|
Thứ Sáu
Mùa Thường Niên (tuần 11) Quanh Năm
Lễ
Ḿnh Máu Thánh Chúa 2004 (xin xem bài cuối trang)
Tóm Lời Chúa
Bài Sách Thánh năm 2 (năm chẵn):
2Kgs.11:1-4,9-18,20
Sách Các Vua 2 thuật lại việc tư tế Jehoiada hạ nữ loạn thần Athalia và tôn
tiểu vương Joash lên ngôi.
1
Bà A-than-gia, thân mẫu vua A-khát-gia-hu, thấy con ḿnh đă chết, th́ đứng lên
tiêu diệt tất cả hoàng tộc.2 Nhưng bà Giơ-hô-se-va, ái nữ vua Giô-ram
và là chị của vua A-khát-gia-hu, đă ẵm Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, lén đưa
cậu ra khỏi số các hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong pḥng ngủ cùng với người
vú nuôi. Như thế, người ta đă giấu được cậu bé khuất mắt bà A-than-gia, và cậu
không bị giết.3 Cậu Giô-át ở lại với bà Giơ-hô-se-va trong Nhà ĐỨC
CHÚA, lẩn trốn ở đó sáu năm, suốt thời bà A-than-gia cai trị xứ sở.4
Năm thứ bảy, ông Giơ-hô-gia-đa sai người đi mời các vị chỉ huy một trăm quân
thuộc đạo binh Ca-ri và thuộc đoàn thị vệ. Ông cho họ vào trong Nhà ĐỨC CHÚA
với ông. Ông kết ước với họ, bắt họ tuyên thệ trong Nhà ĐỨC CHÚA, và cho họ
được thấy hoàng tử.
9 Các vị chỉ huy một trăm quân làm đúng mọi điều tư tế Giơ-hô-gia-đa đă
truyền. Mỗi vị chỉ huy đem theo người của họ, những người đang phiên trực ngày
sa-bát, cùng với những người hết phiên trực ngày sa-bát. Họ đến với tư tế
Giơ-hô-gia-đa.10 Tư tế trao cho các vị chỉ huy trăm quân, giáo và
thuẫn của vua Đa-vít để trong Nhà ĐỨC CHÚA.11 Các thị vệ ai nấy đều
cầm khí giới trong tay, đứng dàn từ phía nam đến phía bắc Nhà ĐỨC CHÚA, trước
bàn thờ và trước Nhà ĐỨC CHÚA cốt để bao quanh vua.12 Ông
Giơ-hô-gia-đa rước hoàng tử ra, đội vương miện và trao cuộn Chứng Ước. Người
ta phong vương và xức dầu cho hoàng tử, rồi vỗ tay hô lên: "Vạn tuế đức vua! "13
Khi bà A-than-gia nghe tiếng dân chúng la, bà đi về phía họ đang ở trong Nhà
ĐỨC CHÚA.14 Bà nh́n lên, th́ ḱa vua đứng trên bệ cao theo nghi lễ
thường dùng, các vị chỉ huy và các người thổi kèn ở bên cạnh vua. Toàn dân
trong xứ hân hoan reo ḥ giữa tiếng kèn trỗi vang. Bà A-than-gia liền xé áo
ḿnh ra và kêu lên: "Phản bội! Phản bội! "15 Tư tế Giơ-hô-gia-đa
truyền lệnh cho các vị chỉ huy một trăm quân đứng đầu toán binh, ông bảo họ: "Lôi
nó ra khỏi hàng quân! Ai theo nó, th́ lấy gươm chém chết! " Tư tế nói: "Nó
không được chết trong Nhà ĐỨC CHÚA! "16 Họ liền túm lấy bà. Và khi
bà đi qua lối Cửa Ngựa để tới đền vua; th́ họ giết bà ở đó.17 Ông
Giơ-hô-gia-đa lập giao ước giữa ĐỨC CHÚA, vua và dân, nhờ đó dân trở thành dân
của ĐỨC CHÚA. Ông cũng lập giao ước giữa vua và dân.18 Rồi toàn dân
trong xứ kéo tới đền Ba-an mà phá huỷ các bàn thờ và tượng thần. C̣n Mát-tan,
tư tế của thần Ba-an, th́ họ giết ngay trước các bàn thờ.
