|
CHÚA NHẬT IV
MÙA CHAY-C
BÀI ĐỌC I: Jos
5:9a, 10-12
“Dân Chúa tiến vào đất Chúa hứa và mừng lễ Vượt Qua”
Bài trích sách Giosuê.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Giosuê rằng:
“Hôm nay, Ta đã cất sự dơ nhớp của Ai Cập khỏi các ngươi!” Con cái
Israel tạm trú tại
Galgali và mừng lễ Vượt Qua vào ban chiều ngày mười bốn trong tháng, trên cánh
đồng Giêricô. Ngày hôm sau lễ Vượt Qua, họ ăn các thức ăn địa phương, bánh không
men và lúa mạch gặt năm ấy. Từ khi họ ăn các thức ăn địa phương, thì không có
manna nữa. Và con cái Israel không còn ăn manna nữa, nhưng họ ăn thổ sản năm đó
của xứ Canaan.
Lời của Chúa.
Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)
Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo nhường bao.
1.
Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong
Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
2.
Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu
khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.
3.
Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người
đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.
BÀI ĐỌC II: 2 Cor 5:17-21
“Thiên Chúa đã nhờ Đức Kitô giao hòa chúng ta với mình”
Bài trích thơ thứ hai
của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô, thì
người đó sẽ là một thụ tạo mới, những gì là cũ đã qua đi: nầy đây tất cả mọi sự
đã trở thành mới. Vì mọi sự bởi Thiên Chúa, Đấng đã nhờ Đức Kitô giao hòa chúng
ta với mình, và trao phó cho chúng tôi chức vụ giao hòa. Thật vậy, Thiên Chúa là
Đấng giao hòa thế gian với chính mình Người trong Đức Kitô, nên không kể chi đến
tội lỗi của loài người, và đặt lên môi miệng chúng tôi lời giao hòa. Nên chúng
tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như chính Chúa dùng chúng tôi mà khuyên bảo. Vì
Đức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hòa với Thiên Chúa. Đấng không hề
biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta
trở nên sự công chính của Thiên Chúa.
Lời của Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa
cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha.
PHÚC ÂM: Lc 15:1-3, 11-32
“Em con đã chết nay sống lại”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi
đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật
sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông nầy đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với
chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: “Người kia có hai con trai. Đứa
em thưa với cha rằng: “Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con”.
Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả
của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó
tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy
túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng
chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai
cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: “Biết bao người làm công ở nhà cha tôi
được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với
cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con
không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm
công của cha”. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó
chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn
nó hồi lâu... Người con trai lúc đó thưa rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến
trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha bảo
đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay
cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì
con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Và người ta bắt đầu
ăn uống linh đình. Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe
tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên
đầy tớ nói: “Đó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về
mạnh khỏe”. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh
vào. Nhưng anh trả lời: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh
cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng
với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha
với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”. Nhưng
người cha bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con.
Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại
tìm thấy”.
Phúc Âm của Chúa.
SUY NIỆM
HAI NGƯỜI CON
Trần Mỹ Duyệt
Câu truyện Thánh Kinh được Thánh Luca kể mà
Giáo Hội đã trích dẫn cho Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay hôm nay có thể được tóm lược
như sau: Gia đình ba cha con kia, người cha là một người giầu có, chịu khó, tốt
bụng, rộng lượng, hào phóng, và thương chiều con. Những đức tính này, ông đã
chia đồng đều cho hai con trai ông. Và mỗi người con đều thừa hưởng di sản tinh
thần ấy của ông.
Cũng như ông, hai con trai ông cũng là những người chịu khó, tốt bụng, rộng
lượng và xã giao rộng rãi. Chỉ khác nhau là trong khi phát triển những đặc tính
cá nhân ấy, mỗi người con có một tầm nhìn, một suy tư, và lối sống khác nhau.
Người con cả là một người chị khó, anh ngày đêm bên cha, và chăm chỉ làm việc.
