CHÚA NHẬT II MÙA CHAY


BÀI ĐỌC I: Gen 15:5-12, 17-18

“Thiên Chúa đă thiết lập giao ước với Abraham”
Bài trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: “Ngươi hăy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hăy đếm các ngôi sao”. Rồi Chúa nói tiếp: “Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế”. Abram tin vào Thiên Chúa và v́ đó, ông được công chính. Và Chúa lại nói: “Ta là Chúa, Đấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp”. Abram thưa rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao tôi có thể biết tôi sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?” Chúa đáp: “Ngươi hăy bắt một con ḅ cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non”. Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nữa nầy đối diện với phân nữa kia; nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mănh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hăi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông. Khi mặt trời lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc ḷ bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đă thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: “Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai Cập cho đến sông Euphrát”.

Lời của Chúa.


Đáp ca: (Xin mời Cộng đoàn thưa)

Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai?

1.      Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ ǵ ai?

2.      Lạy Chúa, xin nghe tiếng tôi kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời tôi. Về Chúa, ḷng tôi tự nhắc lời: “Hăy t́m ra mắt Ta”.

3.      Và lạy Chúa, tôi t́m ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa tôi, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Đấng phù trợ, xin đừng hất hủi tôi.

4.      Tôi tin rằng tôi sẽ được nh́n xem những ơn lành của Chúa trong cơi nhân sinh. Hăy chờ đợi Chúa, hăy sống can trường, hăy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!


BÀI ĐỌC II: Phil 3:17 — 4:1

“Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người”
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, anh em hăy bắt chước tôi, và hăy để mắt nh́n coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đă thường nói với anh em và giờ đây tôi đau ḷng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Đức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cơi đời nầy. Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu quư, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi, anh em thân mến, hăy vững vàng trong Chúa.

Lời của Chúa.


CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: (Xin mời Cộng đoàn đứng)
Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hăy nghe lời Người”.


PHÚC ÂM: Lc 9:28b-36

“Đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bổng có hai vị đàm đạo với Người. Đó là Môisen và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng tôi được ở đây th́ tốt lắm, chúng tôi xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia.” Khi nói thế, Phêrô không rơ ḿnh nói ǵ. Lúc ông c̣n đang nói, th́ một đám mây bao phủ các ông và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hăy nghe lời Người”. Và khi tiếng đang phán ra, th́ chỉ thấy c̣n ḿnh Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều ḿnh đă chứng kiến.

Phúc Âm của Chúa.

Sống Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật II Mùa Chay

Bóng Dáng Phục Sinh 

 

Trước khi xuất thân cứu nhân độ thế, Vị Thiên Chúa Làm Người của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô đă phải thực hiện hai việc đi đôi với nhau, một việc liên quan đến linh hồn của Người, đó là việc Người lănh nhận phép rửa của Giaon Tiền Hô ở sông Dược Đăng, tác động mở màn cho Phụng Vụ Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh hằng năm của Giáo Hội, và một việc liên quan đến thân xác của Người, đó là, ngay sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần thúc đẩy, Người đă vào hoang địa 40 ngày để ăn chay và chịu cám dỗ, tác động mở màn cho Phụng Vụ Mùa Chay hằng năm của Giáo Hội.

 

Qua hai tác động liên quan đến cả hồn lẫn xác này của Người, toàn thể nhân tính của Chúa Giêsu, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, đă đi tới chỗ hiển linh, qua hiện tượng biến h́nh trên núi, một biến cố loan báo trước thực tại Phục Sinh của Người sau này, thời điểm thân xác phục sinh của Người trở thành phương tiện thông ban Thánh Linh cho loài người xác thịt chúng ta. (Xin mở ngoặc ở đây là Chúa Giêsu biến h́nh chứ không phải Chúa Giêsu chỉ “hiển dung” như một số người sử dụng từ ngữ Lễ Chúa Giêsu Hiển Dung, v́ tất cả thân xác của Chúa Giêsu, kể cả y phục của Người được biến h́nh sáng láng, chứ không phải chỉ có dung nhan của Người mà thôi). Biến cố Chúa Giêsu tự ḿnh biến h́nh trên núi bao giờ cũng được Phúc Âm Nhất Lăm cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay tuần này thuật lại đă chứng t cho thấy Người thực sự là một Vị Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người, Thần Tính của Người là chủ thể của nhân tính, làm chủ nhân tính và hiển linh qua nhân tính, đúng như Thánh Tông Đồ Dân Ngoại nhận định trong thư gửi Giáo Đoàn Côlôsê đoạn 2 câu 9: “Nơi Người toàn thể tầm vóc viên măn của thần tính ngự trị một cách thể lư”.

 

Tuy nhiên, để có thể tỏ hết Thần Tính vô cùng thiện hảo và hiển vinh ra, nhân tính của Người phải Vượt Qua cuộc khổ nạn và tử giá. Đó là lư do bài Phúc Âm Thánh Luca theo chu kỳ phụng vụ C tuần này nói đến sự kiện: “Bỗng có hai vị uy nghi hiện đến đàm đạo với Người, đó là Moisen và Êlia, nói về sự chết của Người sẽ xẩy ra tại Giêrusalem”.

 

Tại sao Moisen và Êlia…?

 

Thế nhưng, nếu việc Chúa Giêsu biến h́nh tiên báo việc Người phục sinh vinh hiển th́ tại sao hai nhân vật Cựu Ước lại đến đàm đạo với Chúa Giêsu không phải về vinh quang Phục Sinh mà là về cuộc tử nạn khổ đau của Người, và tại sao hai nhân vật nói chuyện với Chúa Giêsu về cuộc tử nạn này lại là Moisen và Êlia, chứ không phải là Abraham và Isaia, v́ Abraham là vị tổ phụ đă phải chịu khổ đau cùng cực khi hiến tế đứa con nối ḍng duy nhất của ông, và Isaia là tiên tri đặc biệt nói về Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa?

 

Để trả lời cho câu hỏi rất xác đáng và khúc mắc này, chúng ta cần biết thân phận của Moisen và Êlia là ai. Nếu Moisen liên quan đến lề luật th́ Êlia đóng vai tṛ là tiên tri của Thiên Chúa. Mà Chúa Giêsu lại tuyên bố trong Bài Giảng Trên Núi ở Phúc Âm Thánh Mathêu, đoạn 5 câu 17: “Các con đừng tưởng rằng Thày đến để hủy bỏ lề luật và các lời tiên tri. Thày đến không phải để hủy bỏ mà là để làm trọn”. Đó là lư do tại sao Moisen và Êlia đă xuất hiện để đàm đạo với Chúa Giêsu, Đấng đến để làm trọn lề luật và các lời tiên tri, nhất là bằng Cuộc Vượt Qua của Người, như chính Người một lần nữa đă khẳng định với các tông đồ khi hiện ra với các vị sau khi từ trong kẻ chết sống lại ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 24 câu 44: “Mọi sự viết về Thày trong lề luật của Moisen cũng như theo các lời tiên tri và Thánh Vịnh cần phải được nên trọn”.

