4- Mùa Thường
Niên Hậu Giáng Sinh
"Vinh Hiển
của Người Con Duy Nhất đến từ Cha,
đầy ân sủng
và chân lý"
Vì tiếp
liền với Mùa Giáng Sinh, những tuần lễ của
Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh có một liên quan đặc
biệt với mầu nhiệm và biến cố "Lời
đã hóa thành nhục thể ở giữa chúng ta, và chúng ta
đã được thấy vinh hiển của Người".
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa bắt đầu mở
màn cho Mùa Thường Niên, được Giáo Hội
sắp xếp ngay sau Lễ Hiển Linh đã đủ chứng
thực dữ kiện có liên hệ Phụng Vụ giữa
Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh.
Nếu để
ý sẽ thấy, sau Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, Giáo
Hội không đề cập đến sự việc liên
tục theo trình thuật của Phúc Âm Nhất Lãm, đó là
biến cố Chúa Giêsu được Thần Linh đem
vào hoang địa để ăn chay và chịu ma qủi
cám dỗ. Trái lại, Giáo Hội chọn ngay những bài Phúc
Âm nói đến việc Chúa Giêsu được giới
thiệu (Chúa Nhật 2 Thường Niên) và được
sai đi rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
Hơn nữa, nếu so sánh với Mùa Thường Niên
Hậu Phục Sinh thì Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh
là thời gian Giáo Hội tiếp tục tưởng nhớ
việc tỏ mình ra "của Người Con duy nhất
đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý".
Nhận
Thức Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh
Trong Mùa Vọng,
Giáo Hội hướng về mầu nhiệm "Lời đã
hóa thành nhục thể", để dọn lòng cho con cái
của mình long trọng mừng biến cố "Lời ở
giữa chúng ta", bằng việc cử hành Phụng Vụ
Đại Lễ Giáng Sinh. Trong Mùa Giáng Sinh sau Đại
Lễ Giáng Sinh, qua Lời Chúa được công bố
nơi các bài đọc chọn lọc, Giáo Hội tiếp
tục tưởng niệm mầu nhiệm và biến
cố "Lời đã hóa thành nhục thể và ở
giữa chúng ta", mà thực sự "chúng ta đã được
thấy vinh hiển của Người".
Chính vì thế mà
Mùa Phụng Vụ thứ nhất trong 3 mùa của Phụng
Niên mang ý nghĩa "Chúa Kitô: Sự Sống Tỏ
Hiện", và cũng vì thế mà Thánh Lễ trọng
kết thúc Mùa Giáng Sinh là Lễ Hiển Linh, Lễ Chúa
tỏ mình ra và "chúng ta đã được thấy vinh
hiển của Người".
Mở màn cho Mùa
Thường Niên Hậu Giáng Sinh là Lễ Chúa Giêsu Chịu
Phép Rửa, một Thánh Lễ được Giáo Hội
xếp liền ngay sau Lễ Hiển Linh, tức sau Lễ
Chúa Giêsu Tỏ Mình Ra Cho Dân Ngoại.
Bởi thế,
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, theo tinh thần của
mình, một cách nào đó, cũng có tính cách hiển linh.
Ở chỗ, từ sau khi Chịu Phép Rửa, Chúa Giêsu đã
bắt đầu tỏ mình ra, trước hết cho
Gioan, vị Tiền Hô của Người, sau đó, qua môi
giới Gioan, cũng như qua trung gian Mẹ Maria, cho các môn
đệ của Người, rồi cho dân Do Thái. Thế
nhưng, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra như thế nào,
nếu không phải Người tỏ "vinh hiển của
Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy
ân sủng và chân lý".
Việc Chúa Giêsu
bắt đầu và dần dần tỏ mình ra, từ
biến cố Người Chịu Phép Rửa ở sông Dược-Đăng
bởi thánh Gioan Tiền Hô, đã được thể
hiện rõ ràng qua các bài đọc cho những Thánh Lễ Chúa
Nhật trong Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh.
Người Kitô
hữu "chúng ta đã được thấy vinh
hiển của Người", khi sốt sắng tham
dự trọn vẹn thực tại Phụng Vụ của
Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Đại Lễ Giáng Sinh. Giờ
đây, bước vào Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh,
qua việc suy nghiệm các bài đọc được
Giáo Hội chọn lọc riêng cho Mùa Phụng Vụ này,
họ tiếp tục được thấy như sau:
1.
"Vinh hiển của Người Con duy nhất đến
từ Cha" (lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa).
2.
"Vinh hiển của Người Con duy nhất đầy
ân sủng" (Chúa Nhật 2 Mùa Thường Niên Hậu
Giáng Sinh).
3.
"Vinh hiển của Người Con duy nhất đầy
chân lý" (Chúa Nhật 3 Mùa Thường Niên Hậu Giáng
Sinh).
4.
"Vinh hiển của Người Con duy nhất đầy
ân sủng và chân lý" (6 Chúa Nhật còn lại trong Mùa Thường
Niên Hậu Giáng Sinh).