Anh cũng là người tốt bụng, rộng rãi và quảng giao với bạn bè. Do đó, anh tưởng
đã có lý để than phiền với cha mình: “Bao năm qua con phục vụ cha, không hề trái
lệnh cha, vậy mà cha chưa hề cho con một con dê nhỏ để thiết đãi bạn bè” (Luc
15:29).
Và người con thứ, anh cũng như anh chàng, chịu khó, tốt bụng, và rộng rãi với
bạn bè. Số tiền cha anh chia cho, anh đã tiêu xài một cách hết sức thoải mái, tự
do, và không tính toán. Tuy là một công tử nhà giàu, nhưng khi gặp nạn, anh vẫn
không ngần ngại làm những việc thấp hè trong xã hội, như đi chăn lợn: “Sau khi
đã tiêu xài hết số tiền, gặp cơn đói kém xẩy tới cho xứ này, và anh ta không có
gì ăn. Vì thế anh đã đến một người phú hộ trong vùng, và người này đã sai anh
tới trại để chăn lợn” (Luc 15:14-15).
Tuy cũng cùng một khả năng, một di truyền tính, nhưng khi ứng dụng vào hoàn cảnh
sống, hai anh em này lại có những phản ứng trái ngược, và xung khắc nhau. Trong
tâm lý sống này, người anh đã hoán chuyển tất cả những khả năng và tính nết của
mình vào việc phục vụ cho quyền lợi riêng tư, cho phúc lợi của cá nhân mình. Anh
tận tụy với cha, tốt bụng với bạn bè, nhưng cốt lõi là qui về chính mình anh. Do
đó, anh vẫn chưa diễn tả được sự tốt bụng, rộng lượng và hào phóng của cha anh.
Bằng chứng cụ thể là anh vẫn còn tức bực với cha anh, và ghen tỵ với em của anh.
Ngược lại, người em tuy bề ngoài có vẻ hư hỏng, thật ra, anh chỉ hành động theo
tính tình tuổi trẻ, bồng bột, và ngu xuẩn nhất thời. Tận trong thâm tâm, anh
luôn nghĩ đến cha mình, đến mái ấm gia đình, và nhất là không quan tâm đến những
chi tiết nhỏ mọn như chuyện xẩy đến có thể làm anh bị mất mặt khi phải đi chăn
lợn; hoặc có thể bị cha từ chối khi trở về. Đối với anh, cha anh là tất cả. Điều
anh ân hận là đã làm cho cha mình buồn. Chính vì thế anh đã tự nhủ: “Tôi sẽ đứng
dậy và trở về cùng cha tôi, và nói với người: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời
và đến cha. Con không xứng đáng được làm con cha nữa” (Luc 15: 18).
Câu truyện ba cha con trên, hiển nhiên mô phỏng gia đình nhân loại mà Thiên Chúa
đã tạo dựng và thương yêu. Ngài là Cha nhân lành, và mỗi người chúng ta là con
của Ngài, được thừa hưởng tất cả những đức tính tốt lành của Ngài. Ngài đã phân
chia đồng đều gia sản tinh thần của Ngài cho từng người con, tùy theo khả năng
và ý định tốt lành của Ngài. Nhưng kìa. Mỗi người đã hành xử khác nhau, và theo
một nghĩa của tâm linh, đó là hành động của con người bị thu hút bởi xu hướng cá
nhân, đam mê, và cám dỗ của ma qủy. Vì thế, người thì ích kỷ, keo kiệt, tham
lam, vô độ, chỉ muốn tất cả cho riêng mình. Ngược lại, người thì không biết dùng
những tài năng, những vốn liếng tinh thần đúng chỗ và đúng lúc. Tóm lại, tất cả
chúng ta nhiều hay ít đã không làm cho Cha trên trời hài lòng.
