|
CHÚA NHẬT
XXVIII QUANH NĂM
BÀI ĐỌC I: 2 Reg 5:14-17
“Naaman trở lại gặp người của Thiên Chúa và ông tuyên xưng Chúa”
Bài trích sách Các Vua
quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman quan lãnh binh của vua
xứ Siria xuống tắm bảy lần ở sông Giođan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa
dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch. Sau
đó, ông và đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi, ông đứng
trước mặt người của Thiên Chúa và nói: “Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào
khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi xin ông nhận lấy
phần phúc của tôi tớ ông”. Tiên tri trả lời rằng: “Có Chúa hằng sống, tôi đang
đứng trước mặt Người: Thật tôi không dám nhận đâu”. Naaman cố nài ép, nhưng tiên
tri không nghe. Naaman nói thêm rằng: “Tùy ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho
tôi là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ
nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho
thần minh nào khác”.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân.
1.
Hãy ca
tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu
Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2.
Chúa đã
công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người
đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel.
3.
Khắp nơi
bờ cõi địa cầu, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu
hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ mừng vui và đàn ca.
BÀI ĐỌC II: 2 Tim 2:8-13
“Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Đức Kitô”.
Bài trích thơ thứ hai
của Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Timôthêô.
Con thân mến, con hãy nhớ rằng Chúa Giêsu Kitô bởi
dòng dõi Đavít đã từ cõi chết sống lại, theo như Tin Mừng cha rao giảng. Vì Tin
Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng
lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích. Vì thế, cha cam chịu mọi sự vì những kẻ
được tuyển chọn, để họ được hưởng ơn cứu độ cùng với vinh quang trên trời trong
Đức Giêsu Kitô. Đây cha nói thật: Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta
sẽ cùng sống với Người. Nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống
trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta.
Nếu chúng ta không tin Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ
chính mình Người.
Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
Alleluia, alleluia. — Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân
danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời.
— Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 17:11-19
“Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua
biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia, thì gặp mười người
phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin
thương xót chúng tôi”. Thấy họ, Người bảo họ rằng: “Các ngươi hãy đi trình diện
với các tư tế”. Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ
thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi
đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ
Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: “Chớ thì không phải cả mười người được lành
sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà
chỉ có người ngoại bang nầy”. Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: “Ngươi hãy đứng dậy mà
về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
CHÍN NGƯỜI KIA ĐÂU?
“Chớ thì chẳng phải cả 10 người đều được khỏi
sao. Còn chín người kia đâu. Chúng không được khỏi cả sao. Sao không thấy trở
lại mà ngợi khen Thiên Chúa” (Lc 17: 17-18).
- Lậy Chúa. Chúa biết tất cả. Chúa biết họ đang ở đâu và làm gì lúc này, thế mà
Ngài còn hỏi con, thì con làm sao mà trả lời.
Đó là tâm trạng chung của con người và cũng là tâm trạng của cả chính chúng ta
nữa. Khi gặp đau khổ, gian nan, thử thách, chúng ta chạy đến và kêu cầu Chúa:
“Lậy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi” (Lc 17:13). Nhưng khi Chúa ban cho
được mọi điều may mắn, được thành công, được khỏe mạnh, được danh giá, được giầu
có, thì lập tức chúng ta xa dần Chúa, và ở chỗ nào mà đến Chúa cũng không biết.
Sự quên ơn, vô ơn bạc nghĩa của con người quả thực đã làm ngỡ ngàng cả Thiên
Chúa. Con số vô ơn của loài người, nếu lấy thí dụ 10 người tật phong hôm nay làm
căn bản, thì đã có đến 90% thuộc loại vô ơn. 10 người được khỏi bệnh mà chỉ có 1
người đến cảm ơn Thiên Chúa, mà người ấy lại là người ngoại bang.