Lễ Chúa
Giêsu Chịu Phép Rửa
Chiêm
Ngắm Lời Chúa là Thần Linh:
"Chúa Giêsu từ
Galilêa đến với Gioan ở sông Dược-Đăng
để chịu phép rửa của ông... Sau khi chịu
phép rửa xong, Chúa Giêsu lên khỏi nước. Bầu trời
bỗng mở ra và Người đã thấy Thần Linh
Thiên Chúa như một chim câu đậu xuống trên Người.
Rồi có tiếng từ các tầng trời vang lên: 'Đây
là Con yêu dấu của Ta. Ta ái mộ Người'"
(năm A)' "Chúa Giêsu từ Nazarét xứ Galilêa đến
chịu phép rửa của Gioan ở sông Dược-Đăng.
Ngay khi vừa lên khỏi nước, Người thấy
bầu trời rẽ ra làm đôi, và Thần Linh như chim
câu đậu xuống trên Người. Đoạn có
tiếng phán từ các tầng trời: 'Con là Con yêu dấu
của Cha. Cha sủng ái Con'" (năm B)' "Sau khi cũng
chịu phép rửa, Chúa Giêsu đang cầu nguyện thì các
bầu trời mở ra và Thánh Thần lấy hình chim câu
xuống trên Người. Có một tiếng phán ra từ trời:
'Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng vì Con'" (năm
C): "Này là tôi tớ của Ta, người mà Ta nâng đỡ,
người được Ta tuyển chọn, Ta hài
lòng về người, Ta đã đặt thần trí Ta
trên Người' Người sẽ mang công chính đến
cho các dân tộc... Ta đã hình thành con và đặt con làm
giao ước của dân, làm ánh sáng cho các dân tộc, để
con mở mắt cho người mù, giải tỏa tình
trạng cầm buộc cho các tù nhân, và đưa ra
khỏi ngục những kẻ sống trong tăm
tối" - "Chúa sẽ chúc phúc cho dân Người
trong cảnh thái bình"' "Anh em biết điều đã
được lan truyền khắp cả xứ Giuđêa
về Giêsu Nazarét, Người bắt đầu từ
Galilêa chịu phép rửa mà Gioan rao giảng' và về cách thức
Thiên Chúa lấy Thánh Linh và quyền năng mà xức dầu
cho Người. Người đi khắp nơi thực
hiện những việc lành và chữa trị cho tất
cả những ai bị ma qủi cầm buộc, và Thiên Chúa
ở với Người".
Cảm
Nghiệm Lời Chúa là Sự Sống:
"Vinh hiển
của Người Con duy nhất đến từ
Cha". Đây là chủ đề thích hợp cho riêng
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một lễ mở màn
cho Mùa Phụng Vụ Hậu Giáng Sinh. Bởi vì, bộ ba Phúc
Âm Nhất Lãm đều thuật lại sự kiện
về "vinh hiển của Người Con duy nhất đến
từ Cha" này, tức "về Giêsu Nazarét, Người
bắt đầu từ Galilêa chịu phép rửa mà Gioan
rao giảng' và về cách thức Thiên Chúa lấy Thánh Linh và
quyền năng mà xức dầu cho Người" (bài đọc
2).
Theo Phúc Âm thánh
Mathêu, "Chúa Giêsu từ Galilêa đến với Gioan ở
sông Dược-Đăng để chịu phép rửa của
ông", và "sau khi chịu phép rửa xong" thì Người
được "Thiên Chúa lấy Thánh Linh và quyền
năng mà xức dầu cho Người" (bài đọc
2). Ở chỗ, "Thần Linh Thiên Chúa như một chim
câu đậu xuống trên Người". Thêm vào đó,
Thiên Chúa còn chính thức giới thiệu "Người
Con duy nhất" của mình này với loài người, mà
đại diện bấy giờ là Gioan, con người
tiêu biểu nhất của loài người (xem Luca 7:28),
bằng "tiếng từ các tầng trời vang lên: 'Đây
là Con yêu dấu của Ta. Ta ái mộ Người'".
Nếu trong Phúc Âm
thánh Mathêu, "Người Con duy nhất" này của
Thiên Chúa đã được Ngài giới thiệu với loài
người, thì trong Phúc Âm của hai thánh Matcô và Luca, "Người
Con duy nhất" này lại được chính Thiên Chúa
trực tiếp tỏ lòng thương mến đặc
biệt, bằng lời thú nhận: "Con là Con yêu dấu
của Cha. Cha hài lòng vì Con (hay) Cha sủng ái Con".
Ở đây,
mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được mạc
khải cho loài người biết qua trình thuật của
Phúc Âm Nhất Lãm, trong trường hợp Đức Kitô
lãnh nhận Phép Rửa ở sông Dược-Đăng.
Thiên Chúa Ngôi Cha được biểu hiệu qua
"tiếng phán từ các tầng trời" (Phúc Âm
cả 3 năm), Thiên Chúa Ngôi Con được sống động
nơi hình ảnh của con người Đức Kitô, và
Thiên Chúa Ngôi Ba là "Thần Linh" (Phúc Âm năm A và B) hay
"Thánh Linh" (Phúc Âm năm C) được biểu
hiệu qua "hình chim câu đậu xuống trên Người"
(Phúc Âm năm C).