Tuy nhiên, như người cha trong Tin Mừng, Thiên Chúa vẫn đứng đó, vẫn nhẫn nại,
và mòn mỏi chờ đợi các con mình. Ngài sẵn sàng mở rộng vòng tay đón tiếp, bỏ qua
tất cả, và tha thứ tất cả. Ngài không chấp nhất, và đòi hỏi. Đối với Ngài, không
một con nào dù tội lỗi đến đâu mà khi trở về lại không được Ngài mở rộng vòng
tay âu yếm ôm vào lòng. Trước những lỗi lầm và yếu đuối, Ngài muốn các con Ngài
đừng thất vọng, và đừng bao giờ rời xa tình thương của Ngài. Chính sự thất vọng
và không quay trở về kia mới làm cho Ngài đau lòng chứ không phải những yếu đuối
nhất thời của con người.
Ngoài ra, Ngài cũng muốn con cái Ngài thương yêu nhau. Đừng ghen tương, giận hờn.
Đừng nghĩ rằng Ngài đối đãi bất công, thương con này mà ghét bỏ con kia.Vì ý
nghĩ này xúc phạm đến tình thương và tấm lòng rộng rãi vô biên của Ngài.
Sau cùng, Ngài muốn mỗi người phải biết xử dụng những tài năng, những ân sủng
Ngài ban để hướng tầm nhìn và nâng cao những giá trị tâm linh. Mở rộng cõi lòng
tiếp nhận nhau, tha thứ cho nhau, cũng như tha thứ cho chính mình. Chúng ta chỉ
bị loại bỏ ra ngoài căn nhà của Ngài nếu chúng ta tự ý ra đi như người con thứ.
Nhưng chúng ta vẫn không bị từ chối khi ý thức sự nhầm lẫn và sẵn sàng quay trở
về căn nhà yêu dấu ấy.
Nhưng liệu sự chờ đợi mỏi mòn của người cha già thân yêu có được đền bù không.
Hay vẫn có những người con lầm đường, lạc lối mà không bao giờ tìm về. Mùa Chay
là mùa ăn năn thống hối, và quay trở về với Thiên Chúa. Có bao giờ ta tự hỏi và
nói với lòng mình như người con thứ: “Tôi sẽ đứng dậy và trở về cùng cha tôi, và
nói với người: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha”.
Xa cha là phung phá
- gần cha lại hoang đàng
Bỏ cha đời nô lệ - với cha đời vương giả
Sau khi đã kêu gọi con người cải thiện đời
sống ở bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C tuần trước, trong bài Phúc Âm
Thứ IV Mùa Chay Năm C tuần này, Giáo Hội chọn bài Phúc Âm của Thánh Ký Luca về
dụ ngôn người con phung phá, cũng được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, để kêu
gọi con người nói chung, và thành phần tội nhân nói riêng, hãy tin tưởng vào
tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa là Cha trên trời mà trở về với Ngài.
Thật vậy, nếu người con phung phá không tin tưởng vào người cha từ bi nhân hậu
của mình, trái lại, biết chắc chắn rằng người cha sẽ giết chết mình khi vừa thấy
mình, hoặc bỏ thương vương tội nhưng vẫn đối xử tàn tệ với mình cho bõ ghét, hay
để mặc cho người anh, thậm chí cả kẻ ăn người ở trong nhà tha hồ mà nhục mạ chửi
rủa mình, thử hỏi người con phung phá có dám mò về với cha hay chăng, hay thà
chết cũng không bao giờ chịu trở về với cha.
Trong dụ ngôn này chúng ta thấy có nhiều màn xẩy ra cho người con phung phá, thứ
tự như sau:
1. Người con xin cha chia phần gia tài của mình cho.
2. Sau đó người con này đã đem gia tài của cha và được cha chia cho đi phung phí
vào những đam mê trụy lạc của mình.
3. Hậu quả của cuộc đời phung phá là người con phải trải qua một cảnh bần cùng
khốn khổ hết sức nhục nhã và chán chường.
