CỨU MA TRỪ QUỈ

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Những biến động gần đây về những cái chết cho việc sùng bái ở Âu Châu đă cho thấy một vấn đề đă bị coi thường, đó là t́nh trạng càng ngày càng hào hứng với việc pḥ Satan và thế giới huyền bí, nhất là nơi thành phần thanh thiếu niên. Đó là lư do tại sao Đại Học Ṭa Thánh Regina Apostolorum và GRIS, một nhóm Ư quốc giám sát những giáo phái tai hại, đă tổ chức một khóa về “Trừ Quỉ và Cầu Nguyện Giải Phóng”. Khóa này, một khóa chỉ mở cho các vị linh mục và chủng sinh, sẽ được thực hiện vào Tháng 2, 3 và 4/2005.

Cha Pedro Mendoza Pantoja là một trong thành phần ban tổ chức Cuộc Họp Tiên Khởi Toàn Quốc Mễ Tây Cơ của Những Nhà Trừ Quỉ và Những Người Phụ Tá Giải Phóng, vào thời khoảng 31/8-2/9/2004 ở trung tâm của hội đồng giám mục nước này. Cuộc họp đă thu hút được 500 tham dự viên. Vị linh mục này điều hợp công việc của 8 vị trừ quỉ theo vùng trong tổng giáo phận Mexicô City. Ngài đă trả lời cho Zenit qua một cuộc phỏng vấn về những vân đề như Vị trừ quỉ là ai? Phải chăng ai cũng có thể trở thành người trừ quỉ? Người ta cần phải làm ǵ khi họ nghĩ rằng họ là nạn nhận bị quỉ ám hay khi biết rằng có người ở trong trường hợp bị quỉ ám như thế? v.v. Theo vị linh mục chuyên gia trừ quỉ 6 năm vừa rồi th́:

Cũng trong năm 2004, ở Việt Nam đă xẩy ra một câu chuyện đươc linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn thuật lại trong bản Hiệp Thông của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam số 26-27, tháng 10/2004, một câu truyện cũng đă được phổ biến trên ít là hai tờ Nguyệt San Công Giáo Việt Nam hải ngoại, đó là Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp số 11/2004, trang 37-44, với tựa đề “Cầu Cho Người Đă Khuất”, và Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu số 12/2004, trang 19-24, với tựa đề “Rao Giảng Tin Mừng Cho Người Đă Khuất”.

 

Trong câu truyện này, linh mục Sơn cho biết là ngài đă giúp được cho một người mẹ trẻ thoát khỏi t́nh trạng bị một linh hồn tử sĩ nhập vào, một t́nh trạng cũng đă được một thày bùa ở Phan Rang cố gắng giải quyết song bất thành.

 

phần kết luận câu truyện mà chính vị linh mục thuật lại là chứng nhân và là vị “rao giảng tin mừng cho người đă khuất”, tác giả đă đặt ra một số vấn đề liên quan đến tín lư và đức tin Kitô giáo cần phải được giải quyết. Sau đây là nguyên văn các vấn nạn được vị linh mục này nêu lên:

 

1.      “Trong xă hội Việt Nam hôm nay, bùa ngải, thư yểm là chuyện có thật, nhất là nơi những người buôn bán, như ta từng nghe nói: ‘ngậm ngải t́m trầm’ hay ‘bùa yêu’ của một vài người thỉnh về. Bùa ngải này dựa trên nền tảng nào? Quyền lực này bắt nguồn từ đâu: từ ma quỉ hay chỉ là một điều kỳ diệu mà khoa học chưa khám phá?

 

2.      “Theo niềm tin chung của người tií hữu Công giáo, các linh hồn sau khi chết sẽ ra trước ṭa Chúa phán xét để rồi hoặc sẽ lên thiên đàng, vào luyện ngục hay xuống hỏa ngục. Vậy phải giải thích như thế nào về những linh hồn vất vưởng như ông Giuse Trần Đ́nh Sang và các bạn bè của ông? (Ở đây vị linh mục muốn nói đến sự kiện là ông Sang 63 tuổi, tử trận ngày 13/12/1973 tại ngay nơi đang được gia đ́nh cô Maria Trần Thị Phương Quỳnh 26 tuổi thuê mướn để kinh doanh đă 3 năm, đó là căn nhà số 46/5C Chu Văn An, quận B́nh Thạnh Thành Phố Hồ Chí Minh)?

