn tay tinh khéo toàn năng của Ngài.
5. Hãy nhớ
rằng không có máu tử đạo không thể và không xứng làm việc của Chúa và cho Chúa,
bởi vì chính vào lúc người mẹ lâm bồn quằn quại đớn đau lại là lúc một con người
mới vào đời (x Jn 15:21), và cành nào sai trái lại càng cần phải được cắt tỉa để
càng trở nên sai trái hơn (x Jn 15:2).
Một gương mẫu hết sức sống động trong việc sống đời sống nội tâm và hoạt động
tông đồ, một đời sống đã thực sự trổ sinh muôn vàn hoa trái ngay trong thế kỷ
20, đó là gương của Mẹ Chân Phước Têrêsa Calcutta. Chưa có một dòng tu nào trong
lịch sử Giáo Hội đã phát triển nhanh và mạnh như Dòng Chư Thừa Sai Bác Ái của mẹ,
trong vòng 47 năm (1950-1997) đã lan tràn trên 120 quốc gia trên thế giới. Chưa
có một vị sáng lập nào đã lập nhiều ngành tu trì và hoạt động tông đồ như mẹ.
Chưa có một nữ tu nào đi khắp thế giới và làm được nhiều việc bác ái xã hội phi
thường như mẹ. Nếu theo sức tự nhiên không ai có thể làm được những gì mẹ làm,
thì không phải là mẹ đã có một đời sống nội tâm hết sức thâm hậu, với một sinh
lực thần linh thật là dồi dào phong phú hay sao? Một đời sống nội tâm thậm chí,
như những gì được khám phá ra sau khi mẹ qua đời cho thấy, có những lúc mẹ cảm
thấy như Thiên Chúa không hiện hữu và mẹ cảm thấy mình như đang ở trong hỏa ngục.
Tóm lại, để dung hòa đời sống nội tâm và hoạt động, Kitô hữu chúng ta cần phải
làm sao để luôn có một tâm tình tràn đầy ước nguyện của Kinh Lạy Cha, đến nỗi,
nhiệt thành biểu lộ ra qua các việc làm của mình, nhất là những việc tông đồ của
mình, những hoạt động hay những tác hành nhân chứng mà ai giao tiếp với chúng ta
cũng có thể nhận thấy một cách rõ ràng là rằng chúng ta thực sự sống động là để
cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời vậy. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|