|
VỌNG GIÁNG SINH BÀI ĐỌC I: Is 62:1-5
“Ngươi đẹp lòng Chúa” Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghĩ ngơi cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi. Ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là “kẻ Ta ưa thích”, và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, và ngươi đẹp lòng Thiên Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư. Thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, và con cái ngươi sẽ ở trong Người. Người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi. Lời của Chúa.
Lạy Chúa, tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời. 1. Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: “Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ”. 2. Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. 3. Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Đá Tảng cứu độ của tôi”. Đời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
“Thánh Phaolô làm chứng về
Chúa Kitô, con vua Đavít” Phaolô đến Antiokia thuộc Pisiđia, vào hội đường đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng và nói: “Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngự trong nước Ai Cập và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy. Sau khi boại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Đavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: Ta sẽ gặp được Đavít con của Giêssê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta. Bởi dòng dõi Đavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Đức Giêsu làm Đấng Cứu Độ, Đấng mà Gioan đã báo trước khi người đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, Ngài tuyên bố: Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người. Lời của Chúa.
“Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Đavít” Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Đavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac. Isaac sinh Giacób. Giacób sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh ra Phares và Zara. Phares sinh Esron, Esron sinh Aram. Aram sinh Aminađab. Aminađab sinh Naasson. Naasson sinh Salmon. Salmon sinh ra Booz do bà Rahab. Booz kết bạn với Ruth và sinh ra Ôbed. Ôbed sinh Giêssê. Giêssê sinh vua Đavít. Đavít sinh Salomon do bà vợ của Uria. Salomon sinh Roboam. Roboam sinh Abia. Abia sinh Asaf. Asaf sinh Giosaphat. Giosaphat sinh Gioram. Gioram sinh Ozia. Ozia sinh Gioatham. Gioatham sinh Achas. Achas sinh Egiêkia. Egiêkia sinh Manassê. Manassê sinh Amos. Amos sinh Giosia. Giosia sinh Giêcônia và các em trong thời lưu đày ở Babilon. Sau thời lưu đày ở Babilon, Giêcônia sinh Salathiel. Salathiel sinh Giôrôbabel. Giôrôbabel sinh Abiud. Abiud sinh Eliakim. Eliakim sinh Azor. Azor sinh Sađoc. Sađoc sinh Akim. Akim sinh Eliud. Eliud sinh Eleazar. Eleazar sinh Mathan. Mathan sinh Giacób. Giacób sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô. Vậy từ đời Abraham đến Đavít có tất cả mười bốn đời. Từ Đavít đến cuộc lưu đầy ở Babilon có mười bốn đời; Và từ cuộc lưu đày ở Babilon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên Thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thấnh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội. Tất cả sự kiện nầy đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: Nầy đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta”. Khi tĩnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên Thần Chúa truyền; ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. Phúc Âm của Chúa. BÀI
ĐỌC I: Is 9:1-7 Bài trích sách Tiên tri Isaia. Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui sao? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức... Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thấm máu đào, sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa. Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi, và một người con đã được ban tặng chúng tôi. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là “Cố-vấn kỳ-diệu, Thiên Chúa huy hoàng, Người-Cha-Muôn-Thuở, Ông Vua Thái Bình”. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bấy giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
Lời của Chúa. Đáp Ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa) Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta. 1. Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. 2. Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. 3. Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở. 4. Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành.
“Ân sủng của Chúa đã đến
với mọi người” Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời nầy, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Đấng Cứu Độ chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện. Lời của Chúa.
“Hôm nay Đấng Cứu Thế đã
giáng sinh cho chúng ta” Ngày ấy, có lệnh của Hoàng đế Cêsarê-Augustô ban ra lệnh truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nagiarét trong xứ Galilêa trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. Sự việc xảy ra, trong lúc ông bà đang ở đó, bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”. Và bỗng chốc, cùng với các Thiên Thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Phúc Âm của Chúa. BÀI ĐỌC I: Is 62:11-12
“Nầy đây Đấng Cứu Độ ngươi
đến” Đây Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: “Hãy nói với thiếu nữ Sion: Nầy đây Đấng Cứu Độ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi”. Lời của Chúa.
Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta. 1. Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhãy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân tộc được thấy vinh hiển của Người. 2. Sáng sủa bầng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người.
“Chúa đã cứu độ chúng ta
theo lượng từ bi Người” Khi Đấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người mà Người đã cứu độ chúng ta bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Đấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta, qua Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, để một khi được công chính hóa bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Lời của Chúa.
“Các mục tử đã gặp thấy
Maria, Giuse và hài nhi” Khi các Thiên Thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về hài nhi nầy. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Phúc Âm của Chúa. BÀI ĐỌC I: Is 52:7-10
“Khắp cùng bờ cõi trái đất
sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị! Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi, vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêrusalem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Lời của Chúa.
Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. 1. Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. 2. Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel. 3. Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. 4. Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.
“Chúa đã phán dạy chúng ta
qua người Con” Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Đấng Oai Nghiêm, trên trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu. Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con”. Rồi Chúa lại phán: “Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta”. Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: “Tất cả Thiên Thần Chúa hãy thờ lạy Người”. Lời của Chúa.
(Xin mời Cộng đoàn đứng)
“Ngôi lời đã hóa thành
nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi” Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người , thì chẳng vật chi đã được tác thành, trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian nầy. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. Vì Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Đây là Đấng tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”. Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn nầy tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa Đấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
Phúc Âm của Chúa.
HỠI KITÔ HỮU, HÃY GHI TÂM PHẨM VỊ CỦA MÌNH
(Thánh Lêô Cả Giáo Hoàng: Sermo I in Nativitate Domini: PL 54, 190-193)
Anh em thân mến, hôm nay Vị Cứu Tinh của chúng ta đã vào đời; chúng ta hãy vui lên. Buồn phiền không thể nào còn lẩn quẩn trong ngày sự sống sinh vào đời. Nỗi sợ hãi chết chóc đã bị nuốt mất tiêu; sự sống mang đến cho chúng ta niềm vui đầy hứa hẹn hạnh phúc trường sinh.
Không ai lại bị hụt hẫng niềm vui mừng này; tất cả mọi người đều có cùng một lý do để hân hoan vui sướng. Chúa của chúng ta, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết, khi thấy ai cũng ở trong vòng tội lệ, đã đến để giải cứu hết mọi người chúng ta. Thánh nhân hãy hớn hở hân hoan khi nắm trong tay cành lá dừa chiến thắng. Tội nhân hãy mừng vui khi được lãnh nhận ơn tha thứ. Dân ngoại hãy can đảm khi được triệu mời đến với sự sống.
Khi thời gian viên trọn, theo đức khôn ngoan khôn thấu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã mặc lấy cho mình nhân tính của chung chúng ta để hòa giải nó với Đấng tạo thành nên nó. Người đã đến để khống chế ma qủi là nguồn gốc của sự chết bằng chính nhân tính đã bị hắn chế ngự.
Bởi thế mà trong việc hạ sinh của Chúa chúng ta, các thiên thần mới hân hoan hát lên rằng: Vinh danh Thiên Chúa cao vời, và các vị loan báo bình an dưới thế cho người trần gian, khi các vị thấy Giêrusalem thiên quốc đang được dựng lên ở khắp tất cả mọi dân nước trên thế giới. Khi các thiên thần trên cao hết sức hoan hỉ trước công việc thiện hảo diệu kỳ của Thiên Chúa như thế thì công việc này của Thiên Chúa lại không làm cho cõi lòng thấp hèn của con người hân hoan vui sướng biết bao hay sao?
Anh em thân mến, chúng ta hãy dâng lời tri ân cảm tạ Thiên Chúa Cha, vì, nhờ Con của Ngài, và trong Thánh Thần, Ngài đã hết sức yêu thương nhìn đến chúng ta, và khi chúng ta đã chết đi trong tội lỗi của mình thì Ngài đã nhờ Chúa Kitô mang lại cho chúng ta sự sống, để chúng ta trở thành một tạo vật mới trong Người. Chúng ta hãy cởi bỏ bản tính cũ của mình cùng với tất cả mọi lối sống của nó, để rồi, khi chúng ta được sinh ra trong Chúa Kitô, chúng ta hãy từ bỏ những việc làm của xác thịt.
Hỡi Kitô hữu, anh em hãy nhớ lấy phẩm vị của mình, hãy nhớ rằng giờ đây anh em được thông phần vào bản tính của Thiên Chúa, đừng theo tội lỗi quay trở về với tình trạng thấp hèn của mình xưa kia. Anh em hãy nghĩ đến vị là thủ lãnh của mình và anh em là chi thể của đấng ấy. Anh em đừng quên rằng anh em đã được giải cứu khỏi quyền lực tối tăm và được dẫn tới ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa.