20 Toàn dân trong xứ th́ vui mừng, c̣n thành vẫn không động tĩnh.
Về phần bà A-than-gia, họ đă lấy gươm giết chết trong đền vua.
Bài Phúc Aâm chung cả năm 1 và 2: Mt.6:19-23
Phúc Aâm thánh Mathêu ghi lại bài Chúa Giêsu giảng trên núi, đến kho báu trên
trời và đèn thân thể.
19 "Anh em đừng tích trữ cho ḿnh
những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi.20
Nhưng hăy tích trữ cho ḿnh những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư
nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.21 V́ kho tàng của anh ở
đâu, th́ ḷng anh ở đó.22 "Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt
anh sáng, th́ toàn thân anh sẽ sáng.23 C̣n nếu mắt anh xấu, th́
toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, th́ tối
biết chừng nào!
Suy Lời Chúa
Ư chính của
Lời Chúa qua các bài Thánh Kinh do Giáo Hội cố ư chọn lựa và sắp xếp cho phụng
vụ Thánh Lễ của riêng ngày hôm nay được chứa đựng trong nội dung của Bài Phúc
Aâm. Đó là lời Chúa Giêsu cho môn đệ biết cần phải khôn ngoan t́m cái vĩnh tồn.
Thật vậy, theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Aâm hôm nay, để có thể t́m kiếm
“kho báu trên trời là điều mối mọt không thể gậm nhấm hay trộm cắp lấy được”,
tức những ǵ vĩnh tồn và chân thật, như “danh Cha, nước Cha và ư Cha” theo lời
“nguyện” Người dạy (trong
bài Phúc Aâm hôm qua),
thành phần “là muối đất... là ánh sáng thế gian” (Phúc
Aâm ngày thứ ba tuần 10 trước đây),
cần phải có một tấm ḷng thiết tha gắn bó, “v́ kho tàng của các con ở đâu,
ḷng các con cũng ở đó”, và tấm ḷng thiết tha gắn bó tất cả những ǵ chân
thiện vĩnh tồn này sẽ như “mắt là đèn soi thân thể. Nếu mắt của các con tốt
th́ thân thể của các con sẽ đầy ánh sáng; bằng nếu chúng xấu th́ thân thể của
các con sẽ ở trong tối tăm. Mà nếu ánh sáng của các con là tối tăm th́ càng
tối tăm đến mức nào”. Bài đọc năm 2 hôm nay cho thấy việc làm “tối tăm đến mức
nào” của nữ ngụy tặc Athalia, người đă có con “mắt” tham lam khi cướp đoạt
ngôi báu sau khi con bà là vua Ahazia chết đi và đă ra tay giết hết vương tộc.
Thế nhưng, v́ cái “kho báu ở đâu ḷng cũng ở đó” của bà chỉ là “kho báu trần
gian, nơi mối mọt đục khoét và trộm cắp lấy đi được”, mà cuối cùng “bà đă bị
lôi đi... giết chết” như bài đọc năm 2 hôm nay thuật lại. C̣n “kho báu trên
trời” vĩnh tồn mà tông đồ Phaolô đă chịu mọi cùng khổ để theo đuổi, như lời
ngài tự thuật trong bài đọc năm 1 hôm nay, là: “Ngoài những khổ đau không kể
khác c̣n có các thao thức hằng ngày thôi thúc tôi, có niềm lo âu của tôi với
các giáo đoàn. Có ai yếu đuối mà tôi vô cảm đâu?...”