Thật ra, theo
thần tính của mình, là "Lời ở nơi Thiên Chúa"
(Phúc Âm lễ Ban Ngày Giáng Sinh) đã được Thiên Chúa
"phán từ các tầng trời" khi "Ngài nói với
(con người) chúng ta qua Con của Ngài" (bài đọc
2 Lễ Ban Ngày Giáng Sinh), thì trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi được mạc khải ở đây, Thiên Chúa
Ngôi Con chính là "tiếng phán từ các tầng trời",
tức là "tất cả sự thật" (Jn.16:13)
nơi Thiên Chúa được tỏ ra cho loài người,
nơi con người của Đức Giêsu Kitô. Như
thế, được ngôi hiệp với thần tính, nhân
tính của Đức Giêsu Kitô chính là "đường
lối" (Jn.14:6) mạc khải của Thiên Chúa.
Thế nhưng,
Thiên Chúa muốn mạc khải những gì, nếu không
phải là tình yêu của Ngài đối với loài người,
một thân phận tạo vật được hiện
thân nơi con người của Đức Giêsu Kitô, một
tình yêu được mạc khải qua nội dung của
"tiếng phán từ các tầng trời", đó là
"Ta ái mộ Người" (Phúc Âm năm A), hay "Cha
sủng ái Con" (Phúc Âm năm B) hoặc "Cha hài lòng vì
Con" (Phúc Âm năm C).
Do đó, "vinh
hiển của Người Con duy nhất đến từ
Cha" đây không là gì khác ngoài tình trạng "đầy
ân sủng và chân lý" ở nơi Người. "Ân sủng"
ở đây là gì, nếu không phải là việc "Thiên Chúa
yêu thương..." (Jn.3:16) hay "Thiên Chúa chứng
tỏ/mạc khải tình yêu của Ngài..." (Rm.5:8'
1Jn.4:9). Và "chân lý" ở đây là gì, nếu không
phải là "Thiên Chúa là tình yêu" (1Jn.4:8,16).
Chính thứ
tự của câu "ân sủng và chân lý", trong đó,
"ân sủng" được đặt trước
"chân lý", đã nói lên động lực và thực
tại nơi mạc khải của Thiên Chúa: vì yêu thương
(ân sủng) Thiên Chúa đã mạc khải tình yêu là bản
tính của Ngài ra (chân lý).
Vì việc
mạc khải của Thiên Chúa là do "ân sủng", tức
là phát xuất từ việc Thiên Chúa yêu thương nhân
loại, và cũng vì cả mạc khải của Thiên Chúa
còn là chính Tình Yêu của Ngài, một thực tại nói lên
"tất cả chân lý" của mạc khải, mà
"Thánh Linh", "Đấng An Ủi, là Thần Chân
Lý" (Jn.15:26), mới nhập cuộc, xuất hiện
bằng hình ảnh của "chim câu", biểu hiệu
cho tâm tình "hiền lành" (Mt.11:29), liên quan đến
"ân sủng", và cũng biểu hiệu cho đức
tính "đơn thành" (Mt.10:16), liên quan đến
"chân lý".
Như thế,
nếu nhân tính của Đức Kitô, "Người Con
duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và
chân lý" này, như vừa nhận thức, là "đường
lối" mạc khải của Thiên Chúa, thì "Thần
Linh (hay) Thánh Linh lấy hình chim câu đậu xuống trên
Người" đây chính là nguyên lý, là tác nhân mạc
khải của Thiên Chúa.
Do đó, "vinh
hiển của Người Con duy nhất đến từ
Cha, đầy ân sủng và chân lý" đây còn là "Thánh
Linh" mà "Thiên Chúa xức dầu cho Người"
(bài đọc 2), đồng thời cũng là
"Thần Linh" mà Thiên Chúa "đã đặt trên Người"
(bài đọc 1). Bởi đó, dưới tác động
hay ảnh hưởng "quyền năng từ trên
cao" (Lk.24:49) là "Thần Linh" hay "Thánh Linh"
này, mà Đức Kitô, "Giêsu Nazarét... đi khắp nơi
thực hiện những việc lành và chữa trị cho
tất cả những ai bị ma qủi cầm buộc,
và Thiên Chúa ở với Người" (bài đọc 2).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, Cha đã sai "Người
Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và
chân lý", để "Người mang công chính đến
cho các dân tộc... làm giao ước của dân, làm ánh sáng
cho các dân tộc..." (bài đọc 1) - xin Cha "chúc phúc
cho (chúng con) trong cảnh thái bình" (đáp ca), thành
phần "người mù... tù nhân... sống trong
tăm tối" (bài đọc 1), đã được
Người, qua Bí Tích Rửa Tội, "mở
mắt (lương tri) cho... giải tỏa tình trạng
(ma qủi) cầm buộc cho... và đưa ra khỏi ngục
(thế gian)" (bài đọc 1).