 

C̣n lư do tại sao Moisen và Êlia đến đàm đạo với Chúa Giêsu không phải về cuộc phục sinh vinh hiển của Người trong lúc Người biến h́nh trên núi mà là về cuộc tử nạn của Người, th́ chúng ta phải để ư đến sứ vụ của hai vị này, ở chỗ, cả hai đều được Thiên Chúa kêu gọi đến để minh chứng cho Dân Do Thái thấy một chân lư vô nhị, chân lư Chúa là Thiên Chúa duy nhất, ngoài Ngài ra không c̣n Chúa nào khác, v́ Ngài là “Đấng Hiện Hữu” (Ex 3:14), tức là Đấng bất biến, Đấng luôn trung thành với những ǵ đă hứa với các tổ phụ của họ là Abraham, Isaac và Giacóp. Thiên Chúa đă thực sự tuyển chọn Moisen để giải phóng Dân Ngài khỏi làm tôi người Ai Cập mà đem họ vào Đất Hứa, miền đất Ngài đă đưa Abraham tới và hứa ban cho con cháu ông, như được ghi nhận trong Sách Sáng Thế Kư ở đoạn 17 câu 8. Êlia cũng được Thiên Chúa tuyển chọn để giải phóng Dân Chúa khỏi bị mê hoặc bởi 450 tiên tri của Thần Ba-An trong việc tôn thờ ngẫu tượng, như được Sách Các Vua quyển thứ nhất thuật lại ở đoạn 18 câu 16-46. Moisen khởi đầu ơn gọi giải phóng của ḿnh bằng thị kiến bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi, như được thuật lại trong Sách Xuất Hành ở đoạn 3 câu 2. C̣n Êlia đă kết thúc sứ vụ giải thoát Dân Chúa của ḿnh bằng việc kêu cầu “Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isac và Giacóp” để xin Ngài sai lửa từ trời xuống thiêu đốt của lễ của ḿnh và việc đă thực sự đă xẩy ra, như Sách Các Vua quyển nhất ghi lại ở đoạn 18 câu 38.

 

Chúa Giêsu cũng đă đến để giải phóng Dân Chúa nói riêng và loài người nói chung bằng chính cuộc tử nạn của ḿnh, một cuộc tử nạn để Người có thể “làm chứng cho chân lư”, như Người đă tuyên bố với tổng trấn Philatô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 18 câu 37, chân lư Người là Đức Kitô, tức là Đấng được sai đến bởi Cha, Vị Thiên Chúa đă hứa cứu độ loài người ngay sau khi họ sa ngă phạm tội nơi hai nguyên tổ, như Sách Sáng Thế Kư ghi nhận ở đoạn 3 câu 15. Cuộc tử nạn khổ đau của Chúa Kitô chẳng khác ǵ như bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi trước mắt Moisen, một cuộc tử nạn không bị thiêu rụi v́ Người thực sự đă phục sinh từ trong cơi chết, một cuộc tử nạn tự hiến đă được Thiên Chúa vui ḷng khứng nhận như Ngài đă sai lửa từ trời xuống thiêu hủy lễ vật của Êlia, đến nỗi, hoa trái của cuộc tử nạn này chẳng những là ơn cứu độ được ban xuống cho loài người nói chung mà c̣n cho thân xác của con người nói riêng, như Thánh Phaolô xác tín trong thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở đoạn 5 câu 8-9: “Mặc dù là Con, song Người cũng biết vâng lời trong những ǵ phải chịu, để khi thành toàn, Người đă trở nên căn nguyên cứu độ cho tất cả những ai tín phục Người”, và trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 8 câu 11: “Nếu Thần Linh của Đấng đă phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết ở trong anh em th́ Đấng phục sinh Chúa Giêsu từ trong kẻ chết cũng sẽ làm cho thân xác chết chóc của chúng ta được sống như vậy, nhờ Thần Linh của Ngài ở trong chúng ta”. Theo tôi, Thần Linh của Cha đă làm cho Chúa Kitô phục sinh đây chính là ngọn lửa từ trời xuống thiêu đốt thân xác tử giá hy hiến của Chúa Kitô, một thân xác bị thiêu đốt nhưng không bị thiêu rụi như h́nh ảnh bụi gai được Moisen thị kiến thấy, tức một thân xác sẽ phục sinh vinh hiển, như được ba vị tông đồ đại diện cho Dân Tân Ước thị kiến thấy trước, một biến cố được Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật tuần này thuật lại.

 

Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo số 556 nói về cuộc biến h́nh của Chúa Giêsu liên quan đến việc thân xác loài người sẽ được cứu như sau:

 

“Mở màn cho cuộc sống công khai của Chúa Giêsu là việc Người chịu Phép Rửa; mở đầu cho Cuộc Vượt Qua là việc Người Biến H́nh trên núi. Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa loan báo ‘mầu nhiệm tái sinh lần thứ nhất’ là việc chúng ta chịu Phép Rửa. Việc Chúa Giêsu Biến H́nh trên núi ‘là bí tích của cuộc tái sinh lần thứ hai’ tức là việc chúng ta sống lại (xem Thánh Tôma, STh, III, 45, 4 ad 2). Từ đó chúng ta được thông dự vào Cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô, nhờ Thần Linh là Đấng hoạt động nơi các bí tích của Thân Thể Chúa Kitô. Việc Biến H́nh trên núi của Chúa Kitô cho chúng ta nếm hưởng trước việc Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang, khi mà Người ‘sẽ biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân thể hiển vinh của Người’ (Phil 3:21). Tuy nhiên, việc Biến H́nh trên núi này cũng nhắc nhở cho chúng ta thấy là ‘chúng ta phải trải qua nhiều cuộc bách hại mới được vào vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts 14:22)”.

 

Tại sao Phêrô…?

 

Đến đây, vẫn c̣n một vấn đề cần phải được giải quyết, đó là tại sao Thánh Phêrô rất tỉnh táo, đến nỗi biết được cả hai vị đến đàm đạo với Chúa Giêsu là Moisen và Elia, song sau khi xin phép Thày cho ḿnh được dựng ba lều cho Ba Đấng th́ Phúc Âm liền cho biết: “Khi nói thế, Phêrô không rơ ḿnh nói ǵ”. Theo tâm lư cho thấy th́ tâm trạng của Thánh Phêrô lúc bấy giờ ra sao?