Nguyện Lời Chúa
Lạy Chúa
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, được xức dầu Thần Linh, đă đến
trong thế gian như kho báu được giấu nơi ruộng thế gian. Kitô hữu
chúng con đă được kho báu Nước Trời khi chịu Bí Tích Rửa Tội. Thế nhưng, c̣n
sống trong xác thịt, chúng con vẫn có thể mù quáng bán rẻ ân sủng. Bởi thế,
xin Mẹ Maria đă cưu mang Giêsu qủa phúc của ḷng Mẹ, giúp chúng con biết hoan
hưởng kho báu Nước Trời. Amen.
CON CHIÊN THỨ 100
Thứ Sáu
trong tuần lễ Ḿnh Máu Thánh Chúa, chúng ta mừng Lễ Thánh Tâm Chúa, và ngay
ngày hôm sau, Thứ Bảy, chúng ta mừng Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Vấn
đề được đặt ra ở đây là tại sao Giáo Hội lại cử hành Lễ Thánh Tâm Chúa vào
thời điểm phụng niên này, thời điểm trong tuần Lễ Ḿnh Máu Thánh Chúa, và tại
sao Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, một lễ trước Công Đồng Chung
Vaticanô II được mừng cố định vào ngày 22/8, hiện nay lại được Giáo Hội mừng
vào ngay sau Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu?
Nói chung, nếu Thánh Tâm Chúa Giêsu là biểu hiệu cho Mạc Khải Thần Linh, cho
T́nh Yêu Thiên Chúa vô cùng xót thương nhân hậu đối với loài người, đến nỗi đă
hóa thành nhục thể ở với loài người và đă hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc
con người, th́ Khiết Tâm Mẹ Maria là biểu hiệu cho đức tin tuân phục của con
người mà Mẹ là đại diện tỏ ra trước T́nh Yêu Thiên Chúa, tỏ ra chấp nhận Mạc
Khải Thần Linh của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Phần tôi, mỗi lần nghĩ đến Thánh Tâm Chúa tôi hết sức nghẹn ngào cảm động, đến
nỗi, đúng như một câu đáp ca đă diễn tả: “Lưỡi tôi dính vào cuống họng”
(Ps 136[137]:6). Bởi
khi nghĩ đến Thánh Tâm Chúa tôi thường cảm nhận sâu xa những điều sau đây:
Thứ nhất, Thiên Chúa không phải chỉ là một Thần Linh Toàn Năng mà c̣n là một
Người Cha Toàn Thiện nữa. Nếu trong thời Cựu Ước, Ngài đă tỏ ra Ngài là một Vị
Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất Toàn Năng thế nào th́ trong thời Tân Ước Ngài
cũng đă tỏ ra Ngài là vị Thiên Chúa Ba Ngôi Toàn Thiện như vậy. Ngài Toàn
Thiện ở chỗ yêu thương con người. Ngài yêu thương con người ở chỗ muốn cho họ
được Hiệp Thông Thần Linh với Ngài, được sống chính Sự Sống Thần Linh vô cùng
trọn hảo và viên măn của Ngài. Để con người được Hiệp Thông Thần Linh với Ngài,
Ngài chẳng những đă tỏ ḿnh ra cho họ qua Lời Nhập Thể là Con Một của Ngài, mà
c̣n, ngay trong chính khi tỏ ḿnh ra cho họ nơi Con Người Giêsu Kitô Thiên Sai
của ḿnh, Ngài đă ban Thánh Thần của Ngài cho họ nữa, để đúng như lời Chúa
Giêsu đă mạc khải ở Lời Nguyện Hiến Tế kết Bữa Tiệc Ly “như Cha ở trong Con và
như Con ở trong Cha, để họ cũng được hiệp nhất trong Chúng Ta” (Jn 17:21-22).
Mối Hiệp Thông Thần Linh này đă được hiện thực một cách cụ thể ngay trên trần
gian này nơi Bí Tích Thánh Thể, một Bảo Chứng Hiệp Thông Vĩnh Hằng.