Chúa Giêsu đã nhìn xuyên thấu thời gian, không gian và lòng dạ con người, nên
trong vườn Cây Dầu, Ngài đã phải chìm vào cơn hấp hối đến nỗi mồ hôi chảy thành
máu khi nghĩ đến sự bội phản của loài người, nghĩ đến cái chết nhục nhã, đau khổ
trên thập tự giá, mà rồi vẫn có nhiều người không hưởng được ơn cứu độ do Ngài
mang lại vì thái độ và lối sống vô ơn đối với Thiên Chúa.
“Còn chín người kia đâu”. Nếu Chúa mà cũng không biết hay không muốn biết họ
đang ở đâu và làm gì, thì có nghĩa là họ đã xa khỏi tầm nhìn của Ngài. Không có
trong con mắt Ngài, bởi hành động vô ơn, bội nghĩa của họ.
“Còn chín người kia đâu”. Chúa Giêsu khi nêu lên câu hỏi này, hẳn là Ngài muốn
nhắn nhủ chúng ta cũng như người bệnh mà Ngài đã chữa cho lành rằng, con người
không thể làm gì được, và mọi điều thiện hảo, mọi ơn lành đều được ban xuống qua
Ngài. Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngài muốn đồng hành với con người, chia sẻ
thân phận của họ. Ngài chỉ muốn có một điều là con người khi đón nhận những ơn
lành Ngài ban, thì biết cảm ơn Thiên Chúa, và sống sao cho những ơn huệ ấy làm
lợi cho chính linh hồn của mình.
Tâm lý tự nhiên khi một ơn ân huệ được ban ra cho bất cứ ai, thì cả người ban ơn
cũng như người thọ ơn đều vui mừng và sung sướng. Nhưng phần biết ơn, và cảm ơn
thuộc về kẻ thọ ơn. Người ta không phải ghi ơn và biết ơn kẻ mình ban ơn, và
cũng không ai bắt người ban ơn phải cảm ơn và biết ơn người thọ ơn mình. Ngược
lại, đạo đức xã hội, lương tâm con người, và đạo đức tâm linh đòi buộc những kẻ
thọ ơn phải biết ơn người đã ban ơn cho mình. Chính do thái độ biết ơn đó sẽ làm
cho người ban ơn cảm thấy hài lòng, và sẵn sàng ban thêm ơn mới: “Ai biết ơn sẽ
được ban thêm ơn mới”. Và điều này cũng như lời Chúa đã phán: “Kẻ đã có lại cho
thêm”. Ngoài ra, thái độ biết ơn sẽ giúp cho người thọ ơn hiểu được bổn phận
mình và nghĩa vụ mình, là phải làm thế nào để sống xứng đáng với những ơn mình
đã lãnh nhận.
“Còn chín người kia ở đâu”. Câu hỏi này cũng nhắc nhở chúng ta và như một lời
cảnh giác về thái độ sống của mình mỗi ngày:
- Chúng ta ở đâu mà không đến thánh đường vào mỗi Chúa Nhật để dâng lời ngợi
khen và cảm tạ hồng ân Thiên Chúa sau một tuần lễ ngụp lặn trong muôn ơn lành
của Ngài.
- Chúng ta ở đâu mà không có mặt trong những buổi kinh sớm tối của gia đình để
cảm tạ Thiên Chúa về sự quan phòng và che chở của Ngài đã ban cho qua một đêm an
lành, và một ngày sinh hoạt đầy bận rộn, vất vả.
- Chúng ta ở đâu mà không có mặt trong những buổi tĩnh tâm, cấm phòng để học hỏi,
tìm hiểu hầu gia tăng lòng yêu mến Thiên Chúa là cha nhân lành mỗi ngày một hơn.
- Chúng ta ở đâu mà không có mặt trong buổi tổ chức gây quĩ giúp nạn nhân bão
lụt, hỏa hoạn, thiên tai, và chiến tranh như một đáp trả ân tình, một chia sẻ về
những điều may lành mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta.