Nhờ bí tích rửa tội, anh em đã trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần. Anh em đừng lìa xa Vị thượng khách này bởi việc hành ác của mình để lại trở thành một tên nô lệ cho ma quỉ nữa nhé, vì tự do của anh em đã được mua bằng giá máu của Chúa Kitô.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 87-88)
“Một ánh sáng rạng ngời đã chiếu tỏa trên dân chúng đang bước đi trong tăm tối”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Bài Giảng Lễ Đêm Giáng Sinh năm 2005
“Chúa đã nói với tôi rằng: Con là Con Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”. Với những lời này của Thánh Vịng thứ hai, Giáo Hội bắt đầu Lễ Vọng Giáng Sinh là lễ chúng ta cử hành việc hạ sinh của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, trong hang Bêlem. Bài Thánh Vịnh này thuộc về lễ nghi tôn vinh các vua chúa của Giud0a. Dân Yến Duyên, vì việc được tuyển chọn của mình, đã đặc biệt coi mình là con cái Thiên Chúa, thành phần con cái thừa nhận của Thiên Chúa. Như vua là hiện thân của dân chúng thế nào thì việc lên ngôi của ông cũng được cảm thấy như là một tác động Thiên Chúa long trọng nhận làm con nuôi vậy, bởi thế mà, một cách nào đó, vị vua ấy được tham dự vào mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vào đêm ở Bêlem, những lời này, những lời thực sự là một biểu hiệu cho một niềm hy vọng hơn là một thực tại hiện có, đã có một ý nghĩa mới mẻ và bất ngờ. Con Trẻ nằm trong máng có thực sự là Con Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là một Đấng chỉ vĩnh hằng quan tâm mà là mối hiệp thông yêu thương và trao hiến cho nhau. Ngài là Cha và Con và Thánh Thần.
Thế nhưng, chưa hết: Nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã hóa thân làm người. Chúa Cha đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha”. “Cái ngày hôm nay” vĩnh hằng của Thiên Chúa đã trở thành cái ngày hôm nay thoáng qua của thế giới này và thăng hóa cái hôm nay chốc lát của chúng ta đây lên cái ngày hôm nay đời đời của Thiên Chúa. Thiên Chúa quá lớn lao đến nỗi đã trở thành nhỏ bé. Thiên Chúa quá quyền năng đến nỗi đã trở thành mềm yếu và đến với chúng ta như một con trẻ bất khả tự vệ, để chúng ta có thể mến yêu Ngài. Thiên Chúa quá thiện hảo để Ngài có thể bỏ đi hiển vinh thần linh của mình mà đến nơi hang đá, để chúng ta có thế thấy được Ngài, để sự thiện hảo của Ngài chúng ta có thể chạm tới chúng ta, để ban phát cho chúng ta và tiếp tục hoạt động qua chúng ta. Đó là Giáng Sinh: “Con là Con Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
Thiên Chúa đã trở thành một người trong chúng ta, để chúng ta có thể ở với Ngài và trở nên giống như Ngài. Như một dấu hiệu, Ngài đã chọn làm Con Trẻ nằm trong máng cỏ: Đó là cách thức Thiên Chúa là. Đó là cách thức chúng ta biết được Ngài. Và nơi hết mọi con trẻ chiếu tỏa một cái gì đó của ánh quang của “cái ngày hôm nay” ấy, của cái Thiên Chúa gần gũi mà chúng ta phải mến yêu và chúng ta phải qui phục – vì nó chiếu tỏa ra nơi hết mọi con trẻ, ngay cả nơi những con trẻ chưa được sinh vào đời.
Chúng ta hãy lắng nghe câu thứ hai của phụng vụ đêm thánh này, một câu được trích từ Sách Tiên Tri Isaia: “Một ánh sáng rạng ngời đã chiếu tỏa trên dân chúng đang bước đi trong tăm tối” (Is 9:1). Tiếng “ánh sáng” là tiếng tràn ngập toàn thể phụng vụ của Thánh Lễ đêm nay. Nó tái xuất hiện ở đoạn được trích từ thư Thánh Phaolô gửi cho Titô: “Ân sủng của Thiên Chúa đã xuất hiện” (2:11). Lời phát biểu “đã xuất hiện”, theo nguyên ngữ Hy Lạp, cũng có cùng một ý nghĩa với được diễn tả theo tiếng Do Thái với những lời lẽ là “một ánh sáng đã chiếu soi”: “việc xuất hiện” này – “việc hiển linh” này – là việc tỏa ra ánh sáng của Thiên Chúa trên thế giới đầy tối tăm cùng với những vấn đề nan giải. Thế rồi Phúc Âm thuật lại rằng vinh quang ấy của Chúa đã xuất hiện với các mục đồng và “chiếu tỏa chung quanh họ” (Lk 2:9). Bất cứ nơi nào vinh quang của Thiên Chúa tỏ hiện thì ánh sáng đều tỏa ra khắp thế giới. Thánh Gioan đã nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa là ánh sáng và nơi Ngài không có tối tăm” (1Jn 1:5). Ánh sáng là nguồn sự sống.
