ÂN SỦNG HAY SỰ DỮ THẮNG NƠI LINH HỒN XƯNG TỘI RỒI LẠI TÁI PHẠM MÃI KHÔNG CHỪA ĐƯỢC CÙNG MỘT TỘI PHẠM
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL
Chúa Kitô đã chết đi để hủy diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống. Sự sống được Người phục hồi bằng sự sống lại của Người không phải chỉ là sự sống phần xác mà trên hết và trước hết là sự sống phần hồn của nhân loại chúng ta. Bằng không, như thành phần dê cũng sống lại trong ngày cánh chung như thành phần chiên, song sau cuộc chung thẩm, thân xác phục sinh của họ không được biến đổi nên vinh hiển như thân xác phục sinh của Người, như thành phần chiên được hưởng phần gia tài được giành cho họ từ thuở đời đời. Chỉ vì linh hồn họ đã không phục sinh, không có sự sống. Đó là lý do mới có vấn đề càng thánh thiện càng cần phải cải thiện để giải quyết lập luận đi xưng tội mà làm gì vì sau khi xưng cứ tái đi tái lại cùng một tội, phải chăng ân sủng của Thiên Chúa không thể thắng được đam mê tội lỗi nơi con người?
Có một người chồng hay than với tôi về một cô vợ trẻ đẹp trở lại lấy anh ta là cô ấy không chịu đi xưng tội, với lập luận rằng xưng tội mà làm gì, xưng rồi lại tái phạm. Tôi đã đề nghị với anh ta là lần sau khi cô ta giở chứng như thế thì thử hỏi cô ta rằng nếu vậy thì tại sao em biết rằng ăn rồi sẽ đói em lại cứ ăn!
Vào năm 1992, khi tổ chức và chia sẻ tĩnh huấn cho giới trẻ Thiếu Nhi Fatima, tôi thường nói rằng "cáng thánh thiện càng phải cải thiện". Mới hôm Thứ Bảy Đầu Tháng 1/3/2008, một trong huynh trưởng từ hồi ấy nay đã khấn trọn trong một dòng tu đã nói với tôi rằng khi vào dòng rồi mới hiểu được câu nói đó.
Thật vậy, một người ở trong tăm tối, vì không thấy rõ mình, cho bằng người ở ngoài ánh sáng, thấy mình rõ hơn. Bởi thế, những ai sợ ánh sáng hay còn ở trong tăm tối thì khi được thúc giục đi xưng tội thường có luận điệu là có tội gì đâu mà xưng. Trong khi đó, thành phần ở trong Thiên Chúa là ánh sáng, lại càng thấy mình tội lỗi và nhiều tội lỗi, cần phải xưng tội hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng.
Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là tác dụng của ân sủng nơi Bí Tích Giải Tội như thế nào nơi con người thật lòng ăn năn thống hối và quyết tâm cải thiện đời sống mà vẫn không sao chừa được tính mê nết xấu hay tội lỗi xưng đi thú lại của mình, thế thì ân sủng không có công hiệu và thắng được sự dữ hay sao. Đó là vấn đề được một em giới trẻ Thiếu Nhi Fatima đặt ra với tôi qua điện thư dưới đây và cũng đã được tôi trả lời bằng điện thư cho em như sau:
----- Original Message -----
From: "Mr. Quan Nguyen" <kissme18@hotmail.com>
To: <hailmaryqueen@thoidiemmaria.net>
Sent: Wednesday, April 06, 2005 6:06 PM
Subject: Question
Xin tha^n me^'n cha`o Chu' va` lo*`i tha(m dde^'n gia ddi`nh. Cha'u co' ca^u ho?i nho*`
Chu' elaborate du`m the^m. Cho cha'u xin dda'nh ba(`ng tie^'ng Anh.
I have learned that everytime we sin, i'm encouraged, or maybe mandatory to go confession right after.
And during confession, i'm seriously sorry for my sins and honestly try my best to not sin again.
From
this confession, i
gained graces and blessings if i'm not mistaken. And from these graces and
blessings,
it helps me not to sin. But as we all know...that's not likely the case. I am doomed to fail and sin the
same
sins over and over again. So
my question is, is God's graces and blessings stronger? or is the evil and
temptation stronger??
Because evidently....everyone sins over and over again, which seems like sins and temptation over
shadows the graces of our God.
Cha'u muo^'n nghe the^m ve^` su*. suy nghi~ cu?a Chu'. Xin ca'm o*n.
----- Original Message -----
From: "Tinh Cao" <hailmaryqueen@thoidiemmaria.net>
To: "Mr. Quan Nguyen" <kissme18@hotmail.com>
Sent: Friday, April 08, 2005 1:28 PM
Subject: Re: Question
Quân mến,
Sorry không thể trả lời cho Quân ngay được vì nhiều chuyện phải làm theo thứ tự ưu tiên của nó.