Chúng ta ở đâu. Nếu Thiên Chúa muốn tìm thấy chúng ta giữa những vui mừng, hạnh
phúc, thành công, cũng như những đau khổ, thử thách, và thất bại, liệu Ngài có
nhìn thấy chúng ta hay không? Hay Ngài chỉ nhìn thấy chúng ta mỗi khi chúng ta
cần đến Ngài; ngoài ra, những lúc thành công, sung sướng, hạnh phúc, may mắn thì
chúng ta biến mất khỏi mặt Ngài. Chúng ta sẽ trả lời Ngài như thế nào, nếu Ngài
muốn hỏi chúng ta về nơi mà chúng ta đang ở như Ngài đã hỏi người phong cùi sau
khi đã được Ngài chữa lành về nơi ở của chín người khác: “Còn chín người kia đâu.
Sao không thấy trở lại mà ngợi khen Thiên Chúa” (Lc 17: 17,18).
Lậy Chúa, xin cho con lòng biết ơn và khiêm tốn trước muôn ơn lành của Ngài. Xin
cho con mỗi khi Chúa muốn thấy mặt con, là con đã đang hiện diện trước nhan
thánh Ngài. Và xin đừng để con bị liệt vào số những kẻ vô ơn, bội bạc, nhất là
chối bỏ tình yêu Ngài trong giờ sau hết của đời con.
Trần Mỹ Duyệt
Đức tin không thể cứu độ
nếu Thiên Chúa chỉ là một phương tiện...
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Mùa Thường Niên Năm C tuần trước, Chúa Giêsu
đã chỉ cho các môn đệ bí quyết làm cho đức tin nơi các vị tăng phát, bằng việc
các vị “hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3), ở chỗ, thâm tín và thực
hiện lời Người khuyên dạy: “Sau khi các con làm xong tất cả những gì các con
được lệnh làm thì các con hãy nói rằng ‘Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng
tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi’”. Trong bài Phúc Âm Chúa
Nhật XXVIII Mùa Thường Niên Năm C tuần này, Chúa Giêsu còn cho các môn đệ đi
theo Người lên Giêrusalem thấy thế nào là thực lòng tin tưởng, hay việc tin
tưởng mạnh mẽ được thể hiện thực sự ra sao, qua việc Người chữa lành sạch cho
mười người phong cùi ở một làng kia thuộc lãnh địa biên giới xứ Samaria và
Galilêa. Phúc Âm Thánh Luca hôm nay trình thuật lại là trong mười người cùi được
Chúa Giêsu chữa cho lành sạch này, chỉ có “một người trong họ”, “người này là
người Samaritanô”, như Phúc Âm cho biết: “thấy mình được chữa lành đã trở lại
lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa. Anh ta sấp mặt xuống dưới chân Chúa Giêsu mà
ngợi khen Người”. Vấn đề Chúa Giêsu đặt ra ở đây là, cũng theo Phúc Âm thuật lại:
“Chẳng lẽ cả mười người không được khỏi hết hay sao? Còn chín người kia đâu? Sao
không có ai trở lại tạ ơn Thiên Chúa ngoại trừ người ngoại lai này?”.
Qua một loạt vấn nạn tỏ vẻ bỡ ngỡ hết sức này, Chúa Giêsu muốn nói với ai đây?
Với người cùi được sạch đang sấp mặt dưới chân Người, hay với các môn đệ đang ở
bên cạnh Người bấy giờ, hoặc với chín người phong cùi được khỏi song đã biến đâu
mất tiêu?