Thế nhưng, trước hết, ánh sáng mang ý nghĩa hiểu biết; nó có ý chỉ về sự thật, vì nó tương phản với bóng tối tăm của sự sai lầm và vô thức. Ánh sáng ban sự sống cho chúng ta, nó tỏ cho chúng ta thấy đường đi nước bước. Thế nhưng, ánh sáng, như nguồn nhiệt lượng, cũng có nghĩa là yêu thương nữa. Đâu có yêu thương thì ánh sáng đều chiếu tỏa trên thế giới; đâu có hận thù thì ở đó thế giới vẫn còn ở trong tăm tối. Nơi hang Bêlem đã xuất hiện một ánh sáng rạng ngời đang được thế giới đợi trông. Nơi Con Trẻ năm trong hang lừa bò ấy Thiên Chúa đã tỏ vinh quang của Ngài ra – một vinh quang yêu thương, một vinh quang đã bỏ mình đi, tước bỏ hết những gì là cao sang để hướng dẫn chúng ta theo con đường yêu mến. Ánh sáng ở Bêlem này đã không bao giờ bị lịm tắt. Nó đã chạm tới con người nam nữ ở mọi thời đại, “nó đã chiếu tỏa chung quang họ”.
Bất cứ nơi nào con người tin tưởng vào Con Trẻ ấy thì bác ái cũng được tỏa ra – một đức ái hướng về người khác, ưu ái quan tâm tới thành phần yếu kém và thành phần khổ đau, ban phát thứ tha. Từ Bêlem, một luồng ánh sáng, yêu thương và chân lý tỏa lan khắp các thế kỷ. Nếu chúng ta nhìn đến các vị thánh nhân – từ Thánh Phaolô và Âu Quốc Tinh tới Thánh Phanxicô và Đaminh, từ Thánh Phanxicô Xavier và Têrêsa Avila tới Mẹ Têrêsa Calcutta – chúng ta đều thấy cái ngập lụt thiện hảo này, một con đường ánh sáng bốc tỏa luôn mới mẻ từ mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm Thiên Chúa trở thành một Con Trẻ. Nơi Con Trẻ này, Thiên Chúa đã ngăn chặn bạo lực của thế giới này bằng sự thiện hảo của Ngài. Ngài kêu gọi chúng ta hãy bước theo Con Trẻ ấy.
Cùng với cây Giáng Sinh, những người bạn Áo quốc của chúng ta cũng mang đến cho chúng ta một ngọn lửa nhỏ được thắp sáng từ Bêlem, như thể muốn nói rằng mầu nhiệm thực sự của Giáng Sinh là thứ rạng ngời nội tại được chiếu tỏa từ Con Trẻ ấy. Chớ gì cái rạng ngời nội tại ấy lan tỏa tới chúng ta và thắp lên trong lòng chúng ta ngọn lửa thiện hảo của Thiên Chúa; chớ gì tất cả chúng ta, với lòng mến yêu của mình, mang ánh sáng đến thế gian! Chớ gì chúng ta giữ lấy ngọn lửa tỏa sáng này cho khỏi bị lịm tắt bởi những luồng gió lạnh của thời đại chúng ta! Chớ gì chúng ta canh chừng nó cách trung thành và trao ban nó cho kẻ khác! Vào đêm hôm nay, khi chúng ta nhìn đến Bêlem, chúng ta hãy cầu nguyện đặc biệt cho nơi sinh hạ của Đấng Cứu Chuộc chúng ta cũng như cho các con người nam nữ sống và chịu khổ ở đó. Chúng con muốn cầu nguyện cho hòa bình ở Thánh Địa: Ôi Chúa, xin hãy nhìn đến cái góc của trái đất này là quê hương của Chúa, một nơi rất thân thương của Chúa! Chớ gì ánh sáng của Chúa chiếu tỏa trên nó! Chớ gì nó tìm thấy được hòa bình!
Tiếng “hòa bình” mang chúng ta tới yếu tố thứ ba về phụng vụ của đêm thánh này. Con Trẻ được tiên tri Isaia báo trước được gọi là “Vị Hoàng Tử Bình An”. Vương Quốc của Người được nói là mợt vương quốc “an bình vô tận”. Các mục đồng trong Phúc Âm đã nghe thấy tin mừng là “Vinh danh Thiên Chúa trên trời” và “bình an dưới thế…”. Có lúc chúng ta thường nói “cho người thiện tâm”. Ngày nay chúng ta nói “cho những người được Thiên Chúa thương yêu”. Việc đổi thay này có nghĩa là gì? Phải chăng thiện tâm không còn quan trọng nữa? Tốt hơn nếu chúng ta đặt vấn đề là ai là những người được Thiên Chúa yêu thương, và tại sao Thiên Chúa lại yêu thương họ? Phải chăng Thiên Chúa lại thiên vị? Phải chăng Ngài chỉ yêu thương một người nào đó thôi, trong khi bỏ rơi mặc xác những kẻ khác?