 

3.      “Ma quỉ có thể tác động vào những người vô tội và nhập vào họ để gây nên bệnh tật, đau đớn bất kể tự do và ư muốn của người bị nhập?

 

4.      “Làm sao ma quỉ lại có thể ở lâu trong những người đó như vậy, trong khi miệng họ vẫn cầu kinh, dự lễ, rước Ḿnh Thánh Chúa?

 

5.      “Các tôn giáo khác có những nghi thức, bài kinh để trừ tà ma, diệt quỉ như trong tông phái Mật Tông của Phật giáo ở Việt Nam, Tích Lan, Ấn Độ hay Chân Ngôn Tông ở Nhật Bản. Nhiều người tín hữu h́nh như muốn đồng hóa các nghi thức này của tôn giáo với sự mê tín dị đoan. Vậy cần phải hiểu thế nào trong tinh thần đối thoại liên tôn của Kitô giáo?

 

6.      “Có cần phải phân biệt ‘ma’ khác với ‘quỉ’ để có thái độ thương xót hơn đối với ‘ma’ và đúng đắn hơn vơiù ‘quỉ’? (Đến đây, để chứng minh vấn đề cần phải ‘rao giảng tin mừng cho người đă khuất’, linh mục tác giả đă trích dẫn những lời Thánh Kinh Tân Ước như sau:)

 

“Thư 1Pr 3, 19-22 nói rơ: v́ Đức Kitô chết cho mọi người nên mọi người đều có thể được cứu độ bằng những cách thế không ai có thể ngờ được. Hơn nữa, v́ Đức Kitô là Đấng ‘phán xét kẻ sống và kẻ chết’, mà tiêu chuẩn để phán xét là Tin Mừng, nên trước đó, kẻ chết cũng cần được nghe công bố Tin Mừng (x. 1Pr 4, 5-6; x F. Gomez, Kitô học, Chương Đức Giêsu xuống ngục tổ tông, Tập II, tr. 135tt). Đức Kitô rao giảng Tin Mừng cho cả kẻ chết có nghĩa là Người đă hoàn tất sứ mạng cứu độ đối với mọi người. Những người đă chết cũng cần được ‘rửa tội’ bằng cách tuyên xưng ḷng tin và t́nh yêu đối với Đức Kitô. Do đó, vào thời các Kitô hữu thế hệ đầu tiên, ở Côrintô chẳng hạn, người ta đă có nghi thức chịu phép rửa thay cho kẻ chết (x. 1Cr 15,29). Hành động của ông Sang hay những linh hồn khác đă khiến tôi nhớ đến sứ mạng phải truyền giáo cho cả những người đăkhuất. Như thế có lẽ ta không nên nói trừ ma, diệt quỉ mà phải cứu ma, trừ quỉ theo nghĩa Kitô giáo chăng?”

 

Qua những câu truyện “cứu ma” của linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn ở Việt Nam và cuộc phỏng vấn về việc “trừ quỉ” của linh mục Pedro Mendoza Pantoja ở Mễ Tây Cơ trên đây, người viết xin được chia sẻ suy tư của ḿnh như sau.

 

Trước hết, bởi vướng mắc nguyên tội, con người c̣n được coi như là thành phần bị mù từ lúc mới sinh, chẳng biết Chúa là ai (xem Gioan 9:1,36); thành phần bất toại, không tự giải cứu đươc ḿnh, không làm được những điều lành mong ước, trái lại, làm điều dữ ngược với ư muốn của ḿnh (xem Rôma 7:19); thành phần phong cùi ghẻ lở xấu xa, bị tội lỗi làm méo mó h́nh dạng con người của ḿnh được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) v.v. Đó là lư do, Chúa Kitô đă đến để cứu độ, trước hết bằng quyền năng chữa lành của Người, đúng như tiên tri Isaia đă nói về Người (xem Isaia 61:1), cũng như chính Người đă xác nhận về Người với các môn đệ của tiền hô Gioan Tẩy Giả (xem Luca 7:22).