 

Thắc mắc này làm tôi nhớ đến câu truyện là vào tháng 10 năm 1998, sau khi tôi chia sẻ với Đạo Binh Hồn Nhỏ ở Orange County dịp kỷ niệm 20 đoàn thể này sinh hoạt tại Hải Ngoại, có một chị quen biết đến với tôi khen tặng bài chia sẻ của tôi, và nhân đó cho tôi biết rằng có lần chị cũng được ơn nói tiếng lạ, không phải là nửa tiếng hay 1 tiếng mà là mấy tiếng liền. Nghe xong, tôi hỏi xem chị có hiểu những ǵ chị nói hay chăng, chị cho biết chị chẳng hiểu những ǵ chị nói nữa! Vậy th́ những người khác làm sao có thể hiểu chị? Phải chăng tiếng lạ là tiếng không ai hiểu ǵ?

 

Có một vị lăo thành rất sốt sắng tham gia Phong Trào Thánh Linh, vị đă ba lần trong ṿng 1 năm khuyên giục tôi hăy mang kiến thức và khả năng chia sẻ về Thánh Kinh của tôi để phục vụ nhiều linh hồn đang hào hứng với phong trào này, đă dẫn giải cho tôi về vấn đề hay về hiện tượng “cầu nguyện bằng tiếng lạ”, như trường hợp xẩy ra cho bà chị quen biết trên đây. Theo vị lăo thành này hiểu th́ sự kiện cầu nguyện bằng tiếng lạ ấy có nền tảng trong Thánh Kinh, ở đoạn Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 8 câu 26: “Thần Linh cũng giúp t́nh trạng yếu đuối của chúng ta, v́ chúng ta không biết cầu nguyện làm sao cho phải, nên chính Thần Linh đă chuyển cầu cho chúng ta bằng những lời than khôn tả”. Nghe thế, tôi thưa lại với vị tiền bối của tôi rằng “những lời than khôn tả” phát xuất từ Thần Linh đây, theo tôi hiểu, là những điều chúng ta không thể diễn tả được bằng lời nói nhưng vẫn cảm nghiệm thấy trong tâm hồn bằng đức tin, như t́nh trạng chiêm niệm lên tới bậc siêu việt của một số tâm hồn thánh nhân. Nếu cầu nguyện là nói chuyện với Chúa, là giao tiếp với thần linh, mà lại không hiểu ḿnh nói ǵ, không ư thức được những ǵ ḿnh muốn nói th́ đâu phải là cầu nguyện. Thật thế, những cảm nghiệm thần linh siêu việt vượt trên cảm giác tự nhiên cũng như trên tri thức loài người này vẫn có thể được diễn tả ra bằng lời nói, song là những lời rất ngắn gọn, như Kinh Lạy Cha hoặc Kinh Kính Mừng chẳng hạn, chứ không dài ḍng văn tự (x Mt 6:7-13), mà lại chất chứa đầy những ư nghĩa sâu xa chẳng khác ǵ như “những lời than khôn tả”.

 

Thánh Gioan Chrysostom, vị Giám Mục Giáo Phụ của Hội Thánh, đă nhận định về việc cầu nguyện “rên xiết” theo Thánh Linh như sau: “Cầu nguyện mang lại hoan lạc cho thần trí, an b́nh cho tâm hồn. Tôi nói về việc cầu nguyện chứ không phải về những thứ ngôn từ. Cầu nguyện là khát vọng Thiên Chúa, một thứ t́nh yêu quá sâu xa đối với những lời lẽ, một tặng ân không phải tự con người mà là bởi ơn Chúa ban cho. Thánh Tông Đồ Phaolô đă nói: ‘Chúng ta không biết cầu nguyện ra sao nhưng chính Thần Linh cầu xin cho chúng ta bằng những khát khao khôn tả’” (Supp., Hom. 6, De Precatione: PG 64, 462-466, The Office of Reading, St Paul Edition, 1983, pg 347).

 

“Những lời than khôn tả” theo cảm nghiệm thần linh này có thể kể đến là lời Chúa Giêsu than lên ba lần với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, nếu được xin cất chén này cho Con. Nhưng xin cho ư Cha được nên trọn chứ đừng theo ư Con” (Mt 26: 39,41-42), hay lời Người than lên trên thập giá trước khi tắt thở: “Chúa ơi, sao Chúa nỡ bỏ rơi tôi?” (Mt 27:46), hoặc lời của Thánh Phêrô 3 lần tuyên xưng “Lạy Thày, Thày quá rơ con yêu mến Thày” (Jn 21:15-17). Ngoài ra, c̣n có “những lời than khôn tả” điển h́nh nữa của Thánh Phêrô, đó là lời “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!” (Mt 16:16). Thật vậy, v́ là những ǵ nhận được do mạc khải thần linh (x Mt 16:17), tức do Thần Linh, chứ không phải do huyết nhục tự biết được, mà những lời tuyên xưng ấy quả thực là “những lời than khôn tả”, đến nỗi, chính đương sự cũng không hiểu được “tất cả sự thật” (Jn 16:13) của “những lời than khôn tả” ấy. Đó là lư do, vừa tuyên xưng xong, chính đương sự đă trở thành “đồ Satan” qua lời quở trách thậm tệ của Thày. Cũng thế, những lời Thánh Phêrô xin Thày trên đỉnh núi biến h́nh, nói mà không hiểu ǵ. Bởi v́, ngài chỉ biết được sự kiện Chúa biến h́nh mà không hiểu được mầu nhiệm Vượt Qua (x Mt 17:10). Đó là lư do ngài đă trắng trợn và phũ phàng chối Thày 3 lần, dù đă thề sống chết với Thày và được Thày tiên báo về việc chối bỏ của ngài (x Mt  26:33-35,69-75)

 

Lạy Chúa Giêsu Kitô là sự sống lại và là sự sống, Chúa đă tỏ vinh quang rạng ngời trên núi cao khi biến h́nh trước mắt các môn đệ. Nhờ lời Mẹ Maria chuyển cầu, xin Chúa cho Kitô hữu chúng con luôn biết sống trong tinh thần và chân lư, để chúng con được hoan hưởng sự sống, một sự sống viên măn, trong Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Những Thiên Thần Khù Khờ

 

Hướng về Mầu Nhiệm Phục Sinh và Canh Tân Cánh Chung

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Biến cố Chúa Kitô biến h́nh trên núi là biến cố báo trước cuộc phục sinh vinh hiển của thân xác Người, một Thánh Thể sẽ phải trải qua một cuộc khổ nạn và tử giá kinh hoàng nhất trong lịch sử loài người. Như vậy, nhờ cuộc khổ nạn và tử giá của Thánh Thể Phục Sinh Con Thiên Chúa làm người mà tất cả mọi bệnh hoạn tật nguyền về phần xác của con người, thậm chí ngay chính sự chết nơi thân xác hữu h́nh và hữu hạn của họ cũng bị triệt tiêu, và thân xác của con người nói chung sẽ được phục sinh trong ngày sau hết, nhất là thân xác của thành phần được cứu độ sẽ trở nên giống như thân xác vinh hiển của Người. Bởi thế, thân xác của con người, dù lành mạnh mà sống lại không được nên giống thân xác hiển vinh của Chúa Kitô th́ thà mất một tay, một mắt mà được vào Nước Trời c̣n hơn. Trên đời này chúng ta tỏ ra thương hại những người bị tật nguyền, nhưng nếu không biết sống trọn ơn gọi Kitô hữu của ḿnh th́ thành phần lành mạnh cả về thể lư lẫn tâm trí cùng tâm thần của chúng ta c̣n đáng thương hơn họ nữa.