Phúc Âm trả lời những vấn đề này bằng việc nêu lên một số người đặc biệt được Thiên Chúa yêu thương. Đó là những con người, như Mẹ Maria, Thánh Giuse, Bà Isave, Ông Giacaria, Ông Simêon và Bà Anna. Thế nhưng, cũng có cả hai nhóm người khác nữa, đó là thành phần mục đồng và thành phần khôn ngoan Đông Phương là các “vị đạo sĩ”. Đêm nay, chúng ta hãy nhìn tới thành phần mục đồng. Họ là loại người như thế nào đây? Trong thế giới vào thời của họ thì những kẻ chăn chiên chăn bò là thành phần thấp hèn; họ được coi là không đáng tin cậy và không được làm chứng nhân tại tòa án. Thế nhưng họ thực sự là ai? Chắc chắn họ không phải là các vị đại thánh, nếu chúng ta có ý nói tới thành phần có nhân đức anh hùng. Họ là những linh hồn đơn sơ thành thực. Phúc Âm đã cho thấy một tính chất mà sau đó, qua những lời của Chúa Giêsu, mang một tầm vóc quan trọng: Họ là thành phần tỉnh thức canh chừng. Điều này thực sự là thế theo bề ngoài: Họ canh chừng đàn vật của họ về đêm. Thế nhưng nó cũng có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa: Họ đã sẵn sàng đón nhận lời Chúa. Cuộc sống của họ không phải là cuộc sống khép kín chỉ biết có mình; con tim của họ cởi mở. Một cách nào đó, tận thâm cung của mình, họ đang đợi chờ Ngài.
Việc họ canh chừng là một thứ sẵn sàng – một thứ sẵn sàng lắng nghe và lên đường. Họ đợi chờ một thứ ánh sáng cho họ thấy đường đi nước bước. Đó là những gì quan trọng đối với Thiên Chúa. Ngài yêu thương hết mọi người, vì họ là tạo vật của Ngài. Thế nhưng, có một số người khép kín lòng mình lại; không cởi mở để tình yêu của Ngài có thể lọt vào. Họ nghĩ rằng họ không cần đến Thiên Chúa, hay họ muốn có Thiên Chúa. Những kẻ khác, thành phần mà, theo quan điểm luân lý, có lẽ ít bất hạnh và tội lỗi hơn, ít là cảm thấy ân hận một phần nào đó. Họ đang đợi chờ Thiên Chúa. Họ nhận thấy rằng họ cần đến sự thiện hảo của Ngài, cho dù họ không rõ nó có nghĩa là gì. Ánh sáng của Thiên Chúa có thể nhập vào lòng họ, và cùng với ánh sáng này là sự an bình của Ngài. Thiên Chúa tìm kiếm những con người có thể là những thông mạch và là những con người rao giảng cho sự an bình của Ngài. Chúng ta hãy nguyện cầu để Ngài thấy không thấy tấm lòng khép kín của chúng ta. Chúng ta hãy nỗ lực để trở thành những người loan báo cho sự an bình của Ngài – trên thế giới của ngày hôm nay đây.
Nơi thành phần
Kitô hữu, tiếng “hòa bình” đã có một ý nghĩa rất đặc biệt: Nó trở thành một danh
hiệu cho Thánh Thể. Ở đó có sự bình an của Chúa Kitô. Ở tất cả mọi chỗ cử hành
Thánh Thể, đều có một đại cơ cấu bình an tràn lan khắp thế giới. Các cộng
đồngqui tụ lại chun g quanh Thánh Thể làm thành một vương quốc an bình trải rộng
ra như chính thế giới. Khi chúng ta cử hành Thánh Thể, chúng ta thấy mình ở
Bêlem, ở trong “nhà bánh”. Chúa Kitô hiến mình cho chúng ta, làm như thế là
Người ban cho chúng ta bình an của Người. Người đã ban bình an cho chúng ta để
chúng ta có thể mang ánh sáng an bình trong lòng mình mà cống hiến cho kẻ khác.
Người đã ban nó cho chúng ta để chúng ta trở thành những người đi làm hòa bình
và xây dựng hòa bình trên thế giới. Và vì thế chúng ta nguyện cầu rằng: Lạy Chúa,
xin Chúa hãy làm trọn lời hứa của Chúa! Ở đâu có xung khắc xin Chúa hãy làm
phát sinh an bình! Ở đâu có hận thù, xin Chúa hãy làm nẩy sinh yêu thương! Ở đâu
tối tăm bao phủ, xin Chúa hãy chiếu soi ánh sáng! Xin Chúa hãy làm cho chúng con
trở thành những người loan báo hòa bình của Chúa. Amen.