Chúa
Nhật 2 Thường Niên
Chiêm
Ngắm Lời Chúa là Thần Linh:
A.
"Khi Gioan thấy được Chúa Giêsu tiến đến
về phía mình thì kêu lên: 'Hãy nhìn kìa! Chiên Thiên Chúa, Đấng
xóa tội trần gian đó!' ... Nhưng như tôi nói, tôi
không biết Người. Đấng sai tôi làm phép rửa
bằng nước bảo tôi rằng: 'Khi nào ngươi
thấy Thần Linh xuống đậu trên ai thì đó là người
làm phép rửa bằng Thánh Linh'. Nay chính tôi đã thấy và
làm chứng: 'Người là Đấng Thiên Chúa tuyển
chọn'": "Chúa phán cùng tôi: Hỡi -ch-Diên, ngươi
là tôi tớ của Ta, Ta tỏ vinh quang của Ta qua ngươi...
Ta sẽ làm ngươi thành ánh sáng các dân tộc, để
ơn cứu độ của Ta có thể lan khắp cùng bờ
cõi trái đất" - "Lạy Chúa, này tôi xin đến
để thực thi ý Chúa"' "Phaolô được ý
muốn Thiên Chúa kêu gọi làm tông đồ của Đức
Giêsu Kitô... gửi lời chào anh em là những người được
thánh hiến trong Đức Giêsu Kitô và được
gọi là một dân thánh hảo".
B.
"Gioan lúc ấy đang ở
C.
"Ở
Cảm
Nghiệm Lời Chúa là Sự Sống:
"Người
Con duy nhất đầy ân sủng". Về phương
diện thần linh, sau khi được chính Thiên Chúa ban
cho "một người nữ khi đến thời điểm
ấn định" (bài đọc 2 Lễ Mẹ Thiên Chúa),
đó là Mẹ Maria "có phúc vì đã tin" (Phúc Âm Chúa
Nhật 4 Mùa Vọng năm C), và được Thiên Chúa
tuyên nhận với "người nam cao trọng
nhất loài người" (Phúc Âm Chúa Nhật 3 Mùa
Vọng năm A), đó là Gioan Tiền Hô, vị "đã
thấy và làm chứng" (Phúc Âm năm A), "Người
Con duy nhất" này bắt đầu "tỏ vinh quang
của Người ra" (Phúc Âm năm C), trước
hết, để cho "các môn đệ của Người
tin vào Người" (Phúc Âm năm C), thành phần làm nên
Giáo Hội của Người sau này.
Như thế,
không phải là nhờ "Người Con duy nhất đầy
ân sủng" này mà Mẹ Maria mới được "đầy
ơn phúc" (Phúc Âm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng năm B),
rồi nhờ Mẹ, Gioan Tiền Hô mới "nhẩy mừng
trong lòng (mẹ mình)" (Phúc Âm Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
năm C), và nhờ Gioan Tiền Hô, các môn đệ của
Người mới biết mà "đi theo Chúa Giêsu"
(Phúc Âm năm B)
Cấp trật
ân sủng này, bắt nguồn từ "Người Con
duy nhất đầy ân sủng", qua các môi giới của
Người, trước hết là Mẹ Maria, tiếp theo
là Gioan Tiền Hô, rồi tới các môn đệ, sau
hết mới tới "cả thế gian" (Mk.16:15'
Jn.17:23), là đường lối mạc khải, cũng
là đường lối thông ban ân sủng của Thiên Chúa,
đúng như "Chúa phán cùng tôi: 'Hỡi -ch-Diên, ngươi
là tôi tớ của Ta, Ta tỏ vinh quang của Ta qua ngươi...
Ta sẽ làm ngươi thành ánh sáng các dân tộc, để
ơn cứu độ của Ta có thể lan khắp cùng bờ
cõi trái đất" (bài đọc 1 năm A).
Chính vì cấp
trật ân sủng như thế mà, về phương
diện trần thế, trước khi tỏ mình ra cho các
môn đệ, "Người Con duy nhất" này cũng
cần phải được hai nhân vật có thế giá
nhất đóng vai trò tiền hô, trong việc giới
thiệu, như Gioan Tiền Hô đã minh nhiên làm cho các môn đệ
của thánh nhân, khi ngài nói: "Kìa! Chiên Thiên Chúa đó!"
(Phúc Âm năm B), và trong việc làm môi giới, như Mẹ
Maria đã âm thầm làm ở tiệc cưới
Cũng chính vì
"Người Con duy nhất đầy ân sủng"
này được Thiên Chúa "đặt làm thừa
tự của tất cả mọi sự" (bài đọc
2 Lễ Ban Ngày Giáng Sinh), mà "Samuel đi về ngủ ở
chỗ của mình (thì) Chúa đến mạc khải
sự hiện diện của Ngài, bằng tiếng
gọi..." (bài đọc 1 năm B), và "Phaolô được
ý muốn Thiên Chúa kêu gọi làm tông đồ của Đức
Giêsu Kitô" (bài đọc 2 năm A).