Trước hết, căn cứ vào ý nghĩa của một loạt vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra, chắc chắn
Người không có vấn đề gì với người cùi Samaritanô ngoại lai trở về chúc tụng
Thiên Chúa nơi Người là Đấng đã làm cho anh ta được lành sạch. Bởi vì, câu Người
muốn nói với anh ta là: “Con hãy đứng dạy mà đi; đức tin của con đã cứu con”.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào câu Chúa Giêsu nói với người cùi Samaritanô này, thì
chín người cùi kia cũng có đức tin, bằng không, họ cũng đâu có được lành sạch,
đâu có được cứu khỏi bệnh cùi. Nghĩa là, cũng như người cùi Samaritanô trong bài
Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, chín người cùi kia cũng thật sự tin tưởng rằng Chúa
Giêsu có thể chữa họ lành sạch bệnh phong cùi, do đó họ mới cùng nhau, như Phúc
Âm thuật lại là tìm “gặp Người. Đứng xa xa mà lên tiếng thưa Người rằng: ‘Lạy
Thày Giêsu, xin Ngài thương đến chúng tôi!’”.
Như thế, lời Chúa Giêsu vấn nạn về 9 người cùi không trở lại tạ ơn Thiên Chúa là
những gì tỏ ra cho thấy Người cố ý nói với họ, chứ không phải nói với người cùi
ngoại lai Samaritanô hay với các môn đệ của Người? Thế nhưng, qua câu Người vấn
nạn về 9 người cùi này, phải chăng Người vẫn không phủ nhận là họ thật sự đã có
đức tin xứng hợp để đáng được Người chữa lành cho?
Chúng ta nên để ý đến hai chi tiết sau đây trong bài Phúc Âm hôm nay. Chi tiết
thứ nhất là không phải chỉ có một người hay hai ba người bị phong hủi tìm đến
gặp Chúa Giêsu để xin Người chữa cho được lành sạch, mà là mười người tất cả,
nghĩa là một nhóm khá đông so với thành phần thiểu số dân chúng bị cùi. Chi tiết
thứ hai là mười người cùi này hình như không phải ở một nơi trong cùng một trại
cùi, mà là ở rải rác các nơi khác nhau trong vùng biên giới Samaritanô và
Galilêa, và đã rủ nhau đến gặp Chúa Giêsu, vì trong đó có một người cùi thuộc xứ
Samaritanô. Cũng có thể chín người cùi kia thuộc xứ Galilêa ở cùng một trại cùi
có ý định đến gặp Chúa Giêsu chẳng may gặp phải người cùi Samaritanô có cùng một
ý định như họ chăng? Tuy nhiên, con số đông người cùi, lên đến mười người một
lúc đây, cho thấy chẳng những tiếng tăm của Chúa Giêsu đầy quyền năng mà còn cho
thấy cả đức tin của những ai đến với Người nữa. Tóm lại, nếu mười người cùi
trong bài Phúc Âm hôm nay không thực sự tin vào Chúa Giêsu là Đấng có thể chữa
mình lành sạch thì đã không rủ nhau đông đảo tìm đến với Người như vậy. Chính sự
kiện họ thật sự được lành sạch đã là bằng cớ hùng hồn cho thấy họ đã hết lòng
tin vào Người, tin Người đến nỗi Người bảo họ làm gì, dù không biết kết quả ra
sao, họ cũng làm y như vậy, đó là việc Người bảo họ “các anh hãy đi trình diện
với các vị tư tế”, nhờ đó, nhờ lòng tin của mình, như Phúc Âm thuật lại, “Họ
đang đi đến đó thì được khỏi”.
Đúng thế, việc mười người phong cùi trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này nghe
lời Chúa Giêsu đi trình diện với các vị tư tế đây quả là một việc chứng tỏ họ
hoàn toàn và hết sức tin tưởng Người. Bởi vì, theo luật Moisen, trong Sách Lêvi
đoạn 12 từ câu 9 đến 34, khi biết mình bị cùi, họ đã phải đi trình diện với các
vị tư tế rồi. Bây giờ họ lại phải đi trình diện nữa để mà làm gì? Họ có thể nghĩ
như thế mà bỏ cuộc cũng được vậy.