“Thần Linh đang ẩn mình nơi đây, Đấng tôi thật sự tôn thờ” Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Bài Giảng Lễ Nửa Đêm (cuối cùng) Năm 2004
1. "Adoro te devote, latens Deitas." “Thần Linh đang ẩn mình nơi đây, Đấng tôi thật sự tôn thờ”. Vào Đêm này, những lời mở của bài thánh ca về Thánh Thể được cử hành này âm vang trong lòng tôi. Những lời này hằng ở với tôi hằng ngày trong năm được giành cho Thánh Thể đây. Nơi Người Con của Đức Trinh Nữ, “được bọc trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ” (Lk 2:12), chúng ta nhận biết và tôn thờ “Bánh bởi trời xuống” (Jn 6:41, 51) là Đấng Cứu Chuộc đã đến giữa chúng ta để mang lại sự sống cho thế giới. 2. Bêlem! Thành phố là nơi Chúa Giêsu giáng sinh để làm trọn Sách Thánh này, theo Do Thái ngữ, có nghĩa là “nhà bánh”. Chính ở nơi đó mà Đấng Thiên Sai đã được sinh ra, Đấng đã nói về mình rằng: “Tôi là bánh sự sống” (Jn 6:35,48). Ở Bêlem Đấng được hạ sinh, dưới dấu hiệu của tấm bánh bẻ ra, khiến chúng ta nhớ đến Cuộc Vượt Qua của Người. Vào Đêm Thánh này, việc tôn thờ Con Trẻ Giêsu trở thành việc tôn thờ Thánh Thể. 3. Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Chúa thực sự hiện diện trong Bí Tích trên bàn thờ, Bánh hằng sống ban sự sống cho nhân loại. Chúng con nhận biết Chúa là Thiên Chúa duy nhất của chúng con, một Con Trẻ nhỏ bé nằm bất lực trong máng cỏ! “Khi thời gian viên trọn, Chúa đã trở thành một con người giữa loài người, để nối kết tận điểm với khởi điểm, tức là nối kết con người với Thiên Chúa” (cf. St. Irenaeus, "Adversus Haereses," IV, 20, 4). Chúa được sinh ra vào Đêm này, hỡi Đấng Cứu Chuộc thần linh của chúng con, và trong cuộc hành trình tiến bước trên con đường thời gian, Chúa đã trở nên lương thực sự sống đời đời cho chúng con. Xin hãy nhìn đến chúng con, hỡi Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã mặc xác thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria! Toàn thể nhân loại, đang mang gánh nặng thử thách và trục trặc, đang cần đến Chúa. Xin hãy ở với chúng con, hỡi bánh hằng sống từ trời xuống vì phần rỗi của chúng con! Xin hãy ở với chúng con đến muôn đời! Amen! Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 25/12/2004
“Một con trẻ được sinh ra cho chúng ta, một người con được ban cho chúng ta” Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Bài Giảng Lễ Nửa Đêm cho Năm 2003
1. “Một con trẻ được sinh ra cho chúng ta, một người con được ban cho chúng ta” (Is 9:5) Những lời của Tiên Tri Isaia trong bài đọc Thứ Nhất chứa đựng một sự thật về Giáng Sinh, những lời chúng ta đang sống lại đêm nay đây. Một Con Trẻ được sinh ra. Bề ngoài thì đó là một con trẻ nữa trong số nhiều con trẻ trên thế giới. Một Con Trẻ được hạ sinh trong máng cỏ ở Bêlem. Người được hạ sinh trong một hoàn cảnh hết sức thiếu thốn: nghèo khổ nhất trong thành phần nghèo khổ. Thế nhưng, Đấng được sinh ra đó lại là “Người Con” tuyệt hảo: “Filius datus est nobis”. Con Trẻ này là Người Con của Thiên Chúa, Đấng ở cùng Cha. Được các vị Tiên Tri tiên báo, Người đã làm người bởi Thánh Linh trong cung lòng của một Trinh Nữ là Maria. Tí xíu nữa đây, khi chúng ta hát Kinh Tin Kính “…’et incrnatus est de Spiritu Sancto ex Maria Virgine et home factus est” – “bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người”, tất cả chúng ta đều quì gối xuống. Chúng ta sẽ chiêm niệm trong thinh lặng về mầu nhiệm vừa được hoàn thành: “Et homo factus est!” – “Và đã làm người!”. Con Thiên Chúa đến giữa chúng ta, và chúng ta quì xuống lãnh nhận Người. 