Bởi thế,
trong lãnh vực ân sủng mới "có nhiều tặng ân
khác nhau nhưng cùng một Thần Linh' có nhiều sứ vụ
khác nhau nhưng cùng một Chúa' có nhiều công việc khác
nhau nhưng cùng một Thiên Chúa, Đấng hoàn tất
mọi sự trong mọi người... Cùng một
Thần Linh là Đấng ban phát tất cả những
tặng ân này, phân phối chúng cho từng người tùy
theo ý muốn của Ngài" (bài đọc 2 năm C).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, trong "Người
Con duy nhất đầy ân sủng" của Cha, chúng con
"là những người được thánh hiến và được
gọi là một dân thánh hảo" (bài đọc 2 năm
A), xin cho chúng con luôn luôn ý thức được hồng ân
của mình, là đã trở nên "một triièu thiên...
một vương miện trong tay Chúa" (bài đọc 1
năm C), nên "chi thể của Đức Kitô... đên
thờ của Chúa Thánh Linh, Đấng ở bên trong"
(bài đọc 2 năm B) chúng con, để chúng con biết
"tôn vinh (Cha) trong thân xác của (chúng con)" (bài đọc
2 năm B), bằng cách"đến để thực thi
ý Chúa" (đáp ca năm A và B), nhờ đó chúng con
có thể "công bố các việc lạ lùng của (Cha)
cho tất cả mọi dân nước" (đáp ca
năm C).
Chúa
Nhật 3 Thường Niên
Chiêm
Ngắm Lời Chúa là Thần Linh:
A.
"Khi Chúa Giêsu nghe thấy Gioan bị bắt giam, Người
rút về Galilêa... Từ lúc ấy trở đi Chúa Giêsu
bắt đầu công bố đề tài này: 'Hãy cải
thiện đời sống! Nước Trời gần đến
rồi'... Chúa Giêsu rảo khắp xứ Galilêa. Người
dậy dỗ trong các hội đường, công bố tin
mừng về vương quốc, và chữa lành dân chúng
cho khỏi mọi tật nguyền bệnh nạn":
"Thoạt tiên Ngài đã hạ giá đất Zebulun và đất
Naphtali' thế nhưng, cuối cùng Ngài đã tôn vinh đường
dẫn ra biển, đất bên phía tây sông Dược-Đăng,
Khu Vực của các Dân Ngoại... Dân bước đi
trong tăm tối đã thấy ánh sáng vĩ đại"
- "Chúa là sự sáng và là Đấng Cứu Độ
tôi"' "Đừng để xẩy ra phân mảnh'
trái lại hãy hiệp nhất trong tâm trí và phán đoán... Chúa
Kitô không sai tôi làm phép rửa mà là rao giảng phúc âm - song
không phải bằng lời lẽ khôn khéo, kẻo thập
giá của Chúa Kitô mất hết ý nghĩa của mình!"
B.
"Sau khi Gioan bị tống giam, Chúa Giêsu xuất hiện ở
Galilêa công bố tin mừng của Thiên Chúa: 'Đây là thời
gian viên trọn. Triều đại Thiên Chúa gần
kề! Hãy cải thiện đời sống và tin vào
tin mừng!'... Đi dọc bờ biển Galilêa, Người
thấy... họ là những người đánh cá. Chúa Giêsu
nói với họ: 'Hãy đi theo Ta' Ta sẽ làm cho các người
thành những tay đánh cá người' Họ lập tức
bỏ chài lưới mà đi theo Người": "Lời
Chúa truyền cho Giona: 'Hãy đến đại đô Ninêvê
mà loan báo cho nó một sứ điệp mà Ta sẽ bảo
ngươi'... '40 ngày nữa Ninêvê sẽ bị hủy
diệt', dân Ninêvê tin vào Thiên Chúa..." - "Lạy Chúa, xin
dạy bảo tôi về lối bước của
Ngài"' "Thời gian ngắn ngủi. Từ nay trở
đi... những ai sử dụng thế gian như không dùng
đến nó, vì thế gian như chúng ta biết nó sẽ
qua đi"
C.
"Chúa Giêsu theo quyền năng Thần Linh trở về
Galilêa... Người về Nazarét... vào hội đường
trong ngày lễ nghỉ... đứng lên để đọc
sách... 'Thần Linh Chúa ở trên tôi, nên Ngài đã xức
dầu cho tôi. Ngài sai tôi đi mang tin mừng cho người
nghèo khó, công bố việc giải thoát cho những kẻ
bị giam cầm, phục quang cho kẻ đui mù và thả
ra những tù nhân, loan báo năm hồng ân của Chúa'... 'Hôm
nay đoạn Sách Thánh này được ứng nghiệm
theo như các người nghe thấy": "Tư
tế Ezra mang lề luật ra trước hội đồng...