Thật vậy, giống như trường hợp của quan Naaman ở bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật
tuần này, trong phần trước đó, phần không được Phụng Vụ Lời Chúa trích lại, Sách
Các Vua Quyển 2 ở đoạn 5 câu 11 thuật lại rằng, sau khi nghe tiên tri Êlisa nói
hãy xuống tắm ở sông Dược Đăng 7 lần thì da thịt của quan sẽ được lành sạch,
quan liền tự ái tính bỏ cuộc mà rằng: “Ta tưởng rằng vị tiên tri này hẳn sẽ ra
mặt đứng cầu cùng Chúa là Thiên Chúa của ông ta, rồi đặt tay lên để chữa lành
dấu vết phong cùi chứ. Chẳng lẽ ở Đamascô lại chẳng có những giòng nước còn khá
hơn tất cả những sông nước ở Yến Duyên hay sao?”. Thế rồi, sau khi nghe lời
khuyên của đứa tớ gái Do Thái, quan đã bỏ mình đi nghe theo lời của tiên tri
Eâlisa, để rồi, như bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Khi quan trở lại đứng
trước vị tiên tri mà nói: ‘Nay tôi biết rằng không có một Vị Thiên Chúa nào khác
trên toàn thể địa cầu này ngoài Vị ở Yến Duyên”. Trường hợp của quan Naaman này
cho thấy những gì Chúa Giêsu dạy các tông đồ trong bài Phúc Âm tuần trước về
việc tăng phát đức tin của các vị, ở chỗ, các vị “hãy hoán cải và trở nên như
trẻ nhỏ”, có thế, hạt giống đức tin, hạt giống mạc khải thần linh vốn có khả
năng nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái, mới đạt đến tầm vóc viên trọn của
mình nơi các vị. Thánh Phaolô đã khẳng định trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật
tuần này về tác dụng thần linh vô cùng mãnh lực của những gì Chúa làm, những gì
Chúa nói, đó là: “Lời Thiên Chúa không thể bị trói buộc”.
Nếu mười người phong cùi được lành sạch đã thực sự xẩy ra như Phúc Âm Chúa Nhật
tuần này thuật lại, thì nguyên nhân khiến tất cả mười người trong họ được lành
sạch bệnh cùi này là do đức tin của họ, như Chúa Giêsu đã nói với một người
trong họ: “Đức tin của con đã cứu con”. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là
tại sao nhờ đức tin cả mười người cùi đã được lành sạch song chỉ duy một mình
người cùi Samaritanô ngoại lai trở lại tạ ơn Thiên Chúa?
Phải chăng lời Chúa Giêsu phán với người cùi ngoại lai này không phải chỉ áp
dụng cho việc anh ta được lành sạch phần xác giống như chín người cùi kia, mà
nhất là áp dụng cho việc lành sạch phần hồn của anh ta. Thật vậy, chính vì người
cùi ngoại lai này trở lại với Đấng đã chữa mình lành sạch bệnh cùi phần xác, tức
đã trở về với Thiên Chúa là cùng đích của mình, mà anh ta đã thực sự sống trong
chân lý, trong ánh sáng, nghĩa là đã được “chân lý giải phóng” (Jn 8:32), được
cứu độ. Còn chín người cùi kia, chỉ coi Thiên Chúa là phương tiện cứu độ hơn là
cùng đích của mình, do đó, sau khi đạt được những gì mình xin, đạt được ý riêng
là chủ tể của mình, được thoát khỏi những gì khổ sở, liền quên Ngài, cho Ngài
sang một bên, coi như không có Ngài. Thế nhưng, họ có biết đâu rằng, một khi
linh hồn họ không được giải thoát, không được cứu độ, như trường hợp người cùi
ngoại lai trong số họ, thì thân xác vừa được lành sạch của họ có thể sẽ trở
thành dịp tội cho họ, thậm chí có thể làm cho họ bị vĩnh viễn hư đi, đến nỗi,
một khi chẳng may ở vào trường hợp đời đời bất hạnh như người phú hộ trong bài
Phúc Âm cách đây 2 tuần, chắc họ sẽ phải ân hận thốt lên: thà mình cứ bị cùi còn
hơn. Và bấy giờ họ mới thấm thía cái phúc và cái khốn Chúa Giêsu đã nói trong
bài Phúc Âm Thánh Luca Mùa Thường Niên Năm C Tuần Thứ 6: “Phúc cho các người là
kẻ khóc lóc; các người sẽ vui cười. Khốn cho các người là kẻ giờ đây vui cười;
các người sẽ phải khóc lóc buồn thương”.