Về những gì Quân đặt ra, từ cảm nghiệm sống đạo đến vấn đề đức tin, có thể tóm như sau:
1) Cảm nghiệm sống đạo: Con người chúng ta không thể nào giữ mình sạch tội - "But as we all know...that's not likely the case. I am doomed to fail and sin the same sins over and over again."
2) Vấn đề đức tin: Nếu con người không thể giữ mình sạch tội thì ơn cứu độ (salvation) của Thiên Chúa không có công hiệu hay tác dụng (effect) nơi con người - "So my question is, is God's graces and blessings stronger? or is the evil and temptation stronger?? Because evidently....everyone sins over and over again, which seems like sins and temptation over shadows the graces of our God."
Vấn đề của Quân đặt ra ở đây có thể tóm lại như sau: Con người tội nhân chúng ta có thể nên thánh được hay chăng?
Trước hết, không ai có thể chối cãi (deny) được rằng trên thế gian này có những vị thánh, cho dù không phải là Kitô hữu.
Chẳng hạn Đức Phật (Buddha: 560-477 BC) bên Phật giáo (Buddhism), hay Đức Khổng (Confucius: 551-479 BC) bên Khổng giáo (Confucianism) v.v., những con người không có hay chưa có ơn cứu độ của Chúa Kitô (vì sinh ra trước Ngài) mà cũng đã có thể sống vượt trên tầm mức của một con người tự nhiên, đến nỗi có thể giảng dạy cho con người con đường cứu độ, con đường giải thoát (the way of salvation), làm cho con người cảm phục và tôn sùng cho tới ngày nay cả 2500 năm.
Còn Kitô giáo chúng ta, ngay trong thời hiện đại của chúng ta đây (in our modern/comtemporary time), đã có những vị nổi tiếng là thánh ngay khi còn sống, điển hình nhất là Mẹ Têrêsa Calcutta, hay ngay khi vừa qua đời, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Những vị này có một đời sống phi thường, đến nỗi, đã làm cho cả thế giới phải cảm phục và suy tôn, một lòng cảm phục và suy tôn được tỏ ra một cách rõ ràng nhất qua tang lễ (funeral ceremony/Mass) vĩ đại chưa từng thấy của các vị trong lịch sử loài người.
Nếu chúng ta không thể chối cãi được trên thế gian này có những con người phi thường (extraordinary persons), dù rất hiếm, những con người được Kitô hữu chúng ta gọi là Thánh nhân (saint), như Mẹ Têrêsa Calcutta hay Đức Gioan Phaolô II, và gọi là thánh nhân quân tử hay vĩ nhân tôn giáo (great man), như Đức Phật hay Đức Khổng, thì chúng ta cũng không thể phủ nhận được vấn đề con người có thể nên thánh.
Đó là lý do vấn đề cần phải giải quyết hay giải đáp ở đây là làm sao (how) những nhân vật được gọi là Thánh nhân hay vĩ nhân ấy, cũng là người tội lỗi như chúng ta, lại có thể nên Thánh, nên cao cả như vậy?
Theo tín lý (belief) và tu đức (spirituality) Kitô giáo thì:
1) Con người không thể tự cứu độ (self-saved), như bên Phật giáo chủ trương (Buddhism's belief/conviction). Đó là lý do, sau khi hai nguyên tổ sa ngã phạm tội theo tự do của mình, làm điều nghịch lại ý muốn tối cao của Đấng Tạo Dựng nên mình, thì Thiên Chúa đã tự động hứa ban đấng cứu độ cho con người là Chúa Giêsu Kitô (xem Genesis 3:15);
2) Chúa Giêsu Kitô là Lời Nhập Thể (God incarnate) thực sự đã cứu độ con người bằng cuộc Vượt Qua (Paschal) của Người, tức bằng việc Người Tử Nạn (Passion) và Phục Sinh (Resurrection), để chẳng những giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết (free human being from sin and death), mà còn ban sự sống thần linh (divine life) cho con người bằng Thánh Thần Người thông cho con người nữa (xem John 3:1-5 and 20:22).
3) Con người mắc nguyên tội (original sin) được cứu độ, tức được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết cũng như được sự sống thần linh khi họ lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, một bí tích làm cho họ trở thành con cái Thiên Chúa, làm cho họ được hiệp thông với Thiên Chúa (communion with God), nhờ Thánh Thần (Holy Spirit) ngự trong họ, vị Thánh Thần sẽ làm cho họ nhận biết Chúa Kitô, nên một với Chúa Kitô (union with Christ), nên giống Chúa Kitô (become another Christ), cho đến khi họ thực sự trở thành chứng nhân của Chúa Kitô (Christ's witness), như một Mẹ Têrêsa Calcutta hay một Đức Gioan Phaolô II.