 

Ngoài ra, cũng bởi nguyên tội, tức bẩm sinh mang mầm mống tội lỗi và sự chết là hậu quả của nguyên tội trong bản thân khi được sinh vào trần gian, mà con người, ở một nghĩa nào đó, ai cũng bị “quỉ ám”, tức bị tiêm nhiễm nọc độc của Satan, có sẵn tử chất Satan nơi ḿnh, nên tự nhiên họ có khuynh hướng “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Gioan 3:19), thực sự bị Satan chi phối và điều khiển theo ư hắn (xem Gioan 8:44). Đó là lư do mà một trong những việc cho thấy Chúa Kitô đến để thiết lập vương quốc cứu độ của Người, đó là việc Người khu trừ ma quỉ là tay thống lănh thế gian (x Mathêu 4:8-9; Gioan 16:11; Do Thái 2:14), việc “Con Thiên Chúa tỏ ḿnh ra để tiêu diệt các việc làm của ma quỉ” (1Gioan 3:8; xem Do Thái 2:14).

 

Theo nguyên tắc ai cũng bị quỉ ám (không nhiều th́ ít, không nặng th́ nhẹ) về phương diện tâm linh như thế, mà không lạ ǵ có những trường hợp đi đến chỗ trầm trọng đến nỗi con người c̣n bị quỉ ám cả ở trên thân xác nữa, như những trường hợp được các Phúc Âm Nhất Lăm thuật lại, những đoạn cũng được linh mục Sơn trưng dẫn trong bài viết của ḿnh: “Ở Capharnaum (x. Mc 1,21-28; Lc 4, 31-37), ở Gađara (x Mt 8, 28-34; Mc 5, 1-20), ở Tyrô (x Mc 7, 24-30)”.

 

Nếu con người ta có thể trở thành tay sai cho ma quỉ, qua những hoạt động đầy hận thù ghen ghét cố t́nh quấy phá Giáo Hội, bằng những chống đối quyền bính và gây chia rẽ Dân Chúa, theo tinh thần kiêu căng bất phục tùng phá đám của Satan, th́ con người cũng có thể là tác nhân của Satan và cho Satan, qua những thứ bùa ngải, các việc yếm độc, tác hại con người ta, nhất là những người chẳng những đă yếu đức tin lại c̣n yếu bóng vía, dễ mê tín dị đoan nữa. Thế nhưng, như những con rắn biến từ gậy của các phù thủy Ai Cập chẳng những không thể hại con rắn biến từ gậy của Aaron mà c̣n bị nuốt đi hết nữa (x Xuất Hành 7:10-12), cũng thế, bùa phép của thày Chăm ở Phan Rang trừ tà cho cô Quỳnh cũng không thể tống ông Sang ra khỏi cô này, trái lại, c̣n bị việc trừ quỉ của cha Sơn "qua mặt".

 

Tuy nhiên, thái độ thiện chí của ông chẳng những không ghen tức với cha, trái lại, c̣n tỏ ra muốn cùng cha Sơn cứu đời, chứng tỏ cho thấy, có một số thày phép có thể bị Satan lạm dụng để mở mang nước của hắn. Ở chỗ, có những lúc hắn giúp cho họ trừ được quỉ con, với thâm ư "bỏ con tép bắt con tôm", mưu lợi cho hắn, chứ không gây chia rẽ hay phá tán vương quốc của hắn theo nguyên tắc Chúa Giêsu đă nêu lên (xem Mathêu 12:24-26). Trong trường hợp cô Quỳnh, nếu ông thày Chăm này thực sự trừ được ông Sang, th́ thử hỏi gia đ́nh Công giáo này đang bê bối sẽ hoán cải trở về với Chúa như đoạn cuối câu truyện cho thấy hay chăng, hoặc lại càng thêm mê tín dị đoan mà bỏ Chúa hơn.

