20.- Đau Khổ

 

 

Ư Nghĩa của Đau Khổ: Cảm Nhận Chủ Quan 

 

K

hông một con người nào được sinh vào trần gian này thoát được khổ đau. Có thể nói chính v́ đau khổ là thân phận của con người mà vừa mở mắt chào đời là con người đă bật tiếng khóc, tiếng khóc chào đời. Đến nỗi, ai không bật tiếng khóc đầu tiên này được coi là bất thường hay phi thường.

 

Cách đây 15 năm, tôi biết có một bé trai Việt Nam, con của một người bạn chí thân của tôi ở tiểu bang Wisconsin, đă không hề khóc, chẳng những từ khi lọt ḷng mẹ mà c̣n cho tới nay nữa. Cha mẹ em cho biết họ không bao giờ thấy em khóc hay nghe em khóc. Tôi đă gặp em bốn năm lần, lần cuối cùng vào tháng 8/2002 tại Missouri, em đă trở thành một thiếu niên, hoàn toàn b́nh thường và rất dễ thương về cả tâm hồn lẫn thể xác. Hầu như em không biết buồn. Em cũng có ư riêng, cũng đ̣i cha mẹ điều này điều kia. Nhưng em không hề bất măn khi không được thỏa nguyện. Không biết tương lai của em như thế nào. Hiện tại em đúng là một con người thật hiếm có trên đời.

Tôi c̣n thân với một người bạn nữa, lớn hơn tôi mấy tuổi, người nhỏ con, ăn ít, ngủ ít, song làm nhiều, mà hầu như thân xác của anh chẳng có bệnh tật ǵ bao giờ. Theo anh cho biết, từ năm 1956 đến năm 1982, năm chúng tôi xa nhau, anh chỉ uống một viên Aspirin duy nhất, bất chấp cảm cúm hằng năm hoành hành cộng đoàn cả trăm người anh chung sống. Đặc biệt nhất là, trong thời gian sống sát bên con người này từ năm 1964 tới 1982, tôi không hề thấy anh tỏ ra bất măn với ai bao giờ, dù có bị những người nhỏ tuổi chọc ghẹo hay bị bất cứ ai xúc phạm cách nào. Không biết anh bạn có tâm tính dễ thương được mọi người quí mến đây có giống em bé chào đời và sống trên đời chẳng bao giờ khóc trên đây hay chăng, tôi chưa kịp hỏi. Dầu sao đó cũng là những trường hợp thuộc luật trừ.

 

Thế nhưng, vấn đề ở đây là những con người thuộc loại luật trừ này, dù không bao giờ khóc, hay bị bệnh hoạn, hoặc tỏ ra khó chịu bất măn, có bao giờ họ cảm thấy đau khổ một cách nào đó chăng? Chắc chắn là có. Chẳng hạn họ cảm thấy đói khát khi thiếu của ăn nước uống, dù không mở miệng kêu ca, cảm thấy nóng lạnh theo mùa thời tiết hay trong lúc thất thường khí hậu, dù không lên tiếng kêu than, nhất là cuối cùng họ sẽ đi đến cái đau khổ cuối cùng của cuộc đời con người đó là cái chết, dù họ không sợ chết. Bởi thế, vấn đề đau khổ ở đây trước hết liên quan tới vấn đề cảm nhận chủ quan hơn khách quan.

 

Thật vậy, về khách quan, đau  khổ có thể bao gồm tất cả những ǵ phản lại với bản tính tự nhiên của con người, tức phản lại với thể xác, nhất là tâm hồn của con người, phản lại nội tâm của con người, phản lại với ư nghĩ, ư thích và ư muốn của con người, những phản khắc khiến con người cảm thấy hết sức khó chịu. Đến nỗi, nhiều khi họ tỏ ra những phản ứng kinh hoàng khiếp đảm, đi tới chỗ “cả giận mất khôn”, “mắt đền mắt răng đền răng”, như t́nh h́nh khủng bố tấn công và tấn công khủng bố vào đầu thiên niên kỷ thứ ba hiện nay trên thế giới, nhất là tại Trung Đông, giữa khối Palestine và Do Thái hiện nay. V́ đau khổ liên quan đến cảm nhận chủ quan của con người như thế mà nếu con người nào không hề cảm thấy đau khổ một tí nào trong cuộc đời, gây ra bởi những ǵ phản lại với bản tính tự nhiên của ḿnh như thế, họ chỉ có thể là một xác chết vô hồn.