4. Thế nhưng, chính trong cơn hoạn nạn khốn khó ấy người con mới tỉnh ngộ và đã
nghĩ về cha, để rồi quyết định trở về với cha.
5. Người con hoang đường chẳng những được cha thứ tha mà còn được cha vừa mở
tiệc ăn mừng vừa phục hồi lại cho tất cả những gì quí giá người con đã làm mất
đi trong quãng đời phung phá quá khứ của mình.
Thật vậy, qua dụ ngôn này chúng ta mới thấy rằng chỉ có duy một mình Thiên Chúa
mới quả thực là người cha đích thật, mới xứng đáng mang danh làm cha và được gọi
là “cha”. Bởi vì, Ngài vô cùng nhân hậu và xót thương, thông cảm với đứa con yếu
đuối và lầm lạc, chẳng những không chấp nhất nó, trừng phạt lỗi lầm của nó, mà
còn hết sức nhẫn nại, ngong ngóng trông đợi nó hồi tâm nghĩ lại mà trở về với
mình, để rồi khi vừa thấy nó tỏ ý muốn và dứt khoát trở về liên tự động nhào tới
đón nhận nó, chứ không cần đợi nó phải mở miệng xin lỗi trước rồi mới tha sau,
như thể muốn giải hòa với nó trước (x Mt 5:23-24), thậm chí đã tự động bù đắp
lại cho nó những gì nó đã đem phung phá, nhất là còn mở tiệc linh đình mừng nó
trở về, như thể nó đã lập được một thành tích lớn cho cha, một hành động làm cho
người con cả tức điên lên, hận đến nỗi không chịu bước vào nhà, làm cho người
cha phải khuyên giải mới nguôi ngoai.
Một dụ ngôn ba bí tích
Phân tích dụ ngôn này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã ngấm ngầm tỏ cho các môn đệ
biết Ngài có ý định lập 3 bí tích cho Giáo Hội, đó là bí tích rửa tội, bí tích
giải tội và bí tích Thánh Thể.
Bí tích rửa tội trong dụ ngôn này được thể hiện nơi việc người con xin chia gia
tài, thái độ của con người muốn lãnh nhận phép rửa, muốn được phần gia tài sự
sống thần linh, và người cha đã theo ý nó chia phần gia tài thuộc về nó cho nó,
như Cha trên trời đã thông ban sự sống thần linh của Ngài, bằng Ơn Thánh Sủng
cùng với các thần đức Tin Cậy Mến cho con người khi họ lãnh nhận phép rửa.
Bí tích giải tội trong dụ ngôn này được thể hiện ở chỗ người con phung phá xét
mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội. Nó chẳng xét mình là gì khi
nghĩ lại thân phận của mình trong lúc cùng cực nhất cuộc đời? Nó chẳng dốc lòng
chừa là gì khi cương quyết chỗi dậy trở về cùng cha, không phải chỉ vì để tránh
khỏi cảnh cùng khốn của mình, một tình trạng dù sao cũng tạo điều kiện để nó
nghĩ lại, cho bằng vì thấy mình sống bất xứng với thân phận làm con, tức làm
nhục cho cha, làm ô danh cha, “không xứng đáng làm con cha”? Nó đã chẳng xưng
tội khi xót xa thống hối mà thưa cùng cha “con đã xúc phạm đến trời và đến cha”?
Nó đã chẳng đền tội là gì khi bị anh nó căm giận thù ghét, hậu quả không phải
chỉ ở việc nó bỏ nhà ra đi phung phá gia tài của cha mà còn được cha nồng hậu
tiếp nhận khi nó trở về nữa?