Theo các Phúc Âm Nhất Lãm, nếu Chúa Giêsu chỉ chữa lành và thường chữa lành tật
nguyền phần xác cho con người nếu họ có đức tin, hay tỏ đức tin của mình ra, thì
10 người cùi trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Mùa Thường Niên Năm C theo Thánh
Luca tuần này cũng phải có đức tin mới được Người chữa lành cho. Vậy tại sao khi
con người ta khổ thì tỏ ra có đức tin, phải nói là có một đức tin rất mạnh, tuy
nhiên, một khi hết khổ, hay một khi được sung sướng thì hầu như hết đức tin, nếu
không muốn nói là thậm chí mất đức tin một cách dễ dàng nhanh chóng, như trường
hợp của 9 người cùi không quay trở lại tạ ơn Thiên Chúa như người cùi Samaritanô
ngoại lai trong bài Phúc Âm hôm nay?
Phải chăng đức tin nếu có tăng phát, như các tông đồ đã xin Thày mình tăng đức
tin cho trong bài Phúc Âm tuần trước, thì đức tin cũng có thể giảm sút hay mất
đi, như trường hợp chín người cùi trong bài Phúc Âm hôm nay? Tại sao nếu Thiên
Chúa biết được con người vô ơn bội nghĩa như vậy mà còn ban ơn cho họ, những ơn
lành về phần xác, những ơn sẽ khiến họ mắc tội với Ngài hơn, và có thể vì thế mà
họ sẽ bị khổ về phần hồn hơn? Thà Ngài đừng ban cho họ có phải hay hơn không?
Phải chăng, sở dĩ Ngài làm như vậy là bởi vì, như Thánh Phaolô thâm tín trong
bài đọc thứ hai tuần này: “Nếu chúng ta chối bỏ Ngài, Ngài sẽ chối bỏ chúng ta.
Nếu chúng ta bất trung, Ngài vẫn tín trung; vì Ngài không thể chối bỏ chính mình
Ngài”?
Tóm lại, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này chẳng những dạy cho chúng ta phải có
lòng biết ơn Thiên Chúa về những gì Ngài đã ban cho chúng ta, nhất là những điều
tự chúng ta muốn xin Ngài, như trường hợp của 10 người tật phong được bài Phúc
Âm thuật lại, mà còn dạy cho chúng ta hai điều quan trọng nữa như thế này.
Điều
thứ nhất đó là phải coi Chúa là cùng đích của mình chứ đừng là phương tiện để
đạt được đích điểm riêng của mình, bằng không, hệ quả của hành động lạm dụng của
mình hay đi ngược chiều của mình sẽ rất ư là nguy hiểm và tai hại. Ở chỗ, chín
người tật phong lấy Chúa là phương tiện, nên thấy mình được khỏi bệnh, tức được
mọi sự như lòng mong ước thì quên Chúa là cùng đích mà mình phải qui về. Bằng
không, thân xác đã được lành sạch bệnh cùi của một kẻ không biết đến cùng đích
của mình, một kẻ sống như vô định, sẽ trở thành phương tiện để làm các điều xấu
xa về luân lý là những gì còn ghê rợn hơn cả bệnh cùi về thể lý nữa. Thân xác
của người được sạch cùi đây có thể hiểu là ngôi nhà đã không còn thần ô uế,
nhưng nếu chủ nhà này không sống theo đức tin, cuộc đời của họ sẽ gặp nguy hiểm
hơn trước nữa khi thần ô uế trở lại (x Lk 11:26).