Thứ Hai, Thiên Chúa Toàn Thiện chẳng những tỏ ḿnh ra cho chung con người qua
biến cố Lời Nhập Thể và Vượt Qua, cũng như ban Thánh Thần của Ngài cho chung
Giáo Hội qua biến cố Thánh Thần Hiện Xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, mà c̣n tiếp
tục tỏ ḿnh ra với mỗi một con người, trong đó có tôi, như con chiên lạc thứ
100 của Ngài (x Lk 15:4), một ngôi vị con người đă được Ngài biết trước khi
tôi xuất hiện trong ḷng thai mẫu (x Jer 1:5). Nghĩa là Ngài tiếp tục tỏ ḿnh
ra và thông ḿnh ra cho tôi, cho mỗi một người chúng ta, bằng cách làm cho
chúng ta được nhận biết Ngài hơn như Chúa Kitô nhận biết Ngài, cũng như được
hiệp thông với Ngài hơn bằng Thánh Thần của Ngài. Đó là lư do tôi cảm thấy vô
cùng xúc động và thấm thía khi đọc đến những lời mạc khải tư sau đây của Chúa
Giêsu với nữ giáo dân Magarita trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu của Người.
V́ tôi thấy những lời ấy chẳng những hợp với cảm nghiệm sống đạo thực tế của
tôi mà c̣n hoàn toàn hợp với tinh thần Phúc Âm nữa.
Lời mạc khải tư thứ nhất về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa đó là: “Thời giờ
con sống trong những khoái lạc hăo huyền là thời giờ Cha đợi chờ con” (ngày
11-7-1967). Ôi, thật là chí lư. Thật là cảm kích. Trong khi tôi sống trong tội
lỗi, đang t́m kiếm những sự giả trá mau qua một cách mù tối, th́ Thiên Chúa là
Cha tôi ở trên trời vẫn đợi chờ tôi. Đó là h́nh ảnh một vị Thiên Chúa Nhập Thể
đang ngồi ở bờ giếng Giacóp vào buổi trưa nóng bức để chờ đợi và gặp cho bằng
được người nữ Samaritanô ngoại lai tội lỗi sống với 6 người chồng, một con
người cảm thấy ḿnh tội lỗi chỉ dám ra giếng kín nước vào lúc vắng người nhất
nhưng có ngờ đâu lại là lúc Thiên Chúa đang ngồi chờ gặp chị (x Jn 4:6-7).
Lời mạc khải tư thứ hai về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa đó là: “Trong con
mắt của Cha, một tội nhân t́m kiếm Cha th́ không c̣n là một tội nhân nữa, mà
là một linh hồn bị thương đang trên đường t́m về Ánh Sáng và Chân Lư” (ngày
21-1-1969). Ôi, Cha trên trời luôn sẵn sàng tha thứ cho tội nhân chúng ta
trước khi chúng ta ngỏ lời xin Ngài tha thứ nữa ḱa. Bởi thế, điều Ngài làm
đau ḷng nhất và tội phạm đến Ngài nhất không phải là tội sát nhân, loạn luân,
trộm cướp v.v. mà là thái độ không tin tưởng vào ḷng thương xót vô cùng nhân
hậu của Ngài, tức là tội phạm đến Thánh Linh, một tội không thể tha thứ cả ở
đời này lẫn đời sau. Không phải hay sao, trong thời gian đứa con thứ đang
phung phá gia tài ân sủng được Cha chia cho, th́ Ngài chẳng những đợi chờ nó,
mà c̣n trông ngóng nó về, đến nỗi, vừa trông thấy bóng nó xuất hiện từ đằng xa,
nghĩa là nó chưa thấy Cha nó, th́ chính ông đă tự động chạy lại với nó, đón nó,
ôm choàng lấy nó mà hôn lấy hôn để rồi (x Lk 15:20). Chứ không cần phải đợi nó
bước chân vào đến nhà và qú xuống van lạy ông mới tha cho nó, thậm chí bị ông
chửi cho một trận rồi mới chịu tha, như thường xẩy ra nơi những người cha trần
gian hay sao?