 

Cho dù thành phần chậm phát triển nặng, profound mental retarded, cũng không thoát được cảm nghiệm khổ đau này. Một con người bị stroke nặng, hoàn toàn bất động như chết về thân xác, kể cả miệng lưỡi, nhưng trước khi ĺa đời, thân nhân của họ vẫn thấy họ âm thầm thốt lên lời vĩnh biệt được bộc thoát, qua những giọt lệ khổ đau trào ra từ khóe mắt hấp hối của họ. Thành phần nhân gian gọi là “thánh  nhân dị chúng nhân” cũng thế, dù siêu việt và siêu thoát mấy đi nữa, cũng cảm thấy khổ đau. Chỉ khác chúng nhân ở chỗ họ không bị khổ đau quật ngă mà thôi. Trái lại, họ c̣n có thể nhờ khổ đau để vươn lên, để luyện thân cho khôn ngoan và cứng cát hơn, nhờ đó họ có đủ khả năng thông cảm với đời và phục vụ đời hơn. Về lănh vực t́nh yêu nói chung và t́nh yêu phái tính nói riêng, càng khổ v́ người yêu mà chủ thể yêu vẫn cứ yêu, không phải là dấu chứng tỏ cho thấy nhờ đau khổ t́nh yêu của chủ thể yêu đă thực sự trở nên chân chính và trọn hảo hay sao? Nhân gian Việt Nam đă chẳng cảm nghiệm được ư nghĩa sâu xa và tác dụng tích cực của khổ đau khi nói “thời thế tạo anh hùng”, “cái khó bó cái khôn”, “thất bại là mẹ thành công” v.v. là ǵ?

 

 

Giá Trị của Đau Khổ: Tác Dụng Nhân Bản

 

Vấn đề thứ hai được đặt ra ở đây là, nếu đau khổ có một giá trị nhân bản hóa con người như thế, ở chỗ nó có thể giúp cho con người đốt giai đoạn một cách short cut, để chẳng những thành nhân, như trường hợp những đứa con mồ côi bao giờ cũng khôn lanh hơn những đứa con có cha có mẹ, mà c̣n thành “thánh nhân dị chúng nhân” như thế, th́ tại sao, thực tế cho thấy, con người lại sợ hăi đau khổ, lại hết sức t́m cách thoát khổ, trái lại, tại sao con người không hiên ngang và hăng hái đi t́m đau khổ như đi t́m một kho tàng quí nhất trên đời?

 

Thực ra, về phương diện thể xác cũng như tâm linh, con người đă từng t́m kiếm đau khổ, thậm chí họ không có đau khổ không được, đến nỗi có người sống với đau khổ như người t́nh trăm năm của ḿnh. Không phải hay sao, nếu đau khổ là tất cả những ǵ phản lại bản tính tự nhiên của con người, th́ chua cay tự bản chất vốn là một những chất vị không hợp với khẩu vị và tâm lư tự nhiên thịnh ngọt của con người. Ấy thế mà nhiều người lại thích chua cay, nhất là phái nữ, thèm chanh nghiện ớt, đến nỗi, không có ớt bữa cơm mất ngon, t́m trái cây nào chua chua ăn mới thú vị. Về phương diện tâm linh cũng thế, nếu đau khổ là tất cả những ǵ làm cho con người tự nhiên cảm thấy khó chịu, th́ tại sao có những con người đă tự động trở thành ẩn sĩ, tu sĩ, chẳng những sống đời ăn uống khem khổ, trái với bản năng thích ăn uống cao lương mỹ vị của ḿnh, mà c̣n sống đời độc thân, trái với bản năng phái tính vốn bị chi phối mănh liệt bởi nhu cầu sinh lư dục t́nh của ḿnh. Điển h́nh nhất là Đức Thích Ca Mâu Ni, vị đă từ bỏ mọi sướng vui trên đời, giầu sang phú quí và vợ con, đang được hưởng bấy giờ để sống đời khổ hạnh. Đấy là chưa kể đến thành phần tử tự, đă t́m kiếm cái chết là đệ nhất đau khổ làm cứu cánh của ḿnh, là cứu tinh của ḿnh.