 

Nếu Satan có tác nhân tác hại con người ta bằng bùa ngải th́ Chúa Kitô cũng có các thừa tác viên thực hiện các phép trừ tà để giải cứu con người. Nếu các thứ bùa ngải được thành phần phù thủy sử dụng để gây tai hại cách riêng phần xác của con người bị yểm độc thế nào, th́ nước phép, Thánh Giá, Sách Thánh, tượng ảnh hay tràng hạt v.v. cũng có thể được sử dụng để trừ tà. Nếu Satan đă ngầm giúp các tác nhân của hắn làm điều bậy bằng bùa phép th́ thiên thần cũng đă giúp con người làm điều thiện lợi, điển h́nh là Tổng Thần Raphen đă giúp cho Tôbia con chẳng những có phương thuốc mật cá để chữa lành mắt cho Tôbia cha (xem Tôbia 6:9, 11:10-13), mà c̣n cả việc sử dụng phương pháp nướng tim cá và gan cá để xua đuổi ảnh hưởng của ma quỉ nơi con người bị hắn quấy nhiễu như trường hợp người vợ mới cưới của Tôbia con (xem Tobia 6:8, 8:2-3).

 

Trường hợp linh hồn con người, sau khi ĺa khỏi thân xác trong giờ lâm tử, nếu không lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục th́ vẫn c̣n ở trong t́nh trạng chưa được hoàn toàn hoan hưởng thánh nhan Thiên Chúa, tức là vẫn c̣n ở trong t́nh trạng cần phải được giải cứu, cho đến khi ơn cứu chuộc của Chúa Kitô được hoàn toàn nên trọn nơi họ. Như thế, đối với con người con sống trên đời th́ thành phần đă chết không c̣n ở trong không gian, nhất là không c̣n thuộc về thời gian nữa, nhưng đối với thành phần trong luyện ngục, chưa hoàn toàn được hưởng vinh phúc trường sinh này, th́ một cách nào đó, họ vẫn c̣n ở trong “thời gian”, không phải thời gian lập công như khi họ c̣n sống trên thế gian này, mà là thời gian đền tội và chờ đợi, một thời gian tâm lư của những linh hồn chưa hoàn toàn đạt đến cùng đích tối hậu của ḿnh là Thiên Chúa Toàn Thiện Toàn Ái, nên cảm thấy quặn quại khổ đau bởi chính ḷng khao khát đầy mến yêu có sức thanh tẩy ấy (xem Luca 7:47; 1Phêrô 4:8).

 

Thế nhưng, sở dĩ những linh hồn trong luyện ngục có được một khát khao có sức thanh tẩy tội lỗi này là v́ họ đă được hưởng Thần Linh Sự Sống của Thiên Chúa, dù chưa hoàn toàn, một Thần Linh thấu triệt Thiên Chúa (xem 1Corintô 2:10). Hay nói cách khác, vinh quang của Thiên Chúa đă chiếu vào các linh hồn trong luyện ngục bởi Thần Linh tái sinh của Ngài (xem Gioan 3:5). Bởi thế, có thể nói, những linh hồn đang ở trong luyện ngục, v́ đă ra khỏi thân xác hữu h́nh và hữu hạn là những ǵ khiến linh hồn họ chỉ có thể thấy Ngài "như qua gương" chứ không thể “diện đối diện” (1Corintô 13:12) chiêm ngưỡng “Thiên Chúa vô h́nh” (Col 1:15), th́ dù họ có đang ở trong thời gian đền tội và đợi chờ, song bởi ḷng khao khát đầy yêu mến do Thần Linh làm vọt lên trong họ (xem Gioan 4:14, 7:38-39) bấy giờ, họ thật sự đă được chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa lờ mờ rồi, như trường hợp người mù chưa được Chúa Giêsu phục quang hoàn toàn, nên mới chỉ “thấy người ta qua lại như cây cối” (Marcô 8:24).