Lời mạc khải tư thứ ba về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa đó là: “Một Thiên
Chúa báo oán chỉ là một Người Cha tội nghiệp khi phải trừng phạt con cái ḿnh
để buộc chúng phải hồi tâm nghĩ lại” (ngày 19-12-1973). Ôi, tội nghiệp Cha tôi,
v́ mỗi khi con người tội lỗi gặp khổ đau là hậu quả xẩy ra cho họ bởi tội lỗi
do chính họ gây ra, họ chẳng những không thức tỉnh mà c̣n lao đầu thêm vào tội
lỗi, phạm thêm tội lỗi, ở chỗ than trách trời cao không có mắt. Tất cả mọi đau
khổ trên đời này thật sự không phải trực tiếp từ Thiên Chúa mà đến. Thiên Chúa
Toàn Thiện không bao giờ lại dựng lên sự dữ, như đau khổ và chết chóc. Thế
nhưng, Ngài Toàn Thiện và Toàn Năng ở chỗ Ngài đă dùng chính những hậu quả bởi
tội lỗi loài người này để cứu chuộc họ, để làm cho họ nhận biết bản thân yếu
đuối của họ mà tin tưởng Ngài hơn. Đó là lư do, cho dù vô cùng toàn năng và
khôn ngoan thượng trí, Ngài đă không dùng cách nào khác để cứu chuộc con người,
ngoài Thập Giá Chúa Kitô. Đúng thế, nếu người đàn bà ngoại t́nh không bị Thiên
Chúa công minh trừng phạt bằng sự kiện chị bị bắt quả tang đang làm việc tồi
bại trước mắt thế gian và phản luật Moisen cũng là luật Chúa, th́ chị đâu có
dịp được trực diện với Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa là T́nh Yêu ở
giữa loài người, và nhờ đó, chị đă cảm nhận được Người xót thương nhân hậu là
chừng nào để có thể nhận biết ḿnh mà trở về với Người bằng cuộc sống tốt lành
hơn (x Jn 8:3-4, 10-11).
Lời mạc khải thứ tư về t́nh yêu nhân hậu của Thiên Chúa đó là: “Trước khi Cha
đến như một Vị Quan Án công minh, th́ Cha đến như một Đức Vua của T́nh Thương.
Trước ngày công thẳng, dân chúng sẽ được thấy một dấu hiệu trên các tầng trời
như thế này: Tất cả ánh sáng trên các tầng trời sẽ bị tắt hết, và bóng tối
khủng khiếp sẽ bao trùm cả trái đất. Đoạn trên bầu trời sẽ xuất hiện h́nh bóng
cây thánh giá, và từ những kẽ hở của các bàn tay chân bị đóng đanh của Chúa
Cứu Thế sẽ phát ra những ánh sáng cả thể chiếu soi mặt đất trong một khoảng
thời gian. Điều này sẽ xẩy ra không lâu trước ngày cùng tận”.
Riêng lời mạc khải này, Chúa Giêsu đă nói với nữ tu Maria Faustina. Trong lễ
phong thánh cho vị thánh nữ được Ngài gọi là vị thánh đầu tiên trong ngàn năm
thứ ba này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă trích ra một câu Chúa Giêsu nói
với chị rằng: “Nhân loại sẽ không t́m thấy b́nh an cho tới khi nó tin tưởng
vào ḷng thương xót Chúa” (Nhật Kư, p. 132 – Tuần San L’Osservatore Romano, ấn
bản Anh ngữ phát hành ngày 3/5/2000, trang 1). Rất đặc biệt là câu được Đức
Thánh Cha trích lại này lại sát liền với câu được trích dẫn trên đây (Divine
Mercy in My Soul – Diary St. M. Faustina Kowalska, Marian Press 1987, Bản dịch
Anh Ngữ trang 139: câu ĐTC trích ở đoạn 300, c̣n câu ở đây trích ở đoạn 301).