 

Thật ra, các nhà tu hành và thành phần tự tử không lấy đau khổ làm cùng đích mà chỉ là phương tiện để đạt đích của họ mà thôi. Tại sao? Điển h́nh nhất là trường hợp của con người tự tử, thành phần chỉ muốn lạm dụng cái chết để thoát khổ. Đó là lư do, nếu họ không đi đến chỗ cùng cực hay ở trong t́nh trạng cùng khổ, chẳng những họ, mà tất cả mọi con người hạnh phúc trên đời khác sẽ không một ai muốn chết, trừ khi chết v́ chính nghĩa, v́ lư tưởng. C̣n các vị tu hành, sở dĩ họ cương quyết dấn thân vào cuộc đời khổ hạnh là v́ họ muốn sử dụng chiêu “gậy lưng đập lưng ông”, hay lợi dụng phép “của độc giải độc”. Nghĩa là họ muốn dùng khổ hạnh để họ có thể thoát khỏi t́nh trạng chết chóc nội tâm, t́nh trạng tách ĺa phần thượng với phần hạ nơi họ, một t́nh trạng báo trước biến cố hồn thiêng thuộc phần thượng ĺa biệt xác chất thuộc phần hạ trong giờ lâm tử của họ, một t́nh trạng cho thấy phần hạ luôn lấn át và làm chủ phần thượng của con người, một t́nh trạng con người cần phải hạ thấp mới có thể bay cao, mới có thể làm chủ con người ḿnh, nhờ đó họ chẳng những có thể sống đúng với thiên chức siêu việt và phẩm giá cao quí làm người của họ, mà c̣n có thể cứu nhân độ thế nữa.

 

 

Phật Giáo Với Đau Khổ: Diệt Dục Vô Ngă

 

Các đạo giáo, mỗi đạo đều có một chủ trương chuyên nhất khác nhau, một chủ trương làm nên căn tính của đạo ḿnh. Nếu Khổng Giáo thiên về hay nổi bật về vấn đề giáo dục con người và xây dựng xă hội, như đă mới được đề cập đến trong bài về Con Người Thành Nhân và Con Người Vào Đời, th́ Phật Giáo thiên về hay nổi bật về vấn đề Cứu Độ, tức cứu nhân độ thế, một vấn đề liên quan đến bài này và một bài nữa về đề tài Cứu Độ.

 

Thật vậy, có thể nói, Phật Giáo được bắt nguồn từ cảm nghiệm nhân sinh hết sức thực tế “đời là bể khổ”, một thực tại đồng thời cũng là một chân lư không ai có thể chỗi căi. Đó là lư do thực tại “đời là bể khổ” chính là chân lư thứ nhất trong giáo thuyết Tứ Diệu Đế của Phật Giáo, tức giáo thuyết về bốn chân lư huyền diệu, đó là Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Vấn đề Cứu Độ theo Phật Giáo là con đường con người đi từ Khổ Đế, thực tại liên quan tới sinh-bệnh-lăo-tử, đi vào Tập Đế, chân lư liên quan tới căn nguyên của đau khổ là Lục Côn, Lục Trần và Lục Đạo, qua Diệt Đế, chân lư liên quan tới Ngũ Giới và Bát Chính Đạo, sau cùng đến Đạo Đế là chân lư liên quan tới Luân Hồi và Niết Bàn.

 

Khổ Đế hay hiện tượng đau khổ, theo Phật Giáo, trước hết do sáu gốc được gọi là Lục Côn, đó là thị, thính, khứu, vị, xúc và tri, hay mắt, tai, mũi, lưỡi, da thịt và tri thức, một bộ Lục Côn hoàn toàn bị chi phối bởi ngoại cảnh, bởi Lục Trần là sắc, thanh, hương, vị, cảm, pháp, hay nhan sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc và tưởng tượng, những ǵ làm cho con người bị tục lụy nên phải luân hồi trong Lục Đạo là thiên đạo, nhân đạo, qủy đạo, A-Tu-La đạo, súc sinh đạo và địa ngục đạo. Nhưng sở dĩ Lục Côn của con người c̣n bị Lục Trần chi phối là v́ con người c̣n sống trong tục lụy vô minh. Thật vậy, Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Giáo bao gồm 12 nhân quả đó là Lăo-Tử, Sinh, Thủ, Hữu, Ái, Thụ, Xúc, Lục Nhập, Danh Sắc, Thức, Hành và Vô Minh.