    

Phải, họ thực sự là những thiên thần khù khờ. Bởi v́, về tâm linh (spiritual), họ trong trắng như trẻ thơ, không biết đến tội lỗi là ǵ, thế nhưng, về tâm lư hay tâm thần (psychological/mental), họ khù khờ hơn ai hết, dễ bị bắt nạt, bị ăn hiếp và bị đàn áp hơn ai hết, hơn bao giờ hết. Điển h́nh là mới đây Ṭa Thánh đă phải mạnh mẽ và dứt khoát lên tiếng bênh vực họ.

 

Hôm Thứ Năm 1/2/2007, Ṭa Thánh đă phổ biến bài nói của ĐTGM Celestino Migliore, vị quan sát viên  thường trực của Ṭa Thánh tại Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước, liên quan tới Bản Công Ước Liên  Hiệp Quốc Về Thánh Phần Khuyết Tật, một bản công ước được Tổng Hội Đồng LHQ phê chuẩn ngày 13/12/2006 và cần được các quốc gia phần tử kư nhận hạn chọn vào ngày 30/3/2007. Tuy nhiên, vị quan sát viên này, ở câu kết bài nói đă dứt khoát khẳng định là không kư, v́ những chi tiết trong bản công ước này, được vị quan sát viên trích dẫn cho rằng chúng là những ǵ tương phản với giáo huấn của Giáo Hội về phẩm giá của con người. Câu kết đó như sau:

 

“Thật là thê thảm ở chỗ, khi nào xẩy ra t́nh trạng khiếm khuyết của bào thai là điều kiện tiên quyết cho việc cống hiến hay sử dụng việc phá thai, th́ cùng Bản Công Ước được viết ra để bảo vệ những người khuyết tật khỏi bị tất cả mọi thứ kỳ thị khi họ hành sử quyền lợi của họ, lại có thể được sử dụng để chối bỏ chính quyền sống căn bản của những thai nhi tật nguyền. Chính v́ lư do này, và bất kể nhiều điều khoản hữu ích chất chứa trong Bản Công Ước này, Ṭa Thánh vẫn không thể kư  nhận nó. Tóm lại, đại biểu tôi cho rằng cái khả năng tích cực của Bản Công Ước này sẽ chỉ được hiện thực khi nào các điều khoản pháp lư của quốc gia và việc áp dụng thực hành của tất cả mọi phần tử hoàn toàn tuân hợp với Điều Khoản 23 về quyền sống của người khuyết tật. Tôi yêu cầu lời phát biểu này được cho vào bản tường tŕnh của buổi họp hôm nay”.

 

Trong bản nhận định kèm theo bài nói, vị quan sát viên này đă nhắc lại rằng: “từ đầu của công việc này vào hồi Tháng 7/2002, Ṭa Thánh đă tham dự một cách chủ động vào việc soạn thảo bản văn kiện ấy, bằng việc hợp tác thêm vào những chi tiết rơ ràng liên quan tới quyền sống và việc nh́n nhận vai tṛ của gia đ́nh nơi đời sống của những người bị khuyết tật. Tuy nhiên, ở giai đoạn cuối cùng của công việc này, những chi tiết bất khả chấp liên quan tới vấn đề ‘sức khỏe sản sinh’ đă được cho vào các khoản 23 và 25, v́ thế mà Ṭa Thánh đă quyết định không chấp nhận bản công ước mới này”.

 

Đức TGM này đă nhấn mạnh tới vấn đề “Ṭa Thánh đă nhất trí kêu gọi việc những người khuyết tật phải làm sao để được hội nhập vào xă hội một cách trọn vẹn và cảm thương, v́ Ṭa Thánh tin tưởng rằng họ có đầy đủ các thứ nhân quyền bất khả chuyển nhượng”.

 

Liên quan tới khoản 23 của bản công ước này, ngài đă cho biết phái đoàn đại biểu của ngài “đă giải thích tất cả những chữ và những câu liên quan tới các dịch vụ kế hoạch hóa gia đ́nh, tới việc điều ḥa sinh sản và hôn nhân ở khoản 23, cũng như tới chữ ‘giống tính’, v́ chữ này đă có những ư nghĩa và phát biểu theo chiều hướng của Hội Nghị Cairô và Bắc Kinh”, được tổ chức vào năm 1994 và 1995.

 

“Sau hết, và quan trọng nhất, đó là vấn đề liên quan tới khoản 25 về vấn đề sức khỏe, nhất là chi tiết dính dáng tới sức khỏe tính dục và sản sinh, một vấn đề theo Ṭa Thánh hiểu th́ phương cách hưởng dụng sức khỏe sản sinh như là một quan niệm nguyên vẹn không coi vấn đề phá thai hay phương tiện phá thai như là một chiều kích của những từ ngữ ấy… Chúng tôi chống lại việc bao gồm một câu như thế trong khoản này, v́ ở một số quốc gia những dịch vụ sức khỏe sản sinh bao gồm cả vấn đề phá thai, và như thế là chối bỏ quyền sống bẩm sinh của hết mọi người, một quyền lợi cũng được xác nhận ở khoản 10 của Bản Công Ước. Thật là thê thảm ở chỗ… cùng một Bản Công Ước được soạn thảo để bảo vệ những người tật nguyền khỏi tất cả mọi kỳ thị trong việc họ hành sử quyền lợi của họ lại được sử dụng để chối bỏ chính quyền sống căn bản của những con người tật nguyền c̣n trong bụng mẹ. Đó là lư do, bất chấp nhiều khoản hữu ích được chất chứa trong bản công ước ấy, Ṭa Thánh vẫn không thể kư chuẩn được”.