Ông đọc sách này từ sáng tới trưa, trước
mặt của đàn ông, đàn bà và những trẻ em đến
tuổi hiểu biết' và tất cả dân chúng chăm chú
lắng nghe sách luật... Ezra đọc sách lề luật
của Thiên Chúa một cách rõ ràng, cắt nghĩa sách này để
mọi người có thể hiểu điều ông đọc...
Tất cả dân chúng khóc lóc khi họ nghe những lời
sách luật" - "Lạy Chúa, lời Chúa là thần linh
và là sự sống"' "Có một thân thể song có
nhiều chi thể, tuy tất cả mọi chi thể có
nhiều thì cũng chỉ là một thân thể' Chúa Kitô cũng
thế. Chính trong cùng một Thần Linh mà tất cả chúng
ta, Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đều được
rửa để làm nên một thân thể... Vậy anh em là
thân thể của Chúa Kitô. Mỗi một người trong
anh em đều là phần tử của thân thể
này".
Cảm
Nghiệm Lời Chúa là Sự Sống:
"Người
Con duy nhất đầy chân lý". So với "Đấng
đến sau (mình)" (Phúc Âm Chúa Nhật 2 Mùa Vọng
năm A & B, và Chúa Nhật 3 Mùa Vọng năm B), dầu
sao Gioan Tiền Hô "tự mình (vẫn) không phải là ánh
sáng" (Phúc Âm Lễ Ban Ngày Giáng Sinh), mà chỉ là "đèn"
(Jn.5:35). Do đó, một khi "ánh sáng thế gian"
(Jn.8:12) bắt đầu xuất hiện thì "đèn"
dù có "rực sáng" (Jn.5:35) đến mấy đi
nữa tự nhiên cũng trở nên mờ tối. Đó là
lý do, "khi Chúa Giêsu nghe thấy Gioan bị bắt giam, Người
rút về Galilêa... Từ lúc ấy trở đi Chúa Giêsu
bắt đầu... " (Phúc Âm năm A), hay rõ hơn
nữa, "sau khi Gioan bị tống giam, Chúa Giêsu xuất
hiện ở Galilêa công bố tin mừng của Thiên Chúa..."
(Phúc Âm năm B).
Đúng thế,
là "ánh sáng thật soi chiếu cho mọi người đã
đến trong thế gian" (Phúc Âm lễ Ban Ngày Giáng
Sinh), "Chúa Giêsu theo quyền năng Thần Linh trở
về Galilêa (để ứng nghiệm đoạn Sách
Thánh) 'Thần Linh Chúa ở trên tôi, nên Ngài đã xức
dầu cho tôi. Ngài sai tôi đi mang tin mừng cho người
nghèo khó, công bố việc giải thoát cho những kẻ
bị giam cầm, phục quang cho kẻ đui mù và thả
ra những tù nhân, loan báo năm hồng ân của Chúa'"
(Phúc Âm năm C).
"Tin mừng"
này là gì, nếu không phải là "tin mừng về vương
quốc" (Phúc Âm năm A), "tin mừng của Thiên Chúa:
'Đây là thời gian viên trọn. Triều đại Thiên
Chúa gần kề! Hãy cải thiện đời sống và
tin vào tin mừng" (Phúc Âm năm B).
"Tin mừng"
này được "mang" đến cho ai, nếu
không phải trước hết "cho người nghèo
khó", tiêu biểu nhất là "những người
đánh cá (mà) Chúa Giêsu nói với họ 'Hãy đi theo Ta' Ta
sẽ làm cho các người thành những tay đánh cá người'"
(Phúc Âm năm B).
"Tin mừng"
này khi được "công bố" thì có tác dụng
gì, nếu không phải mang lại "việc giải thoát
cho những kẻ bị giam cầm, phục quang cho kẻ
đui mù và thả ra những tù nhân" (Phúc Âm năm C).
"Những
kẻ bị giam cầm" được "tin mừng"
"giải thoát" đây điển hình là "đại
đô Ninêvê... '40 ngày nữa Ninêvê sẽ bị hủy
diệt', dân Ninêvê tin vào Thiên Chúa" (bài đọc 1 năm
B). "Kẻ đui mù" được "tin mừng"
"phục quang" đây điển hình là "đất
Zebulun và đất Naphtali... Khu vực của các Dân
Ngoại... Dân bước đi trong tăm tối đã
thấy ánh sáng vĩ đại" (bài đọc 1 năm
A). "Những tù nhân" được "tin mừng"
"thả ra" đây điển hình là "đàn ông, đàn
bà và những trẻ em đến tuổi hiểu
biết... (trong dân Do Thái bấy giờ, mới từ
nơi lưu đầy là
Lạy Chúa là Cha chúng con ở trên trời, trong "Người
Con duy nhất đầy chân lý", "Chúa là sự sáng và
là Đấng Cứu Độ (chúng con)" (đáp ca
năm A), và "lời Chúa là thần linh và là sự
sống" (đáp ca năm C) - "xin dạy bảo (chúng
con) về lối bước của Ngài" (đáp ca
năm B), đó là "phúc âm không phải bằng lời
lẽ khôn khéo, kẻo thập giá của Chúa Kitô mất
hết ý nghĩa của mình" (bài đọc 2 năm A), để
chúng con "từ nay trở đi, sử dụng thế
gian như không dùng đến nó" (bài đọc 2 năm
B), nhờ đó, chúng con mới có thể "hiệp
nhất trong tâm trí và phán đoán" (bài đọc 2 năm
A), như "tất cả mọi chi thể có nhiều
thì cũng chỉ là một thân thể... thân thể của
Chúa Kitô" (bài đọc 2 năm C).