 

Theo thuyết Thập Nhị Nhân Duyên này: 1) cái nguyên Nhân của Lăo-Tử là biểu hiệu và cũng chính là thực tại của đau khổ - Duyên do là bởi Sinh, tức nếu không sinh ra sẽ không bị khổ; 2) cái nguyên Nhân của Sinh - Duyên do là bởi Hữu, tức bởi con người muốn thành một cái ǵ đó; 3) cái nguyên Nhân của Hữu - Duyên do là bởi Thủ, tức bởi con người muốn nắm giữ trần gian; 4) cái nguyên Nhân của Thủ - Duyên do là bởi Ái, tức bởi con người ham hố hưởng thụ; 5) cái nguyên Nhân của Ái - Duyên do là bởi Thụ, tức bởi việc con người tiếp nhận cảm giác khoái lạc của ngũ quan; 6) cái nguyên Nhân của Thụ - Duyên do là bởi Xúc, tức bởi việc con người tiếp xúc với sự vật ngoại tại; 7) cái nguyên Nhân của Xúc - Duyên do là bởi Lục Nhập hay Lục Côn nơi con người mà có; 8) cái nguyên Nhân của Lục Nhập – Duyên do là bởi Danh Sắc, tức bởi Lục Trần bên ngoài chi phối con người; 9) cái nguyên Nhân của Danh Sắc – Duyên do là bởi Thức, tức bởi ư thức, tâm thức của con người tỏ ra muốn tiếp thụ ngoại vật; 10) cái nguyên Nhân của Thức – Duyên do là bởi Hành, tức bởi tất cả Nghiệp Báo của quá khứ thúc đẩy con người hành động; 11) cái nguyên Nhân của Hành – Duyên do là bởi Vô Minh, tức bởi con người hành động một cách mù quáng theo bản năng và xu hướng tự nhiên; 12) chính v́ Vô Minh là Duyên do của khổ lụy, của Lăo, Tử nên con người cần phải tiến đến chỗ Giác Ngộ.

 

Đó là lư do, một khi con người đă được Giác Ngộ, được ở vào t́nh trạng giống như Phật Tổ sau thời gian tọa thiền dưới gốc cây Bồ Đề, con người, về tiêu cực sẽ giữ đủ Ngũ Giới, và về tích cực hoàn toàn sống theo Bát Chính Đạo, một đời sống khiến họ, trước mắt chúng sinh, trở thành những bậc thánh nhân hay Bồ Tát, thành Phật sống, chẳng những bản thân họ được siêu độ, được thoát tục, được vào cơi Niết Bàn hiện sinh, mà c̣n có thể cứu nhân độ thế như Phật Tổ nữa, như Phật Tổ sau khi Giác Ngộ vậy. Ngũ Giới của Phật Giáo là không sát sinh, không trộm cắp, không gian dâm, không nói bậy và không rượu thịt. Bát Chính Đạo của Phật Giáo là chính kiến, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính định, chính niệm, chính tư duy và chính tinh tấn. Tóm lại, theo Phật Giáo, nếu căn nguyên khiến con người đau khổ là tham, sân, si, tức tham vọng, giận dữ và ngu muội, những ǵ khiến con người bị đầu thai luân hồi th́ con người chỉ hoàn toàn thoát khổ và được cứu độ khi con người không c̣n luân hồi nữa, không c̣n bị Nghiệp Báo nữa, tức không c̣n Chấp Ngă trong cơi nhân gian Thường Trụ, song trở thành Vô Ngă trong cơi Vô Thường.

 

 

Kitô Giáo Với Đau Khổ: Thập Giá Cứu Độ

 

Theo Thánh Kinh Do Thái Giáo và giáo lư Kitô Giáo, con người được Tạo Hóa dựng nên ngay từ ban đầu là để hưởng phước, được tự do thoải mái, chứ không phải để bị đọa đầy, trừng phạt, khổ đau. Đó là lư do, Sách Sáng Thế Kư, cuốn sách đầu tiên trong bộ Thánh Kinh Do Thái Giáo đă cho thấy, Thiên Chúa Hóa Công sau khi dựng nên con người đă chẳng những đặt họ làm chủ tất cả những ǵ Ngài dựng nên trên thế gian, mà c̣n mang họ vào vườn địa đường để họ được sống một cuộc đời tự do thoải mái trong phạm vi tạo vật của họ nữa (xem 1:28; 2:15-17). Thế nhưng, như Cuốn Sách Thánh Kinh đầu tiên này cho biết, con người đă vượt biên, đă tự động ra khỏi phạm vi tạo vật của ḿnh, tức đă lạm dụng quyền tự do của ḿnh để làm trái ư muốn tối cao của Đấng đă tạo dựng nên ḿnh.