Điều
thứ hai đó là con người cần phải được lành mạnh nơi tinh thần của mình hơn là
thân xác. Chính vì thế, khi người tật phong ngoại lai lấy Chúa làm cùng đích trở
lại tạ ơn Chúa, bấy giờ Người mới bảo anh ta rằng: “Đức tin của con đã cứu chữa
con”, một đức tin sẽ làm cho anh ta sáng suốt biết sử dụng thân xác của mình
hoàn toàn theo dự án của Đấng Tạo Dựng, như một khí cụ công chính, một phương
tiện để làm những điều lành thánh phúc thiện (xem Rôma 6:13).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Van Nài Cho Bằng Được
(Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII
Năm C)
Hướng Dẫn
Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu muốn khuyên dạy cho chúng ta,
trước hết, phải liên lỉ nguyện cầu và nguyện cầu một cách kiên trì nhẫn nại, đến
nỗi bao giờ được mọi sự như lòng mong ước hay được thỏa đáng nhu cầu của mình
mới thôi.
Bởi vì, một quan án phàm nhân, coi trời bằng vung và nhìn đời bằng đuôi con mắt,
mà còn biết giải quyết những gì phiền nhiễu đến mình, thì Thiên Chúa là Đấng
muốn thi ân hơn ai hết, muốn bị làm phiền hơn ai hết, chắc chắn sẽ đáp ứng những
kẻ cứ thích làm phiền Ngài.
Thành phần làm phiền Đấng hằng muốn ban ơn và thích được làm phiền đây chính là
thành phần được Ngài yêu thích nhất, vì họ tỏ ra tin tưởng Ngài hơn ai hết, hiểu
Ngài hơn ai hết, bởi thế mới đánh động Ngài hơn ai hết, khiến Ngài không thể
không làm theo ý họ muốn.
Đó là lý do hôm nay chúng ta sinh hoạt Phúc Âm Chúa Nhật tuần này với trò chơi
Van Nài Cho Bằng Được như sau.
Sinh Hoạt
1. Mỗi nhóm cử ra một người đóng vai van xin. Người quản trò đóng vai Thiên Chúa
lắng nghe và đáp lời nguyện cầu của người van xin.
2. Mỗi người van xin phải bày tỏ ra tiếng lời than thở cùng ý nguyện của mình để
xem Thiên Chúa đáp lời mình khẩn nguyện ra sao. Chẳng hạn, nói những lời như sau:
“lạy chúa”, “xin chúa”, “cho con”, “những ơn sau đây”, “hạ mình xuống” v.v. (từ
2 tới 4 chữ thôi)
3. Thường Thiên Chúa không đáp lời van nài của con người ngay, nên Ngài cứ im
lặng, một thái độ làm cho con người cảm thấy như Ngài thích làm trái với ý muốn
của con người.
4. Bởi thế, người đóng vai Thiên Chúa phải đáp ngược lại những lời van xin của
con người trên đây như sau: “chúa lạy”, “chúa xin”, “con cho”, sau đây những ơn”,
xuống mình hạ” v.v., nghĩa là ngược lại với những lời trên đây.
5. Tuy nhiên, người cầu xin nào làm cho thiên chúa nói xuôi theo mình hay đáp
lại giống như mình thì kể như ngài đã tỏ ra nhận lời mình rồi.
6. Chẳng hạn con người thân thưa cùng chúa rằng: “lạy chúa”, thay vì chúa đáp
ngược lại “chúa lạy” thì lại đáp “sao con” thì kể như chúa đã lắng nghe và nhận
lời. Hay chẳng hạn con người cầu nguyện “cho con”, chúa cũng lập lại “cho con”
một cách thuận chiều với người cầu xin, thì kể như ngài tỏ ra làm theo ý người
van xin.
7. Những ai làm được cho thiên chúa nhận lời van xin của mình nhanh nhất là
người thắng giải Van Nài Cho Bằng Được.
|