 

V́ thành phần trong luyện ngục mới được thấy Thiên Chúa “lờ mờ” như thế, mà họ cần phải chờ đợi cho tới khi Chúa Giêsu “là sự sống lại và là sự sống” (Gioan 11:25), là “ánh sáng sự sống” (Gioan 8:12) hoàn toàn chiếu tỏa trên họ, một thứ Chân Lư giải thoát họ (xem Gioan 8:32). Theo dự án cứu độ của ḿnh, Thiên Chúa có nhiều cách cứu độ từng người trên trần gian này, tùy theo hoàn cảnh và trường hợp của họ thế nào, th́ khi họ qua đi mà chưa được hoàn toàn giải thoát, Ngài cũng có cách để tiếp tục cứu họ như thế. Chẳng hạn Ngài có thể cho chính linh hồn đương sự “hiện về” (xem Luca 16:30-31) để xin người c̣n sống bồi thường cho họ về những ǵ liên quan đến phép công bằng, hay như trường hợp của ông Sang trong câu chuyện được cha Sơn kể lại.

 

Trong trường hợp của ông Sang, Thiên Chúa chẳng những muốn cứu cả người đă chết là ông Sang mà c̣n cả người đang sống là gia đ́nh nạn nhân cô Quỳnh cùng ông thày Chăm ở Phan Rang nữa. Cô Quỳnh là vật hy sinh cho việc Chúa làm. V́ ông Sang đă chết không thể tự cứu ḿnh nữa, nên phải nhờ đến đức tin của những người c̣n sống. Bởi thế, một khi nạn nhân bị ông ám yếu đức tin, ông không thể ra khỏi nạn nhân, cho đến khi đức tin của nạn nhân phục hồi ông mới được giải cứu, và nhờ ông cả nạn nhân lẫn gia đ́nh nạn nhân sống tốt lành hơn. Việc nạn nhân là cô Quỳnh đây được tăng thêm đức tin v́ ông Sang (ngoài ư muốn của cô song trong ư nhiệm mầu Thiên Chúa) và nhờ ông Sang đây cũng chẳng khác ǵ như cô được tái sinh trong đức tin, như cô lănh nhận phép rửa cho ông Sang vậy.

 

Đúng thế, chính nhờ đức tin của chị ḿnh là Matta: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đă đến trong thế gian” (Gioan 11:27) mà Lazarô đă bị chôn táng 4 hôm trong mồ đến độ bắt đầu xông mùi tan rữa (xem Gioan 11:39), vẫn có thể cải tử hoàn sinh nghe được tiếng Chúa để bước ra khỏi mồ (xem Gioan 11:43-44). Đó là lư do, vị trừ quỉ Công giáo, một là chính Đức Giám Mục, hai là vị linh mục được ngài chỉ định thay ngài làm việc này, chẳng những có quyền năng làm việc trừ quỉ, nhưng nếu yếu kém đức tin, không sống đời nguyện cầu và chay tịnh (xem Mathêu 17:16-21), th́ cũng chẳng trừ được quỉ như có lần đă xẩy ra cho các tông đồ ngày xưa. Một giám mục bất tuân phục Đức Thánh Cha làm sao có thể khu trừ "ngụy" thần, hay một vị linh mục trừ qủi mà lại ham sắc mê của làm sao có thể trừ được thần "ô uế"!?!

 

Thế nhưng, tại sao biết được rằng ḿnh có thể làm cho người bạn thân của ḿnh là Lazarô (xem Gioan 11:5) cải từ hoàn sinh về phần xác, mà Chúa Kitô, như Thánh Kư Gioan đă thuật lại cho chúng ta biết, Chúa Giêsu đă khóc (xem Gioan 11:35)? Phải chăng là v́ Người đă thấy trước được rằng, trong số thành phần thân thiết với Người, có những người, cho dù Người có lên tiếng gọi (xem Gioan 13:26-27; Mathêu 26:50), cũng sẽ không bao giờ chỗi dậy nữa, nghĩa là sẽ bị đời đời trầm luân (xem Mathêu 27:5; Gioan 17:12).