 

Do đó, họ đă làm đảo lộn trật tự bẩm sinh nơi bản thân họ, ở chỗ họ muốn lên bằng Thiên Chúa, muốn tự ḿnh toàn quyền quyết định như Thiên Chúa, một hiện tượng hằng diễn tiến trong suốt gịng lịch sử của con người, nhất là trong thời đại văn minh vật chất và nhân bản của họ hiện nay. Để rồi, với vai tṛ làm chủ trái đất của ḿnh, tác động phản loạn của họ đối với chủ tể của họ cũng làm đảo lộn cả trật tự giữa họ và thiên nhiên tạo vật nữa, tức họ cho ḿnh là chủ tể tối cao của những ǵ đă được trao cho họ, chứ không phải là quản lư của Đấng đă trao cho họ những ǵ Ngài dựng nên v́ họ và cho họ. Hậu quả của hành động được Kitô Giáo gọi là nguyên tội này là ở chỗ, con người phải chịu đau khổ ở đời này, nam th́ vất vả làm ăn sinh sống, nữ th́ phải phục tùng chồng và mang nặng đẻ đau, để rồi cuối cùng sẽ phải chết, phải trở về với bụi đất (xem cùng nguồn 3:16,18-19).

 

Theo Kitô Giáo, tự bản chất, đau khổ là sự dữ do tội lỗi của con người mà có, nhưng nó đă được biến thành sự thiện nhờ Vị Thiên Chúa Làm Người là Đức Giêsu Kitô, Đấng đă tự nguyện chấp nhận vác Thập Giá và chết trên Thập Giá, tiêu biểu cho tội lỗi và sự chết, để cứu chuộc con người khỏi tội lỗi và sự chết, tức để nhân tính đă bị hư đi theo nguyên tội của con người, nhưng lại là một nhân tính đă được Ngài mặc lấy khi làm người, chẳng những được tái sinh, được trở về với t́nh trạng công chính tốt lành nguyên thủy, mà c̣n được sống một sự sống thần linh dồi dào hơn, nhờ đó họ cũng có thể như Ngài chiến thắng sự dữ bằng sự lành.

 

Đó là lư do Thập Giá chính là biểu hiệu cho Kitô Giáo, và những ai muốn theo Ngài mà không chịu vác thập giá không đáng làm môn đệ của Ngài. Đó cũng là lư do như lịch sử cho thấy trên khắp thế giới, thân phận của những ai theo Vị Sáng Lập Kitô Giáo này, ở nhiều nơi và nhiều thời điểm, thậm chí giữa thế giới văn minh nhân bản ngày nay, nhất là nơi thế giới Hồi Giáo và Ấn Giáo, đă và đang bị bách hại và tử đạo. Thực tế cho thấy, trong tất cả các đạo, chỉ có Kitô Giáo là bị bách hại và sát hại nhất, thế nhưng, càng bị khổ đau bởi bách hại và tử đạo khắp nơi trong suốt gịng lịch sử của ḿnh, Kitô Giáo chẳng những không bị tiêu diệt, trái lại, c̣n lan tràn khắp thế giới, một thế giới Kitô Giáo coi như môi trường tông đồ truyền giáo của ḿnh với vai tṛ làm men trong bột, được thể hiện sống động nhất qua đời sống tu tŕ dấn thân phục vụ tha nhân, thăng tiến xă hội, bằng các việc từ thiện bác ái, cứu nhân độ thế, như các dân nước đều tận mắt chứng kiến thấy.

 

Nếu Thập Giá thời đế quốc Rôma là biệu hiệu cho tội lỗi và sự chết, mà Thiên Chúa Làm Người đă giang tay chịu chết trên Thập Giá, th́ Vị Thiên Chúa Vô Cùng Toàn Hảo này đă xuống tận cùng vực thẳm khốn nạn của loài người để t́m kiếm và cứu độ họ, và bởi thế, nhân loại cũng sẽ không thể nào có thể chắc chắn t́m thấy và hiệp thông với Vị Thần Linh Vô Cùng Siêu Việt này ngoài Thập Giá. Đó là lư do không một vị thánh Kitô Giáo nào không bị khổ, và càng được đau khổ thanh luyện càng trở nên đại thánh. Đó c̣n là lư do Thập Giá đối với Kitô Giáo là biểu hiệu cho ân phúc và sự sống. Tóm lại, nếu Thiên Chúa đă dùng Thập Giá để cứu nhân độ thế th́ con người sa đọa và đă được cứu chuộc bởi Thập Giá của Đức Giêsu Kitô cũng chỉ t́m thấy hạnh phúc hiện sinh và đạt được vinh phúc ngàn thu qua đau khổ và nhờ đau khổ mà thôi. Linh đạo của Kitô Giáo chính là ở chỗ vượt qua sự chết mà vào sự sống vậy