Bí tích Thánh Thể trong dụ ngôn này được thể hiện qua việc người cha mở tiệc
linh đình để ăn mừng người con “như chết mà sống lại”. Thật vậy, người cha không
ăn mừng rồi mới trang sức lại cho người con phung phá, trái lại, như bí tích
giải tội trả về cho con người đã chết bởi trọng tội chẳng những Thánh Sủng họ đã
đánh mất mà còn tất cả mọi công nghiệp họ lập được nhờ các thần đức là khả năng
thần linh của họ, người cha cũng đã tái trang sức cho nó những gì xứng với phẩm
vị của nó là một người con trong nhà, để nó có đủ tư cách tiếp tục ngồi vào bàn
của cha và với cha, bàn tiệc Thánh Thể Lời Nhập Thể, bàn tiệc Sự Sống Thần Linh,
“sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10) là chính mạng sống của vị mục tử nhân lành đi
tìm từng con chiên lạc (x Jn 10:10; Lk 15:4).
Một mái nhà hai cuộc sống
Bài dụ ngôn trong Phúc Âm của Chúa Nhật Thứ III này còn cho thấy một điểm rất
đặc biệt nữa, đó là sự kiện người con ở gần cha nhất lại là người con hoang đàng,
còn người con phung phá lại là người con gần cha hơn hết. Không phải hay sao,
người con phung phá đã luôn ở gần cha, ở chỗ tin tưởng vào tình yêu nhân hậu của
cha và đã trở về với cha, để từ tình trạng chết đi mà được sống lại, tình trạng
mất hết mọi sự không còn gì mà lại được tất cả mọi sự. Trái lại, người con cả
gần cha, không lúc nào rời xa cha, bao giờ cũng làm theo ý muốn của cha, lại
không hề hiểu cha, cho rằng của cha khác với của mình, chứ không phải “mọi sự
của cha là của con”, bởi đó mới có thái độ tranh chấp, mới thành đứa con hoang
đàng, cách biệt cha.
Đó là lý do chúng ta đừng khinh thường thành phần chúng ta cho là “tội nhân”
đáng thương. Chẳng biết họ đáng thương hay chúng ta đáng thương, nếu chúng ta tự
phụ cho mình là đạo đức tốt lành, đọc kinh hằng ngày, đi lễ hằng tuần, xưng tội
hằng tháng, mà lại hay phán xét người khác và khinh thường những người anh chị
em “phung phá” của mình. Họ quả thực đã có lúc là đứa con nói với cha “con không
đi” làm vườn nho cho cha, nhưng sau đó lại đi, như một Mathêu (x Mt 9:9-13),
Giakêu (x Lk 19:1-10), Mai Đệ Liên (x Lk 7:36-50, 8:2), thành phần tiêu biểu cho
tội nhân có những hành động gian tham của cải trần gian như bọn thu thuế và/hay
có những xu hướng đam mê xác thịt như đám gái điếm bán thân phụng sự các thứ
ngẫu tượng hay thần tượng (x. Mt 21:31), hay như người đàn bà Samaritanô (x Jn
4:19,28-30), thành phần tiêu biểu cho dân ngoại ô uế trước con mắt dân Do Thái,
còn chúng ta, như nhóm luật sĩ và Pharisiêu trong dân Do Thái xưa, lúc này có vẻ
như đang sẵn sàng đi làm theo ý cha của mình đấy, nhưng thực ra chẳng làm gì cả,
thậm chí còn làm trái với ý cha của mình nữa mà không biết là đàng khác (x Mt
21:28-32).
Ở đây chúng ta cũng nên lưu ý một điều hết sức quan trọng nữa là tình thương của
Thiên Chúa được phát xuất bởi tình yêu vô cùng trọn lành, một tình thương là tất
cả dung nhan của một Vị Thiên Chúa vô cùng toàn hảo trọn lành, do đó, không phải
là một thứ thương hại, làm giảm giá trị của đối tượng được thương và cần thương,
mà là tôn trọng ngôi vị của họ, phục hồi phẩm giá cho họ và thăng hóa đời sống
của họ. Đó là ý tưởng đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhấn mạnh trong
Thông Điệp “Giầu Lòng Thương Xót” Dives in Mesericordia của Ngài, ở đoạn 5 và
nhất là đoạn 6, ban hành ngày 13/11/1980, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng.