 

Đọc những lời này của Giáo Hội, tôi thấm thía hơn ai hết, chẳng những về chủ trương pḥ phẩm giá con người của Giáo Hội đối với mọi người và mỗi người trong xă hội ở tất cả mọi hoàn cảnh của họ, mà c̣n về thân phận của chính thành phần mà tôi vẫn luôn cảm nhận là “những thiên thần khù khờ”. Đúng thế, theo quan pḥng thần linh, tôi đă được diễm phúc gần gũi họ và phục vụ họ ở Orange County California, đầu tiên ở Hội Cộng Đồng Người Việt (Vietnamse Community of Orange County), từ ngày 2/2/1983 cho tới ngày 15/3/1985, sau đó, từ ngày 18/3/1985 tới nay (và cho tới khi tôi về hưu chẳng bao lâu nữa) ở cơ quan Regional Center of Orange County là Trung Tâm Phục Vụ Thành Phần Chậm Phát Triển (Serving the Persons with Developmental Disabilities).

 

Trong thời gian phục vụ kéo dài gần ¼ đời ḿnh, tôi đă được làm Phục Vụ Viên (Service Coordinator) cho một case load (số hồ sơ thân chủ được phục vụ) lên đến cả ngàn người (cộng chung từ đầu tới nay, kể cả những thân chủ đă được chuyển cho người khác hay đóng hồ sơ). “Những thiên thần khù khờ” được Thiên Chúa quan pḥng gửi đến cho tôi ấy thuộc đủ mọi lứa tuổi (nhỏ nhất từ em bé mới sinh đến ông lăo bằng tuổi bố ḿnh), đủ mọi phái tính (nam cũng như nữ), đủ mọi quốc tịch (Việt, Mỹ, Lào, Miên, Tầu, Nhật, Đại Hàn, Ả Rập v.v.), đủ mọi cách sống (living options: ở với bố mẹ, ở với anh chị, ở một ḿnh – independent living, ở nhà trọ cộng đồng – residential placement / group home, ở riêng được hộ giúp – supported living v.v.), đủ mọi thứ khuyết tật (thể lư – physical handicap, tâm thần – mental health, chậm trí – mental retardation, co bại – cerebral palsy – động kinh - seizure disorder, tự kỷ – autism, đồng diện – Down Syndrome v.v.), đủ mọi tŕnh độ chậm phát triển (rất nặng – profound với IQ là tầm mức của óc thông minh dưới 20% so với người b́nh thường là 100%, nặng – severe IQ từ 20-35%, vừa – moderate IQ từ 35-53%, nhẹ – mild IQ từ 53-67%, hơi hơi – borderline 67-70%), đủ mọi thứ học hỏi và huấn luyện (giáo dục đặc biệt - special education, chương tŕnh học tập vui chơi tại chỗ - site based day program, chương tŕnh học tập quanh cộng đồng - community based day program, chương tŕnh tập việc tại chỗ - workshop, chương tŕnh hỗ trợ làm việc - supported employment v.v.).

 

Trước hết, về h́nh dạng của “những thiên thần khù khờ” tôi được gần gũi này, có thể được chia làm 3 loại khác hẳn nhau, căn cứ vào việc nhận diện bề ngoài. Loại thứ nhất nh́n là thấy ngay được cái “khù khờ” nơi họ, chẳng hạn như những người bị Hội Chứng Down Syndrome, bề ngoài có khuôn mặt mà tôi tạm diễn tả là “đồng diện”, tức là mặt người nào cũng giống người nào, dù là nam hay nữ, dù là già hay trẻ, dù là trắng hay đen v.v., v́ họ có một nét mặt không giống ai mà lại rất giống nhau. Loại thứ hai nh́n th́ cứ tưởng là một người b́nh thường, nhiều khi trông c̣n dễ coi bắt mắt nữa, đó là “những thiên thần khù khờ” loại autistic, những em được một số người Việt gọi là “tự kỷ”, v́ họ căn cứ vào bản chất chính yếu của các em này tự nhiên vốn thích sống một ḿnh (withdraw). Khi giao tiếp với các em mới thấy được quả thực các em thuộc những người bị chậm phát triển. Ngoài bản chất vốn sống lủi thủi một ḿnh (có em mạnh có em nhẹ), các em c̣n bị trục trặc về phát ngôn và nói năng nữa, chưa kể đến những hành vi cử chỉ khác rất kỳ quặc (như thức giấc ban đêm phá phách, thích cắt giây giầy v.v.), thậm chí gây ra những điều rất nguy hiểm nữa là đằng khác. Vào nhà của một số các em này, chúng ta sẽ thấy các nơi đều được khóa kỹ, nhất là cửa chính. Loại thứ ba nh́n th́ cứ tưởng là bị tật nguyền cả về thể lư lẫn tâm trí, nhưng nhiều người lại tỉnh táo khôn ngoan. Đó là những em bị cerebral palsy (mà căn cứ vào bề ngoài tôi tạm gọi là bị co bại), với bộ mặt lúc nào cũng như nghêng nghênh, chân tay co quắp gần như bị bại, đi đứng như muốn vấp té nếu không ngồi trên xe lăn, phát âm khó khăn ngọng nghịu. Ấy thế mà “những thiên thần khù khờ” loại cerebral palsy này, trong văn pḥng của tôi, đă có hai người làm supervisor chứ không ít, và một trong những thân chủ của tôi cũng đă ra cử nhân tâm lư chứ không phải chuyện thường. Tuy nhiên, trường hợp bị chậm phát triển nặng nhất (profound) thường là những người bị co bại cộng với động kinh ngồi trong xe lăn. Và trường hợp khó xử nhất là trường hợp (dual diagnosis) vừa bị tâm trí (mental retardation) vừa bị tâm bệnh (mental health).

 

V́ “những thiên thần khù khờ” này được các chuyên viên tâm lư thẩm định là thuộc vào loại chậm phát triển (developmental disabled) mà họ được chính phủ hết sức nâng đỡ trong việc giúp cho họ phát triển bao nhiêu có thể và sống như một người b́nh thường bao nhiêu có thể. Trước ba tuổi, họ được hưởng dịch vụ ngăn ngừa chậm phát triển, liên quan tới những phương diện chậm phát triển của họ, như về khả năng phát ngôn (speech), hay về khả năng vận động (motor skills), một là liên quan tới vấn đề vận động nhỏ (fine motor) như cầm nắm, nhai bú v.v., nhờ phương pháp trị liệu được gọi là occupational therapy, hay tới vấn đề vận động lớn (gross motor) như đi lại, chạy nhẩy v.v., nhờ phương pháp trị liệu được gọi là physical therapy. Nếu sau 3 tuổi họ vẫn chưa đạt được mức độ phát triển như một em bé 3 tuổi b́nh thường, th́ em được gửi tới học khu để bắt đầu chương tŕnh giáo dục đặc biệt – special education, một chương tŕnh giáo dục hiện được chia làm hai cấp, một cấp cho những em bị chậm nhẹ (mild hay moderate, với IQ từ 35% trở lên), thường là những lớp học đặc biệt (special class) ở ngay trong trường học b́nh thường (regular school), và một cấp cho những em bị chậm nặng (profound hay severe, với IQ từ 35% trở xuống), thường ở trong một trường đặc biệt (special school). Cho tới năm 22 tuổi, theo luật giáo dục ở California, các em mới ra trường, tức là các em được học sớm hơn 3 năm và muộn hơn 3 năm, v́ các em bị chậm phát triển. Dù ở cấp giáo dục đặc biệt nào đi nữa, theo luật, tới năm 16 tuổi, các em phải được giáo dục huấn nghệ để sau khi ra trường có thể tự sống và tự lập bao nhiêu có thể. Cũng thế, tùy theo tŕnh độ khả năng của ḿnh (functioning skills), các em được gửi tới những chương tŕnh người lớn (day program) khác nhau, các em profound hay severe thường ở các site based day program, các em moderate thường ở các community based day program, các em mild thường ở trong các chương tŕnh thuộc cơ quan phục hồi (department of rehabilitation), như ở trong các workshops, và nếu có sản lượng làm việc cao, được gửi ra ngoài làm việc kiểu supported employment gần như một người b́nh thường.