2. “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14). Vào đêm phi thường này, Lời Hằng Hữu, “Hoàng Tử Hòa Bình” (Is 9:5), được hạ sinh trong một hang Bêlem thấp hèn và lạnh giá. “Đừng sợ”, thiên thần nói với các mục đồng, “vì hôm nay trong thành Đavít Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho anh em, Ngài là Chúa Kitô” (Lk 2:10-11). Như những mục đồng vô danh song may mắn, chúng ta cũng hãy mau đến gặp gỡ Đấng đã làm đổi thay cả lịch sử thế giới này. Nơi cảnh nghèo nàn khổ ải của cái nôi, chúng ta chiêm ngắm “một hài nhi được bọc trong khăn nằm trong máng cỏ” (Lk 2:12). Nơi hài nhi mới sinh mong manh yếu đuối đang khóc trong đôi cánh tay của Mẹ Maria, “ân sủng của Thiên Chúa đã xuất hiện vì phần rỗi của tất cả mọi người” (Titus 2:11). Chúng ta hãy ngưng lại trong thinh lặng mà tôn thờ! 3. Ôi Con Trẻ, Đấng đã muốn cái nôi của mình là cái máng cỏ; Ôi Đấng Hóa Công của vũ trụ, Đấng đã lột bỏ bản thân mình vinh quang thần linh; Ôi Đấng Cứu Chuộc, Đấng đã hiến thân thể mong manh của mình làm hy tế cho phần rỗi của nhân loại! Chớ gì ánh quang của việc Người hạ sinh chiếu soi đêm tối tăm của thế giới. Chớ gì quyền năng nơi sứ điệp yêu thương của Người phá tan những cạm bẫy kiêu căng của tên gian ác. Chớ gì tặng ân sự sống của Người làm cho chúng tôi hiểu rõ hơn bao giờ hết giá trị của sự sống nơi mỗi một con người. Vẫn còn quá nhiều máu đổ trên trái đất này! Vẫn còn quá nhiều bạo loạn và quá nhiều cung đột gây rắc rối cho cuộc chung sống thuận hòa giữa các quốc gia! Người đến để mang lại bình an cho chúng tôi. Người là bình an của chúng tôi! Chỉ có Người mới có thể làm cho chúng tôi thành “một dân tộc được thanh tuyền” và muôn đời thuộc về Người, một dân tộc “nhiệt thành làm những việc thiện hảo” (Titus 2:14). 4. Một con trẻ đã được sinh ra cho chúng ta, một người con đã được ban tặng cho chúng ta! Một mầu nhiệm khôn thấu biết bao đã được ẩn dấu nơi sự khiêm hạ của Con Trẻ này! Chúng tôi muốn được sờ đến Người; chúng tôi muốn được ôm lấy Người. Ôi Maria, vị đã canh chừng Người Con toàn năng của mình, xin hãy ban cho chúng con đôi mắt để tin tưởng chiêm ngắm Người; hãy ban cho chúng con trái tim Mẹ để chúng con kính mến tôn thờ Người. Nơi cảnh sơ xài giản dị của mình, Con Trẻ Bêlem dạy chúng ta biết tái nhận thức ý nghĩa thực sự của việc chúng ta hiện hữu; Người dạy chúng ta “hãy sống một cuộc sống nghiêm túc, thẳng thắn và đạo hạnh trên thế gian này” (Titus 2:12). 5. Ôi Đêm Thánh hằng được đợi trông, một đêm thánh đã liên kết Thiên Chúa và con người lại với nhau đến muôn đời! Ngươi đã thắp lại niềm hy vọng cho chúng tôi. Ngươi làm cho chúng tôi đầy những chất ngất ngỡ ngàng. Ngươi bảo đảm với chúng tôi về cuộc chiến thắng của yêu thương trên hận thù, của sự sống trên sự chết. Đó là lý do chúng ta cần phải trầm lắng nguyện cầu. Trong sự thinh lặng rạng ngời của việc Người Hạ Sinh, xin Người là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi hãy nói với chúng tôi. Và chúng tôi đang lắng tai nghe. Amen! Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL chuyển dịch theo Zenit 25/12/2003
“Khi trái đất đang ngất ngây thinh lặng và ở vào khoảng nửa đêm thì, Ôi Chúa, Lời toàn năng của Ngài đã từ vương tòa của Người mà đến”
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Bài Giảng Lễ Nửa Đêm cho Năm 2002 1. "Dum medium silentium teneret omnia"... – “Khi trái đất đang ngất ngây thinh lặng và ở vào khoảng nửa đêm thì, Ôi Chúa, Lời toàn năng của Ngài đã từ vương tòa của Người mà đến” (Ca Tiếp Liên cho Ca Vịnh Ngợi Khen, 26/12). Vào Đêm Thánh này, lời hứa xưa kia đã được nên trọn: thời gian mong đợi đã chấn dứt và Vị Trinh Nữ đã sinh hạ Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu đã được sinh ra cho một nhân loại đang tìm kiếm tự do và hòa bình; Người được sinh ra cho hết mọi người mang gánh nặng tội lỗi, đang cần được cứu độ và tìm kiếm hy vọng. Đêm hôm nay Thiên Chúa đáp ứng tiếng kêu liên lỉ của các dân nước là Lạy Chúa, xin hãy đến cứu độ chúng tôi! Lời yêu thương hằng hữu của Ngài đã mặc lấy xác thịt hữu hạn của chúng ta. “Ôi Chúa, Lời Chúa đã từ vương tòa của Người mà đến”. Lời đã đi vào thời gian: Emmanuel, Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta đã hạ sinh. Tại các vương cung thánh đường và đại đền thờ, cũng như tại các nhà thờ nhỏ nhất và xa xôi hẻo lánh nhất ở khắp nơi trên thế giới, Kitô hữu hân hoan dâng lời ca là “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh” (Đáp Ca). 