Chúa
Nhật 4 Thường Niên
Chiêm
Ngắm Lời Chúa là Thần Linh:
A.
"Khi Chúa Giêsu thấy đám đông thì Người lên sườn
núi. Sau khi Người ngồi xuống, các môn đệ đến
vây chung quanh Người, và Người bắt đầu
dậy các ngài: 'Phúc cho người nghèo khó trong tinh
thần... cho người buồn phiền... cho người
hèn mọn... cho những ai đói khát... cho những ai xót thương...
cho người có lòng thanh sạch... cho người
kiến tạo hòa bình... cho những ai bị bắt bớ
vì thánh đức... bị lăng nhục, bắt bớ và
mọi thứ vu khống...'": "Ta sẽ lưu
lại giữa các ngươi như số còn lại một
thành phần khiêm nhu và thấp hèn, những kẻ sẽ
ẩn náu nơi danh Chúa: đó là số còn lại của
dân Do Thái" - "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ"' "Thiên Chúa đã
chọn những người mà thế gian cho là điên
dại để làm hổ ngươi kẻ tinh khôn' Ngài
tuyển lựa người yếu kém ở thế gian để
làm xấu hổ kẻ mạnh thế. Ngài đã chọn
người hèn mọn và bị khinh khi, những kẻ
chẳng là gì, để vô hiệu hóa những kẻ có gì, để
nhân loại không còn vênh vang trước mặt Ngài".
B.
"Chúa Giêsu vào hội đường (ở thành Caphanaum)
vào ngày hưu lễ và bắt đầu giảng dạy.
Dân chúng bỡ ngỡ lạ lùng về giáo lý của Người,
vì Người giảng dạy có uy lực chứ không như
các luật sĩ. Bấy giờ trong hội đường
có một người bị thần ô uế ám kêu lên: 'Hỡi
Giêsu Nazarét, ngài muốn gì nơi chúng tôi đây? Ngài đến
để hủy diệt chúng tôi phải không? Tôi biết
ngài là ai - là Đấng Thánh của Thiên Chúa!'": "Chúa
nói cùng tôi (Moisen): 'Ta sẽ gây dựng từ miêu duệ của
họ (dân Do Thái) một tiên tri như ngươi, và Ta
sẽ đặt những lời của Ta nơi miệng
của người' người sẽ nói với họ
tất cả những gì Ta truyền cho người.
Nếu ai không nghe theo những lời mà người nhân
danh Ta phán bảo, chính Ta sẽ bắt họ phải
trả lẽ" - "Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người: các bạn đừng cứng
lòng"' "Tôi mong sao cho anh em thoát được mọi
lo lắng... Tôi muốn nêu lên điều tốt lành, điều
sẽ giúp anh em hoàn toàn hiến thân cho Chúa".
C.
"Người (Chúa Giêsu) nói với họ: 'Không một
tiên tri nào được chấp nhận nơi quê quán của
mình'... Nghe thấy những lời ấy, toàn thể thính
giả trong hội đường đầy phẫn nộ.
Họ nhào đến để tống khứ Người
ra khỏi thị trấn, bằng cách dẫn Người
đến mé đồi của thị trấn, có ý đẩy
Người xuống triền đồi. Song Người đã
qua giữa họ mà đi mất": "Trước khi
Ta hình thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi,
trước khi ngươi được sinh ra, Ta đã
cẩn trọng chăm chút cho ngươi, Ta đã chỉ định
ngươi làm tiên tri cho các dân nước... Họ sẽ
chống lại ngươi, nhưng không làm gì được
ngươi, vì Ta ở với ngươi để
giải cứu ngươi, Chúa phán" - "Miệng tôi
sẽ loan truyền sự Chúa công minh" (ỏ đây, câu
đáp ca theo sách lễ Tiếng Anh lại hơi khác:
"Tôi sẽ ca khen ơn cứu độ của Chúa"
- "I will sing of your salvation")' "Hãy hướng lòng của
anh em về những tặng ân cao cả hơn. Giờ đây
tôi sẽ chỉ cho anh em một con đường vượt
trội hơn tất cả mọi đường
lối khác... Kiến thức của tôi hiện nay bất
toàn' nhưng rồi sau này tôi sẽ biết như tôi được
biết. Kết cục còn lại có 3 điều là: đức
tin, đức cậy và đức mến, mà cao cả
nhất trong ba nhân đức này là đức mến"
Cảm
Nghiệm Lời Chúa là Sự Sống:
"Người
Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý" bắt đầu
như mặt trời lên soi sáng cho nhân gian, ở chỗ
"khi Chúa thấy đám đông thì Người lên sườn
núi" (Phúc Âm năm A). Vì "Người Con duy nhất đầy
ân sủng và chân lý" này đã được Thiên Chúa
"chỉ định làm tiên tri cho các dân nước"
(bài đọc 1 năm C), và "Người sẽ nói
tất cả những gì (Thiên Chúa) truyền cho Người...