Nếu Đức Thánh Cha là vị Mục Tử Tối Cao của Giáo Hội, tiêu biểu cho Đức Tin
Công Giáo, đă tin vào lời mạc khải tư của Chúa Giêsu nói với chị Faustina th́
câu được trích dẫn ở đây cũng là những điều chân thật, tức những điều chắc
chắn sẽ xẩy ra đúng như Chúa Giêsu báo trước. Nghĩa là, trước khi Thiên Chúa
tỏ đức công minh của Ngài ra th́ Ngài tỏ ḷng thương xót, để sau đó không ai
c̣n oán than Ngài được nữa. Thế nhưng, Ngài đă tỏ ḷng thương xót trước khi ra
tay công thẳng như thế nào, nếu không phải, trước hết, nhờ Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội Mẹ Maria.
Thật vậy, ngày 30/4/2000 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă phong hiển thánh cho
chị nữ tu Faustina người Balan, vị tông đồ của Ḷng Thương Xót Chúa và cho
Ḷng Thương Xót Chúa. Và vào tháng sau đó, Giáo Hội đă chính thức thiết lập
Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh là Chúa Nhật Lễ Chúa T́nh Thương, và Lễ Chúa T́nh
Thương này đă được Giáo Hội chính thức cử hành lần đầu tiên vào Chúa Nhật Thứ
Hai Phục Sinh Năm 2001. Chúa Giêsu, vào thời điểm giữa hai Thế Chiến I và II,
thật sự đă yêu cầu chị thánh Faustina xin Giáo Hội cho thiết lập Lễ Kính Chúa
T́nh Thương này vào Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh. V́ bài Phúc Âm của Chúa Nhật
này phản ảnh nội dung sứ điệp Người tỏ cho chị thánh biết và qua chị cho thế
giới biết, đó là Thiên Chúa yêu thương con người tội lỗi và muốn họ hăy hoàn
toàn tin tưởng vào Người. Đúng thế, hơn bao giờ hết, con người ngày nay càng
văn minh vật chất càng băng hoại về luân lư và đạo đức. Tất cả những ǵ được
Thiên Chúa thiết lập ngay từ ban đầu là hôn nhân nam nữ và sinh con đẻ cái,
th́ con người văn minh ngày nay chẳng những phá đổ bằng luật pháp cho phép ly
dị và phá thai, mà c̣n thay thế vào đó, vào những ǵ được Thiên Chúa thiết lập
ngay từ ban đầu ấy những thần tượng, những con ḅ vàng do họ đúc nên, như luật
cho phép hôn nhân đồng tính và tạo sinh sao bản phi tính dục cloning.
Đó là lư do, ngay từ đầu thế kỷ 20, Chúa đă tỏ ḷng thương xót Chúa qua Biến
Cố Fatima và Sứ Điệp Fatima. Quả vậy, vào lần hiện ra thứ ba, ngay sau khi tỏ
cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết toàn bộ Bí Mật Fatima, Mẹ Maria đă xin ba em là:
“Sau mỗi chục kinh, các con hăy đọc: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa tha tội chúng
con. Xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin đem các linh hồn lên thiên đàng.
Nhất là những linh hồn cần đến ḷng thương xót Chúa hơn’”. Vào lần hiện ra thứ
bốn sau đó, 19/8/1917, Đức Mẹ đă tiết lộ thêm cho 3 Thiếu Nhi Fatima một bí
mật nữa liên quan đến ḷng thương xót Chúa thế này: “Nhiều linh hồn phải sa
hỏa ngục v́ không có ai chịu hy sinh bản thân ḿnh mà cầu nguyện cho họ”. Bởi
thế, ngay trước đó, Mẹ đă kêu gọi 3 em rằng: “Các con hăy cầu nguyện, cầu
nguyện thật nhiều, và hăy hy sinh cho các tội nhân”.