 

Đó là vấn đề liên quan tới tiến tŕnh phát triển về tâm trí và khả năng sinh hoạt cũng như khả năng tập nghề của “những thiên thần khù khờ”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù họ có chậm phát triển tới đâu chăng nữa, họ vẫn hầu như không bị chậm về vấn  đề phát triển sinh lư. Tức nữ giới, khi tới tuổi dậy th́, vẫn có thể có con như thường, một khi bị hiếp. Đó là lư do, mỗi khi thăm một thân chủ nào ở nhà trọ – group home, khi kiểm xét về các thứ thuốc uống của họ, nếu là nữ khi c̣n kinh nguyệt, thường là có thứ thuốc ngừa thai được họ sử dụng hằng ngày. Bởi vậy, chẳng lạ ǵ, theo chiều hướng duy thực dụng, bản công ước bị Ṭa Thánh (như đề cập tới ở đầu bài viết này) bài bác về một số điểm liên quan tới sức khỏe sản sinh đă tỏ ra mâu thuẫn trong vấn đề vừa bênh vực quyền lợi vừa phạm đến quyền lợi của thành phần khuyết tật. Trong số các thân chủ của tôi, có một em gái rất xinh xắn và lành mạnh được sống sót nhờ đức tin công giáo của cha mẹ em. Ở chỗ, mẹ của em được một bác sĩ Công Giáo (tại Orange County) cứ khuyên là phá thai đi, v́ anh của em đă bị chậm phát triển rồi, nhưng cả hai vợ chồng cương quyết nói với vị bác sĩ này rằng “là người Công Giáo, chúng tôi không phá thai. Cháu có thế nào chúng tôi cũng nuôi cháu”. Các em nam cũng phát triển sinh lư, cũng có những hành động tính dục, có lúc công khai có lúc kín đáo tùy theo phán đoán của các em. Có ông bố thành thật cho tôi biết rằng “nó chẳng xấu hổ ǵ hết, sáng từ nhà ra xe bus đón đi làm mà cứ cứng đơ ra vậy thôi!” Tuy nhiên, tội nghiệp nhất cho những bà mẹ phải chăm sóc cho con gái lớn ngồi trong xe lăn, vừa bị co bại vừa bị động kinh, trong thời gian nó có kinh nguyệt, hằng ngày phải lo tắm rửa cho con ḿnh.

 

Về vấn đề chăm sóc cho con cái nói chung và cho “những thiên thần khù khờ” nói riêng, phải công nhận là Việt Nam ta, nhờ văn hóa c̣n nặng nhân bản hơn cá nhân chủ nghĩa và hưởng thụ chủ nghĩa như ở xă hội văn minh Tây phương, mà hầu như rất hiếm người bỏ con vào nhà trọ. Có thể con cái bỏ bố mẹ vào dưỡng lăo, nhưng bố mẹ không bỏ con vào nhà nuôi, trừ trường hợp hết sức bất đắc dĩ. Điển h́nh là trường hợp của gia đ́nh thi sĩ lăo thành Đan Quế và Hương Khuê ở thành phố Orange cách đây 15 năm. Theo phận sự, tôi phải tŕnh bày cho ông bà biết là cơ quan chúng tôi có cung cấp cả dịch vụ residential placement, nếu ông bà cảm thấy không coi sóc được người con gái gần 40 tuổi bị chậm phát triển của ông bà. Thoạt tiên ông bà hết sức chống lại dịch vụ ấy, nhất định có thế nào cũng giữ đứa con gái đáng thương của ḿnh. Cùng lắm chỉ xin trung tâm chúng tôi cung cấp cho dịch vụ respite, tức dịch vụ tạm coi sóc thế mà thôi, để ông bà có giờ nghỉ ngơi hay có giờ sinh hoạt văn nghệ thường xuyên tại nhà với anh chị em nghệ sĩ, hoặc có giờ đi đâu chơi. Cuối cùng, ông bà đă phải yêu cầu đưa con đi, v́ người con này đă có những hành vi cử chỉ unacceptable, như thoát y khi có khách khứa. Sau khi người con này được mang đi sống ở chỗ khác, hằng tuần ông bà đă đi xe bus đến thăm con.

 

Tôi rất cảm động khi thấy trong case load của tôi có những trường hợp anh chị em trong nhà săn sóc lẫn nhau, như có 2 trường hợp chị săn sóc em trai, 1 trường hợp chị săn sóc em gái và 1 trường hợp anh săn sóc em trai. Trường hợp nào cũng khó khăn vất vả. Có trường hợp chẳng những phải nấu nướng các món ăn đặc biệt cho họ ăn, mà c̣n mất giờ coi sóc không đi đâu được hết. Có trường hợp c̣n phải săn sóc cho đứa em bị bệnh nan trị và nguy tử của ḿnh suốt mấy năm trời cuối đời của họ vô cùng cực nhọc. Có trường hợp hy sinh cho em ḿnh đến ở vậy không lập gia đ́nh mà vẫn bị đứa em có một tŕnh độ phát triển thuộc loại high functioning luôn tỏ ra chẳng những không biết ơn c̣n bắt nạt nữa.

 

Mỗi lần đến thăm gia đ́nh nào, hay thân chủ nào, tôi đều cảm thấy thông cảm chẳng những với thành phần chăm sóc cho “những thiên thần khù khờ” mà c̣n hết sức tội nghiệp cho “những thiên thần khù khờ” này của tôi nữa. Đối với chính bản thân “những thiên thần khù khờ” th́ tôi có nói ǵ họ cũng đâu có hiểu. Bởi thế, tôi chỉ biết ngồi bên họ hay qú bên họ để sống những giây phút như họ, cũng cố gắng “khù khờ” như họ để có thể lắng nghe họ, nói chuyện với họ, thông cảm với họ và phục vụ họ. Ngoài ra, tôi cố gắng dùng lời lẽ thích hợp nhất để an ủi thành phần chăm sóc họ, nhất là mau mắn sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu của họ cũng như của gia đ́nh họ Tôi thường nói với thành phần phục vụ làm cha làm mẹ này rằng “có ǵ cần xin cứ gọi cho tôi, đừng ngại làm tôi mất giờ. V́ tôi làm việc là để phục vụ chứ không phải ngồi đó ăn lương”.