2. Mẹ Maria “đã sinh hạ người con trai đầu lòng, bọc Người trong khăn và đặt Người nằm trong máng cỏ” (Lk 2:7). Đó là hình ảnh Giáng Sinh, hình ảnh một con trẻ mới sinh bé bỏng, Đấng được đôi tay của một người nữ bọc trong những mảnh vải thô sơ và đặt nằm trong máng cỏ. Ai có thể nghĩ được rằng con người bé bỏng này lại là “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:32)? Chỉ có Mẹ là Mẹ của Người mới biết được sự thật này và canh giữ mầu nhiệm của sự thật này. Đêm nay chúng ta cũng có thể “hợp” với ánh nhìn của Mẹ để nhờ đó nhận thấy nơi Con Trẻ này bộ mặt nhân loại của Thiên Chúa. Cả chúng ta nữa, những con người nam nữ của thiên kỷ thứ ba đây, cũng có thể gặp gỡ Chúa Kitô và ngắm nhìn Ngài bằng đôi mắt của Mẹ Maria. Như thế, Giáng Sinh trở thành một học đường của niềm tin và sự sống. 3. Ở bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Tông Đồ Phaolô đã giúp chúng ta hiểu được biến cố Chúa Kitô chúng ta đang cử hành trong đêm sáng láng này. Thánh nhân viết: “Ân sủng của Thiên Chúa đã tỏ hiện, ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người” (Titus 2:11). “Ân sủng của Thiên Chúa” tỏ hiện nơi Chúa Giêsu đây đó là tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, một tình yêu chi phối toàn thể lịch sử cứu độ và hướng dẫn lịch sử đạt đến tầm vóc viên trọn của nó. Việc tỏ bản thân mình ra của Thiên Chúa, Đấng “tự hạ đến giữa chúng ta như một con người” (Tiền Xướng Mùa Vọng, I) là niềm ngưỡng vọng trên thế gian này việc Người vinh quang “tỏ hiện” vào ngày tận thế (x Titus 2:13). Thế nhưng, không phải chỉ có thế. Biến cố lịch sử chúng ta đang cảm nghiệm một cách mầu nhiệm đây là “đường lối” cho chúng ta nhờ đó gặp được Chúa Kitô vinh hiển. Bằng việc Nhập Thể của mình, Chúa Giêsu dạy chúng ta, như Thánh Tông Đồ nhận định, là “hãy từ bỏ những đường lối vô luân cùng những ước muốn trần tục, và hãy sống tiết độ, chính trực và đạo hạnh trên đời này trong khi chúng ta đang đợi chờ niềm hy vọng ân phúc của chúng ta” (Titus 2:12-13). Ôi hỡi Cuộc Hạ Sinh của Chúa, ngươi đã đánh động Các Thánh Nhân ở mọi thời đại! Trong số các thánh nhân, Tôi nghĩ đến Thánh Bênađô và việc ngất trí thiêng liêng của ngài trước cảnh Máng Cỏ cảm động. Tôi nghĩ đến Thánh Phanxicô Assissi, vị thánh đã sáng tạo nên cảnh mầu nhiệm đêm Giáng Sinh sống động đầu tiên. Tôi nghĩ đến Thánh Thêrêsa Hài Đồng Giêsu, vị thánh qua “con đường thơ ấu” của mình đã cho những trí khôn tân tiến kiêu kỳ thấy lại được tinh thần đích thực của Giáng Sinh. 4. “Các người sẽ thấy một con trẻ được bọc trong khăn nằm trong máng cỏ” (Lk 2:12) Con Trẻ nằm trong máng cỏ thấp hèn, đó là dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa. Các thế kỷ và thiên kỷ qua đi, nhưng dấu hiệu này vẫn còn đó, vẫn còn giá trị đối với cả chúng ta nữa, những con người nam nữ của thiên kỷ thứ ba này. Đó là một dấu hiệu hy vọng cho toàn thể gia đình nhân loại; một dấu hiệu hòa bình cho những ai đau khổ bởi đủ mọi thứ xung khắc; một dấu hiệu tự do cho thành phần nghèo khổ và bị áp bức; một dấu hiệu của tình thương cho những ai bị rơi vào vòng tội ác xấu xa; một dấu hiệu yêu thương và an ủi cho những ai cảm thấy lẻ loi và bị bỏ rơi. Một dấu hiệu nhỏ bé và mỏng dòn, một dấu hiệu khiêm tốn và thầm lặng, nhưng lại là một dấu hiệu đầy quyền năng của Thiên Chúa là Đấng vì yêu thương đã làm người. 5. Lạy Chúa Giêsu, cùng với các mục
đồng Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL chuyển dịch theo Zenit 2002
|