Hơn bao giờ hết, nếu càng văn minh vật chất con người càng băng hoại về luân
lư, chẳng khác nào như một tên hề đang đóng khố đi giầy tây trên khấu trường
lịch sử thế giới, th́ quả thực con người càng đáng thương hơn bao giờ hết,
càng “cần đến ḷng Chúa thương xót hơn” hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, theo kinh
nghiệm sống đạo hết sức thực tế cho thấy, càng tội lỗi con người lại càng khó
tự ḿnh trở về với Chúa, trái lại, càng ch́m sâu vào tội lỗi, đến nỗi, muốn
trở về với Ḷng Thương Xót Chúa họ cần phải có phép lạ. Đó là lư do, cũng ngay
từ đầu thế kỷ 20, Cha trên trời đă ban cho con người một phương thế cứu rỗi,
đó là Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Nếu Bí Mật Fatima có 3 phần, phần nhất là thị kiến hỏa ngục, và phần ba là thị
kiến tử đạo, th́ phần hai liên quan đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria.
Thật vậy, nếu cốt lơi của chúng Sứ Điệp Fatima và riêng Bí Mật Fatima là cứu
độ th́ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria quả thực là phương thế Thiên Chúa
muốn sử dụng để cứu độ con người trong thời điểm hết sức khẩn trương, thời
điểm “trước khi Cha đến như một Quan Án chí công”, như Chúa Giêsu đă tiết lộ
cho Chị Thánh Faustina biết. Đúng thế, trọng tâm của cả Bí Mật Fatima và riêng
phần hai của bí mật này đó là câu: “Các con vừa trông thấy hỏa ngục. Để cứu
những linh hồn tội nhân cho khỏi sa hỏa ngục, Thiên Chúa muốn thiết lập ḷng
tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu điều Mẹ nói với
các con đây (tức là ḷng tôn sùng Trái Tim Mẹ) được thực hiện th́ nhiều linh
hồn sẽ được cứu độ và thế giới sẽ có ḥa b́nh”.
Đó là lư do, vào lần hiện ra thứ hai trước đó, 13/6/1917, Mẹ Maria đă tỏ cho
chung 3 Thiếu Nhi Fatima thấy Trái Tim Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ có ṿng gai
quấn chung quanh lần đầu tiên, rồi nói riêng với Lucia rằng “Trái Tim Vô Nhiễm
Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa”.
Lucia thực sự là em thiếu nhi phải ở thế gian lâu hơn (Phanxicô chết năm 1919
ở tuổi 11 và Giaxinta chết năm 1920 ở tuổi 10) với sứ mệnh được Mẹ Maria tiết
lộ cho em biết cũng vào lần hiện ra thứ hai là “Chúa Giêsu muốn dùng con để
làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”, tức để truyền bá ḷng sùng kính Trái
Tim Mẹ.
Phải, chị Lucia chính là Thiếu Nhi Fatima sứ giả của Mẹ Fatima và cũng là Tông
Đồ Fatima Thế Giới đầu tiên trong việc làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến,
qua việc thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế
giới. Chị Lucia đă không hết sức nỗ lực là ǵ trong việc thiết lập ḷng tôn
sùng Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria trên thế giới, khi làm cho Mẹ được nhận biết
và yêu mến qua những trường hợp điển h́nh sau đây:
Thứ nhất là việc giữ 5 Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng có ư đền tạ Mẹ, Đấng mang Trái
Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội hằng bị những kẻ vong ân bội nghĩa liên lỉ đâm vào
bằng những gai tội lộng ngôn và vô ơn của họ, như Đức Mẹ chỉ cho chị ngày
10/12/1925, đă được chị tŕnh với giáo quyền địa phương và đă được thẩm quyền
địa phương tuyên bố công nhận cho phép thực hành việc tôn sùng này ngày
13/9/1939.