Có lẽ con người đầy quyền lực về khoa học và kỹ thuật ngày nay nhưng lại quá yếu
đuối về tâm lý và bại hoại về luân lý cần đến lòng thương xót Chúa hơn bao giờ
hết. Dường như con người càng bại hoại, càng làm méo mó hình ảnh thần linh vô
cùng cao cả của mình, qua những trào lưu công khai sống đồng tính luyến ái và
đồng tính lấy nhau, qua những thứ kỹ thuật tạo sinh sao bản con người, qua những
hành động phá thai và khủng bố coi sự sống vô giá như đồ bỏ của nền văn hóa sự
chết từ cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 này, thì dung nhan vô cùng yêu thương
nhân hậu của “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) càng tỏ hiện. Đó là lý do, ngay
từ đầu thế kỷ 20, vào chính thời điểm của Thế Chiến Thứ I, Mẹ Maria đã bảo 3
Thiếu Nhi Fatima, sau khi đã tiết lộ cho các em Bí Mật Fatima, với phần thứ nhất
là thị kiến hỏa ngục, là sau mỗi chục Kinh Kính Mừng, hãy đọc thêm lời “Lạy Chúa
Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem
các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa
hơn”. Ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, Mẹ Maria đã cho 3 Thiếu Nhi Fatima được thị
kiến thấy hỏa ngục và dậy các em Lời Nguyện Fatima này là để làm gì, nếu không
phải để nhắc nhở và cảnh báo con người nói chung và thành phần môn đệ Chúa Kitô
nói riêng về những gì Chúa Giêsu đã kết thúc dụ ngôn phán xét chung: “Hỡi đồ bị
kết án các ngươi, hãy xéo đi cho khỏi nhan của Ta mà vào lửa đời đời đã giành
sẵn cho ma qủi cùng các thần của hắn” (Mt 25:41).
Từ đầu thế kỷ 19, mở màn cho Thời Điểm Maria của mình, Mẹ Maria đã “tiến lên như
Rạng Đông” ở Biến Cố Thánh Mẫu Paris năm 1830, nơi Mẹ bảo làm một mẫu ảnh Mẹ Ban
Ơn đứng trên quả cầu và đạp đầu rắn quỉ; “đẹp như mặt trăng” ở Biến Cố Thánh Mẫu
Lộ Đức 1858, nơi Mẹ xưng mình “Vô Nhiễm Thai” và là nơi duy nhất Mẹ mỉm cười
trong tất cả các nơi Mẹ hiện ra; “rực rỡ như mặt trời” ở Biến Cố Thánh Mẫu
Fatima, nơi Mẹ xưng mình là “Đức Mẹ Mân Côi” và là nơi xẩy ra phép lạ cả thể mặt
trời nhẩy múa trên không trung; và “oai hùng như đạo binh dàn trận”, qua phong
trào Tượng Mẹ Thánh Du Quốc Tế đi khắp nơi trên thế giới, nhất là qua Biến Cố
Đông Âu sụp đổ cuối năm 1989, cũng như qua biến cố Liên Sô Nga Cộng giải thể vào
Giáng Sinh năm 1991. Mẹ đến để đem con người về với Chúa là Cha trên trời. Bởi
vì, bỏ Cha mà đi, cho rằng Thiên Chúa đã chết, để sống một sống vô thần duy vật,
con người đã và đang trở thành những tên làm nô lệ cho nhục dục, thưởng thức cả
những thứ đớn hèn của loài heo mà cũng không thỏa. Chỉ có trở về với Cha, sống
xứng với vai trò và thân phận làm con Thiên Chúa của mình, xứng với bản chất là
hình ảnh thần linh của mình, con người mới được hoàn toàn tự do, với tư cách là
chủ nhân ông của mình, như trường hợp sau khi trở về của người con phung phá.