 

Có những lúc, chẳng cần họ phải hỏi han xin xỏ, tôi đă tự động cho thành phần chăm sóc này biết “những thiên thần khù khờ” của tôi có thể hưởng được thêm những dịch vụ nào của chính phủ và cố gắng giúp họ trong tầm tay của ḿnh. Tôi luôn áp dụng nguyên tắc “suy bụng ta ra bụng người”, ở chỗ, cố gắng đáp ứng những nhu cầu hay yêu cầu của họ nhanh bao nhiêu có thể và được bao nhiêu có thể, như chính nhu cầu của tôi và yêu cầu của tôi. V́ khi tôi cần ǵ và muốn ǵ th́ tôi mong được như ư càng sớm càng tốt và càng nhiều càng hay. Chính v́ thế, tôi thực sự cảm thấy an ủi mỗi lần tôi giúp được một cái ǵ đó hay một chút ǵ đó cho thân chủ của tôi hay cho gia đ́nh của họ, và niềm vui của họ chính là niềm vui của tôi. Chính v́ thế, mỗi lần có người biếu xén tôi theo kiểu văn hóa Việt Nam, tôi bao giờ cũng nói với họ rằng, tôi đi làm ăn lương rồi, xin miễn  cho tôi những thứ phiền hà tới họ ấy. Ḷng quí mến của họ đối với tôi là đủ lắm rồi. Niềm vui của tôi là được chia sẻ phục vụ. Nếu vị tế nhị, chẳng đặng đừng, tôi đành phải ra điều kiện như thế này: tôi chỉ nhận quà của quí vị với điều kiện, đó là món quà này là món quà đầu tiên và cũng là món quà sau hết.

 

Tuy nhiên, không ai trong họ có thể hiểu được rằng, món quà quí nhất tôi nhận được từ “những thiên thần khù khờ” này đó là việc tôi cảm nhận hết sức chân thật rằng tôi có phúc hơn họ về mặt tự nhiên, nên về mặt siêu nhiên, tôi phải sống xứng đáng với những ǵ tôi được may mắn hơn họ ấy, bằng cách thực tế nhất đó là cố gắng bù đắp cho họ những ǵ tôi có mà họ thiếu, không phải chỉ ở chỗ cảm thông trong ḷng mà c̣n hết ḿnh phục vụ họ nữa.

 

Đối với những gia đ́nh đồng đạo cùng một niềm tin với ḿnh, tôi thường nói với họ câu này: “Nước Trời thuộc về những người như con của anh chị / ông bà đây. Ở trên đời này cháu bọ thua thiệt đấy, nhưng nếu được lợi lăi mà mất linh hồn nào được ích ǵ th́ Chúa đă chọn cho cháu phần tốt hơn rồi vậy!”

 

Đối với những gia đ́nh đồng hương không cùng tín ngưỡng với ḿnh, tôi cũng chia sẻ cảm nhận của ḿnh như sau: “Tôi rất cảm phục anh chị / ông bà. V́ anh chị / ông bà thương cháu không hẳn chỉ v́ cháu là con cái của anh chị / ông bà. Theo tự nhiên, ḿnh đâu muốn có những đứa con như thế. Việt Nam ta c̣n muốn con cái học giỏi và công thành danh toại nữa kià. Đằng này, cho dù biết là có hy sinh trọn đời cho cháu, cháu cũng chẳng biết anh chị / ông bà là cha mẹ của cháu và có thể trả ơn anh chị / ông bà, anh chị / ông bà vẫn hy sinh cho một con người cao quí là con anh chị / ông bà đây! Đó mới là t́nh yêu vị tha, t́nh yêu cao quí và tuyệt vời trong một xă hội chỉ biết hưởng thụ ngày nay. Ông Trời đă bù trừ cho khuyết tật bất hạnh của cháu bằng cách ban cho cháu có những người cha mẹ đầy yêu thương như anh chị / ông bà đây. Nếu hạnh phúc là viên măn yêu thương, và ơn gọi làm người là sống cho người khác th́ anh chị / ông bà đă thực sự tuôn tràn hạnh phúc của ḿnh ra cho một con người đáng thương như người con của anh chị / ông bà đây vậy”.

 

Thứ Năm 8/1/2004, văn pḥng báo chí của Ṭa Thánh phổ biến sứ điệp của ĐTC GPII gửi tham dự viên cuộc hội luận quốc tế về chủ đề “Phẩm giá và quyền lợi của thành phần khuyết tật tâm thần”, do Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin tổ chức ở Vatican trong 3 ngày 7-9/1/2004, nhân dịp kết thúc Năm Thành Phần Khuyết Tật Ở Âu Châu. Sau đây là những điểm tiêu biểu trực tiếp liên quan tới “những thiên thần khù khờ”:

 

“Thành phần khuyết tật, cho dù họ có bị giới hạn về tâm thần, hay bị khuyết tật về cảm xúc và trí tuệ, vẫn hoàn toàn là những chủ thể có những quyền lợi linh thánh và bất khả nhượng giống như tất cả mọi người.

 

“Chỉ khi nào những quyền lợi của các phần tử yếu kém nhất trong xă hội được nh́n nhận xă hội mới có thể nói rằng nó được xây dựng trên nền tạng luật lệ và công bằng.

 

“Một xă hội chỉ giành chỗ cho những phần tử sinh hoạt hoàn toàn b́nh thường, thành phần hoàn toàn tự động và độc lập, không phải là một xă hội xứng với con người. Việc kỳ thị căn cứ vào tính cách hiệu năng th́ cũng không kém việc kỳ thị căn cứ vào ṇi giống, phái tính hay tôn giáo.

 

“Cần phải cố gắng để cổ vơ sự thiện nguyên vẹn của những con người này, không được khước việc giúp đỡ và bảo vệ họ cho dù v́ thế có gây thêm gánh nặng về xă hội và kinh tế. Có lẽ thành phần bị chậm trí khôn nay cần được chú trọng, cảm mến, thông cảm và yêu thương hơn các bệnh nhân, ở chỗ, chúng ta không thể để mặc kệ họ, không được trang bị và không thể tự vệ, xoay sở trong cuộc sống gay go.

 

“Cũng cần phải chú ư tới việc chăm sóc cho thành phần khuyết tật về những khía cạnh cảm t́nh và tính dục của họ nữa.