Thứ hai là việc thiết lập Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ cho toàn Giáo Hội
hoàn vũ cùng mừng kính như một lễ chính của Giáo Hội, như chị đă đề cập đến
trong thư chị viết tŕnh lên Đức Thánh Cha Piô XII ngày 24/10/1940, cũng được
thực hiện, như văn thư của Thánh Bộ Lễ Nghi ngày 4/5/1944 đă đề cập: Để ghi
nhớ cuộc hiến dâng này (cuộc hiến dâng loài người lần đầu tiên trong lịch sử
nhân loại do Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện ngày 31/10/1942), Ngài (ĐTC Piô
XII) đă quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ.
Thứ ba là việc hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, như Mẹ,
ở Fatima ngày 13/7/1917 đă ngỏ ư yêu cầu: Mẹ sẽ trở lại để xin dâng Nước Nga
cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, và ở Tuy ngày 13/6/1929 đă chỉ cho cách
hiến dâng: Đă đến lúc Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha hiệp cùng với tất cả các
giám mục trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.
Và, kể từ ngày 24/10/1940, ngày chị Lucia viết thư tŕnh lên Đức Thánh Cha Piô
XII về yêu cầu này của Đức Mẹ, việc hiến dâng đă diễn tiến tất cả 5 lần mới
thực sự hoàn thành và có công hiệu.
Lần thứ nhất vào ngày 31/10/1942, ngày kết thúc Ngân Khánh 25 năm (1917-1942)
Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, do Đức Thánh Cha Piô XII thực hiện tại giáo đô Rôma.
Lần thứ hai vào ngày 7/7/1952, ngày lễ kính hai thánh tông đồ của sắc dân
Slavs, trong đó có Nga, là thánh Cyrilô và Mêthôđiô, cũng do Đức Thánh Cha Piô
XII thực hiện tại Giáo Đô Rôma.
Lần thứ ba vào ngày 21/11/1964, dịp kết thúc kỳ họp thứ ba của Công Đồng Chung
Vaticanô II và là dịp Công Đồng công bố Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội Lumen
Gentium Ánh Sáng Muôn Dân, trước mặt toàn thể các vị giám mục trên thế giới,
Đức Thánh Cha Phaolô VI đă công bố tước hiệu Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội và hiến
dâng thế giới cho Mẹ.
Lần thứ bốn vào ngày 13/5/1982, ngày kỷ niệm đúng một năm bị ám sát hụt, Đức
Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă đến tận Fatima để tạ ơn Đức Mẹ và chính thức hiến
dâng Nước Nga như Mẹ muốn.
Lần thứ năm vào ngày 25/3/1984, ngày lễ Đức Mẹ Thụ Thai Ngôi Lời Nhập Thể,
ngày kỷ niệm mở màn cho công cuộc cứu thế của Chúa Giêsu và Mẹ Đồng Công
Maria, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, tại giáo đô Rôma, đă hợp cùng với tất cả
các giám mục trên thế giới hiệp dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ.
Qua việc Giáo Hội, mà đại diện là chính Đức Thánh Cha và các giám mục trên thế
giới, hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội này, đă là một việc
làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến trên hết. Quả nhiên, sau biến cố hiến
dâng được thực hiện theo đúng ư Ngài muốn và cách Ngài muốn, Thiên Chúa đă tỏ
ḷng xót thương thế giới bằng việc thực hiện lời Ngài hứa là làm cho Nước Nga
trở lại vào ngày 25/12/1991, khi vị lănh tụ cuối cùng của khối Liên Bang Nga
Cộng là Gorbachev tự động từ chức, và sau khi xẩy ra Biến Cố Đông Âu năm 1989
là biến cố bắt đầu đột biến từ chính quê hương Balan của Vị Giáo Hoàng đă hiến
dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ v́ nhận thức được Ngài được
cứu sống trong vụ ám sát tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 13/5/1981, tức vào
ngay ngày kỷ niệm Mẹ hiện ra ở Fatima lần đầu tiên 13/5/1917.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
|