 

Đó là lư do, trong Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn Nhỏ qua nữ sứ giả giáo dân người Bỉ biệt danh Magarita, Chúa Giêsu đă tâm sự với bà những lời lẽ chí t́nh chí thiết như sau:

 

·        “Mất đi một trong các con cái của Cha đối với Cha là một bất hạnh lớn. Cha đă v́ họ mà đến mà Cha lại không thể cứu được họ…” (ngày 10-12-1968);

 

·        “Hỡi con gái của Cha ơi, con có biết cái thảm bại của một Vị Thiên Chúa là ǵ không? Đó là Người không thể cứu được hết taât cả moọ người bằng Hy Sinh của Người” (18-5-1970);

 

·        “Những ư nghĩ của Cha (ở trên đồi Gôngôta) là những ư nghĩ thương hại và thương xót. Họ không biết rằng, chỉ bằng một cử chỉ là Cha đă có thể hủy diệt họ đi rồi. Cha để cho họ tha hồ thỏa tay hành khổ Cha, v́ trong thâm tâm của Cha, Cha đă chấp nhận Hy Sinh theo ư muốn Cha của Cha. Thế nhưng, nỗi sầu khổ của Cha đă tăng lên gấp bội, v́ Cha đă biết rằng, cho dù Cha có để cho ḿnh bị hành h́nh đến như vậy, Cha vẫn không sao cứu được tất cả mọi con cái của Cha, và đối với nhiều người, Hy Sinh của Cha sẽ trở thành luống công vô ích” (Thứ Sáu Tuần Thánh 30-3-1972).

 

Vậy th́ thành phần được cứu độ nhiều hay ít? Chúa Giêsu đă không trực tiếp trả lời một cách rơ rầg ít hay nhiều cho thắc mắc ṭ ṃ của một người chất vấn Người: “Những người được cứu có ít lắm chăng?“ (Luca 13:23). Nếu là người, làm ǵ chúng ta cũng phải làm sao để mang lại lợi ích nhất cho ḿnh, và càng khôn ngoan và quyền năng, chúng ta càng đạt được ư muốn mưu lợi của ḿnh thế nào, th́ vô cùng khôn ngoan và toàn năng như Thiên Chúa, chẳng lẽ một việc cứu chuộc con người vô cùng quan trọng, đến nỗi Người đă phải nhập thể vô cùng hèn hạ và tử giá vô cùng nhục nhă như thế, lại chỉ mang về được một thiểu số linh hồn vô giá bất tử, thua quyền lực của Satan là tạo vật của Người?!?

 

Đó cũng là lư do, với cùng người nữ sứ giả giáo dân trên đây, Chúa Giêsu đă khẳng định như sau:

 

·        “Khi Cha bị đóng đanh trên Thánh Giá như một tội nhân chỉ v́ yêu, lẽ nào Cha lại chỉ được ôm lấy khoảng không trống rỗng” (15/10/1966);

 

·        “Hỏa ngục chỉ thu nhặt được những cặn bă xấu nhất của nhân loại. Con hăy tin rằng trước khi đành bỏ cho hỏa ngục một linh hồn, Cha đă thử dùng mọi phương thế theo ḷng thương xót của Cha, để cứu rỗi linh hồn ấy. Ai là người muốn được cứu rỗi? Người công chính và tội nhân thống hối. Ai từ chối không muốn được cứu rỗi? Kẻ tội lỗi cứng ḷng. Ai sẽ được cứu rỗi? Người ao ước được cứu rỗi với ḷng tin tưởng và cậy trông. Trái tim Cha âu yếm ghé xuống với người tự hạ. Thế giới là ǵ? Là sa mạc của các linh hồn. Không có ǵ lập cư ở đó, ngoài cái sẽ tan biến măi măi. Bụi và tro bao giờ cũng sản xuất ra tro và bụi. Các con Cha ơi! Các con đáng thương của Cha!” (4/10/1967)