Như thế, trong Thời Điểm Maria, thời điểm được Thánh Long Mộng Phố (Louis
Montfort) gọi là “vào những thời gian sau này”, tức sau thời của ngài là đầu thế
kỷ 18, và đã suy diễn trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (khoản 49 và
50.4) về vấn đề hai lần đến của Chúa Kitô, có thể gọi là Mùa Vọng Cánh Chung, Mẹ
Maria đã đến để dẫn con người phung phá, con người văn minh hầu như tuyệt đỉnh
về vật chất và nhân bản, nhưng đang phá sản văn hóa và khủng hoảng đức tin, về
nhà Cha, về với dự án nguyên thủy của Thiên Chúa giành cho họ, đó là dự án con
người “làm chủ trái đất” (Gen 1:28), với tư cách là con Thiên Chúa.
Tâm can của một Vị Thiên Chúa làm người
Trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gửi cho các Hồn Nhỏ, qua nữ thư ký Magarita
người Bỉ của mình, Chúa Giêsu đã nói những lời rất phản ảnh nội dung của bài
Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa Chay Năm C tuần này, đúng hơn phản ảnh tình yêu nhân
hậu của người cha đối với cả người con phung phá trở về lẫn người con hoang đàng
không muốn vào nhà. Đọc dụ ngôn của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này và đọc những
lời Chúa Giêsu lập lại tình yêu nhân hậu của Người với con người thời đại ngày
nay, chúng ta thấy rằng con người không thể nào hư đi được, trừ phi họ không
chấp nhận tình thương của Ngài, tức xúc phạm đến chính bản tính trọn lành của
Ngài, xúc phạm đến Thánh Linh, một tội không thể tha thứ được cả đời này lẫn đời
sau (x Mt 12:32).
"Trong con mắt của Cha, một tội nhân tìm kiếm Cha thì không còn là một tội nhân
nữa, mà là một linh hồn bị thương tích đang trên đường tìm về Ánh Sáng và Chân
Lý" (ngày 26-1-1969).
“Hỡi các con cái bé nhỏ của Cha, các con là những kẻ lạc bước trên những nẻo
đường mòn, nơi mà các con cứ loay hoay lẩn quẩn với ảo tưởng quái gở hão huyền
cùng những lạc thú giả tạo” (22-8-1967).
“Thời giờ các con sống trong những khoái lạc hão huyền là thời giờ Cha chờ đợi
con” (17/11/1967)
“Một Thiên Chúa báo oán chỉ là một Người Cha tội nghiệp khi phải trừng phạt con
cái mình để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại” (19/12/1973)
“Nếu con cảm thấy mình yếu đuối và bất lực, chính là vì Cha đã mặc cho con đức
khiêm hạ của một vị Thiên Chúa bị đóng đanh” (18/12/1967)
“Hãy dâng cho Cha nhân tính của con. Cha lại đã chẳng mặc lấy nó khi vì yêu
thương mà làm người hay sao? Cha sẽ mặc cho con thần tính của Cha để con yêu mến
Cha bằng tình yêu của các thần trời” (10/4/1967)
“Cha không phải là một Thiên Chúa kềm kẹp con, mà là một Thiên Chúa làm cho con
hoàn toàn phát triển theo ánh sáng của lòng con ưng thuận trước những ơn soi
động của Cha. Ngay cả khi Cha muốn con nên trọn lành, trong khi đó tình yêu của
con vẫn cứ bất toàn, thì hỡi con nhỏ của Cha, Cha lại đã chẳng mặc lấy nhân tính
của con làm như của Cha hay sao?... Ngày gặp đêm rồi mất hút trong đêm thế nào.
Cũng vậy, từ ánh sáng mà ra, linh hồn đi sâu vào tăm tối. Thế nhưng, ân sủng
phát sinh một ngày mới còn tươi sáng hơn cả ngày trước đó, vì nó giải cứu linh
hồn khỏi bóng đêm phong tỏa linh hồn” (19/8/1967)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|