 

“Họ cũng có nhu cầu yêu thương và cần được yêu thương, họ cần được săn đón, gần gũi và thân t́nh. Tiếc thay, thành phần khuyết tật phải sống những nhu cầu hợp lư và tự nhiên này trong một hoàn cảnh bất thuận lợi, một hoàn cảnh càng trở nên rơ hơn theo gịng thời gian họ sống từ thuở nhỏ đến trưởng thành.

 

“Họ t́m kiếm những mối liên hệ đích thực làm cho họ được cảm nhận và nh́n nhận như là một con người.

 

“Thật sự thành phần khuyết tật, qua tính cách hết sức mềm yếu của thân phận con người, là một hiện thân của cái thảm kịch sầu thương trong thế giới của chúng ta đây, một thế giới quá háo hức hưởng lạc và bị thu hút bởi vẻ đẹp hào nhoáng giả tạo, nên những khốn khó của họ thường được coi như là một thứ sự dữ và là một thứ chấn động, những trục trặc của họ được coi như là một gánh nặng cần phải loại trừ hay giải quyết càng sớm càng tốt.

 

“Thành phần khuyết tật này có thể dạy cho hết mọi người biết những ǵ là yêu thương và cách trở thành những người phát động một thế giới mới, một thế giới không phải bị thống trị bởi quyền lực, bởi bạo động và bởi những ǵ là hung tàn nữa, mà là bởi yêu thương, bởi t́nh đoàn kết, bởi việc chấp nhận nhau, một thế giới mới được biến đổi bởi ánh sáng của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, Đấng tử giá và phục sinh”.

 

 

LỀ LUẬT ĐƯỢC BAN QUA MOISEN

ÂN SỦNG VÀ CHÂN LƯ QUA CHÚA GIÊSU KITÔ

 

(Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả: Bài giảng 51:3-4: PL 54:310-311, 313)

 

 

Chúa mạc khải vinh quang của Người ra trước sự hiện diện của những chứng nhân được tuyển chọn. Thân xác của Người giống như thân xác của toàn thể loài người, thế nhưng, Người đă làm cho thân xác đó tỏ rạng với một ánh sáng ngời khi dung nhan Người trở nên như mặt trời  vinh hiển, và y phục của Người trở nên trắng như tuyết.

 

Lư do chính cho việc biến h́nh này là để ḷng trí các môn đệ của Người khỏi bị ám ảnh bởi bóng dáng rùng rợn của thập giá, cũng như để việc nhục nhă Người tự nguyện chấp nhận chịu đựng khỏi gây lũng đoạn cho đức tin của những kẻ đă chứng kiến thấy vinh hiển siêu việt c̣n được ẩn dấu của Người.

 

Theo dự định Người c̣n muốn làm cho Giáo Hội có một nền tảng hy vọng vững chắc nữa. Toàn thể thân ḿnh của Chúa Kitô phải được hiểu là một loại biến h́nh do tặng ân Người ban cho mà có. Các chi thể của thân ḿnh này phải hướng về việc tham phần vào một thứ vinh quang đă được bừng sáng trước hết nơi đầu của ḿnh là Chúa Kitô.

 

Chính Chúa đă nói đến điều này khi Người báo trước việc Người đến trong vinh quang: Bấy giờ người công chính sẽ chiếu sáng như mặt trời trong vương quốc của Cha họ. Thánh Phaolô tông đồ cũng minh chứng cho sự thật này khi nói: Tôi coi những đau khổ trên đời này không là ǵ so với vinh quang sau này được tỏ ra nơi chúng ta. Ở chỗ khác thánh nhân nói: Anh em đă chết và sự sống của anh em được dấu ẩn với Chúa Kitô trong Thiên Chúa. Khi Chúa Kitô sự sống của anh em tỏ hiện, bấy giờ anh em cũng sẽ được tỏ hiện với Người trong vinh quang.

 

Việc biến h́nh huyền diệu này c̣n chứa đựng một bài học nữa cho các tông đồ, để kiên cường các vị và dẫn các vị vào tất cả sự thật. Moisen và Êlia, lề luật và tiên tri, đă xuất hiện đàm đạo với Chúa. Điều này xẩy ra để nên trọn một cách chính xác, bằng sự hiện diện của năm con người này, lời chép: Mọi lời nói được kiểm nhận trước hai hay ba nhân chứng. C̣n lời nào được thiết định vững chắc hơn, được đặt định an toàn hơn lời được tuyên bố bởi tiếng kèn đồng của cả hai giao ước cũ mới, vang lên ḥa hợp với nhau, cũng như bằng những sứ ngôn của tiên tri xưa và giáo huấn của Phúc Âm, hoàn toàn ăn khớp với nhau?

 

Các bản văn của hai giao ước hỗ trợ lẫn nhau. Ánh quang của cuộc biến h́nh mạc khải một cách rơ ràng và chắc chắn Đấng được hứa ban bằng những dấu lạ tiên báo về Người dưới những tấm màn mầu nhiệm. Thánh Gioan nói: Lề luật được ban qua Moisen, ân sủng và chân lư qua Chúa Giêsu Kitô. Nơi Người, lời hứa được ban bố qua những lời tiên tri mập mờ đă được tỏ hiện cùng với ư nghĩa trọn vẹn nơi các chỉ thị của lề luật. Người là Đấng dạy chân lư của lời tiên tri bằng sự hiện diện của Người, và làm cho việc tuân giữ các giới răn có thể nhờ ân sủng thực hiện được.

 

Trong việc rao giảng Phúc Âm thánh hảo, tất cả phải được kiên cường đức tin của ḿnh. Không ai được xấu hổ về thập giá của Chúa Kitô, một thập giá mà nhờ đó thế giới đă được cứu độ.

 

Không ai được sợ hăi đau khổ v́ lẽ công chính; không ai được mất ḷng tin tưởng cậy trông vào phần thưởng đă được hứa ban. Con đường dẫn đến chỗ nghỉ ngơi là qua sự chuyên cần vất vả, con đường dẫn đến sự sống là qua sự chết. Chúa Kitô đă mặc lấy cho ḿnh tất cả nỗi yếu hèn của bản tính nhân loại hạ lưu của chúng ta. Nếu nhờ thế chúng ta vững vàng tin tưởng vào Người và yêu mến Người, th́ chúng ta đạt được vinh thắng Người đă chiếm lấy, chúng ta lănh nhận những ǵ Người đă hứa ban.

 

Khi phải tuân giữ các giới răn hay chịu đựng chống kháng, th́ những lời Chúa Cha phán ra lúc nào cũng phải vang vọng vào tai của chúng ta: Này là Con Ta yêu dấu, Ta thật hài ḷng về Người; hăy lắng nghe Người.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 374-376)