(cũng như Người sẽ) nhân danh (Thiên Chúa) mà phán
bảo" (bài đọc 1 năm B), do đó, "dân chúng
lấy làm bỡ ngỡ lạ lùng về giáo lý của Người,
vì Người giảng dạy có uy lực chứ không như
các luật sĩ" (Phúc Âm năm B).
Và cũng bởi
"Người Con duy nhất đầy ân sủng và chân
lý" này là "ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Phúc
Âm lễ Ban Ngày Giáng Sinh), mà lời Người phán ra có tác
dụng xua tan bóng tối, làm cho "thần ô uế kêu lên:
'Hỡi Giêsu Nazarét, ngài muốn gì nơi chúng tôi đây? Ngài đến
để hủy diệt chúng tôi phải không? Tôi biết
ngài là ai - là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Phúc Âm
năm B).
Ngoài ra, lời của
Người còn làm cho cả những "ai làm điều
gian ác thì ghét ánh sáng' họ không đến gần ánh sáng, vì
sợ các việc làm của mình bị lộ tẩy"
(Jn.3:20), như thái độ của những người đồng
quê với Người: "Nghe thấy những lời (của
Người), toàn thể thính giả trong hội đường
đầy phẫn nộ. Họ nhào đến để
tống khứ Người ra khỏi thị trấn,
bằng cách dẫn Người đến mé đồi của
thị trấn, có ý đẩy Người xuống
triền đồi. Song Người đã qua giữa
họ mà đi mất" (Phúc Âm năm C), đúng như lời
tiên tri phán về Người: "Họ sẽ chống
lại ngươi, nhưng không làm gì được ngươi,
vì Ta ở với ngươi để giải cứu ngươi,
Chúa phán" (bài đọc 1 năm C).
Tuy nhiên, thành
phần trực tiếp nhận được ánh sáng phát
ra từ "Người Con duy nhất đầy ân sủng
và chân lý" này không phải là "đám đông dân chúng"
cho bằng các môn đệ của Người, như hình
ảnh xác thực được thánh ký Mathêu tả
lại: "Sau khi Người ngồi xuống, các môn đệ
đến vây quanh Người, và Người bắt đầu
dậy các ngài" (Phúc Âm năm A).
Như thế,
theo cấp trật ân sủng liên hệ với "Người
Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý", thì tâm điểm
diễn ra ở "sườn núi" (Phúc Âm năm A) đây
là "Người Con duy nhất đầy ân sủng và
chân lý", vòng trong gần với tâm điểm này hơn
là "các môn đệ đến vây quanh Người",
thành phần được Người trực tiếp
"dạy" cho, và vòng ngoài của tâm điểm này là
"đám đông dân chúng", thành phần mà Người
"thấy".
Thế rồi,
trên các môn đệ và đám đông dân chúng này, "thành
phần khiêm nhu và thấp hèn, những kẻ sẽ ẩn
náu nơi danh Chúa: đó là số còn lại của dân Do
Thái" (bài đọc 1 năm A), "Người Con duy
nhất đầy ân sủng và chân lý" đã tỏa ra
những tia "ánh sáng thật" (Jn.1:9): "cho người
nghèo khó trong tinh thần... cho người buồn
phiền... cho người hèn mọn... cho những ai đói
khát... cho những ai xót thương... cho người có lòng
thanh sạch... cho người kiến tạo hòa bình... cho
những ai bị bắt bớ vì thánh đức... bị
lăng nhục, bắt bớ và mọi thứ vu
khống..." (Phúc Âm năm A).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, trong "Người
Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý" của Cha,
Cha "đã chọn những người mà thế gian cho
là điên dại để làm hổ ngươi kẻ tinh
khôn' (Cha) tuyển lựa người yếu kém ở
thế gian để làm xấu hổ kẻ mạnh
thế. (Cha) đã chọn người hèn mọn và bị
khinh khi, những kẻ chẳng là gì, để vô hiệu hóa
những kẻ có gì, để nhân loại không còn vênh vang
trước mặt (Cha)" (bài đọc 2 năm A) - xin
cho chúng con biết luôn "hướng lòng về những
tặng ân cao cả hơn..., (về) một con đường
vượt trội hơn tất cả mọi đường
lối khác" (bài đọc 2 năm C), "điều sẽ
giúp (chúng con) hoàn toàn hiến thân cho (Cha)" (bài đọc
2 năm B), đó là "yêu thương không bao giờ cùng"
(bài đọc 2 năm C), một tình yêu được chứng
tỏ bằng "tinh thần nghèo khó" (đáp ca năm
A) và "nghe tiếng (Cha)... (chứ) đừng cứng
lòng" (đáp ca năm B).