4) Cho dù con người, nhờ Bí Tích Rửa Tội, đã được cứu độ, thế nhưng, sự sống thần linh con người lãnh nhận từ ban đầu ấy mới chỉ như là một hạt giống (seed) gieo vào mảnh đất nhân tính (the ground of our humnanity) của con người Kitô hữu mà thôi, một hạt giống thần linh chỉ có thể nẩy nở (develop) thành một cây cao lớn khi gặp được một mảnh đất tốt (good soil), bằng không, theo tự nhiên (according to natural law), nó sẽ bị chết đi (corrupted) hay chẳng sinh hoa trái gì, như trong dụ ngôn người gieo giống cho thấy (xem Matthew 13:4-23).
5) Như thế, việc nên thánh của con người tội nhân chúng ta, nhất là của thành phần tội nhân song đã được thánh hóa (santification), đã trở nên Thánh, nhờ sự sống thần linh nơi linh hồn của chúng ta khi chúng ta lãnh nhận Phép Rửa, là việc chúng ta cộng tác với ơn Chúa, tức là việc chúng ta làm sao cho tâm hồn mình trở thành một mảnh đất tốt, để cho sự sống thần linh như một hạt giống được gieo nơi chúng ta sau khi chúng ta lãnh nhận Phép Rửa ấy có thể nẩy mầm, mọc lên và phát triển.
6) Để cho mảnh đất tâm hồn của chúng ta có thể trở thành một mảnh đất tốt cho sự sống thần linh như hạt giống nẩy mầm, mọc lên và phát triển trọn vẹn (completely), Kitô hữu chúng ta cần phải làm hai điều, nhổ cỏ (về phương diện tiêu cực - negatively) và chăm bón (về phương diện tích cực - positively): "Nhổ cỏ" ở chỗ hy sinh hãm mình, tránh dịp tội và sửa các tính mê nết xấu; "chăm bón" ở chỗ đọc kinh cầu nguyện và năng chịu các bí tích, nhất là Bí Tích Hòa Giải và Thánh Thể. Không một vị thánh Kitô giáo nào đã nên thánh mà lại không làm hai điều căn bản tối ư quan trọng và bất khả châm chước (no exception) này.
7) Nếu thực sự chúng ta đã cố gắng hết sức (try our best) để thực hiện cả hai phương diện tiêu cực lẫn tích cực như thế, tức chúng ta tỏ ra thực sự muốn nên thánh, muốn sống xứng đáng với ơn gọi làm con Thiên Chúa của mình, thì chắc chắn 100%: "Ai khao khát nhân đức trọn lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no thỏa vậy - Blest are they who hunger and thirst for holiness; they shall have their fill" (Matthew 5:6).
8) Nếu chúng ta thực sự có lòng khao khát nhân đức trọn lành này, chúng ta chẳng những không nản chí khi thấy mình cứ sa đi ngã lại hoài một tội mình muốn chừa và xưng thú, trái lại, còn vì thế và chính vì thế (vì cảm thấy mình vô cùng yếu đuối bất lực) mà tin tưởng mãnh liệt hơn nữa vào lòng thương xót Chúa, để rồi, chính khi chúng ta biết mình và vào sâu trong lòng thương xót Chúa là chúng ta đã nên thánh một cách short cut rồi vậy, như trường hợp của người trộm lành treo phải phải thập giá Chúa Kitô (xem Luca 23:39-43).
9) Như thế, nên thánh ở đây còn là và chính là biết mình vô cùng yếu đuối bất lực và hoàn toàn tin tưởng vào lòng thương xót Chúa, nhờ đó, con người tội nhân chúng ta chẳng những không dám khinh thường bất cứ một tội nhân nào (xem Luke 18:9-14), trái lại, còn biết cảm thông với những ai sa ngã phạm tội, để hy sinh cầu nguyện cho họ như Thiếu Nhi Fatima Giaxinta, nhất là biết tha thứ cho cả những người làm khốn mình, phạm đến mình, thì không phải mình đã nên giống Chúa Kitô (xem Luke 23:34), đã nên trọn lành như Cha trên trời (xem Matthew 5:43-48; Lk 6:35-36) rồi hay sao?
10) Tóm lại, việc nên thánh là do Chúa hơn là do con người. Chúa muốn chúng ta nên thánh thế nào thì chúng ta nên thánh như vậy. Nếu chúng ta không thể nên thánh như Mẹ Têrêsa Calcutta hay như Đức Gioan Phaolô II, chúng ta vẫn có thể nên thánh short cut như người trộm lành, bằng cách không thôi khao khát nhân đức trọn lành, một lòng khao khát được tỏ ra bằng nhận thức con người vô cùng yêu đuối bất lực của mình để hoàn toàn tin tưởng vào lòng thương xót Chúa. Dù nên thánh cách nào đi nữa, Kitô hữu chúng ta cũng gặp nhau ở chỗ lòng thương xót Chúa: Nếu con người nên thánh "lớn" là con người đã được lòng thương xót Chúa chiếm đoạt để trở thành dụng cụ ban phát lòng thương xót Chúa cho tội nhân, như Mẹ Têrêsa Calcutta và Đức Gioan Phaolô II, thì con người nên thánh "nhỏ" là con người cần đến lòng thương xót Chúa hơn, để càng ngày họ càng nhật biết mình yếu đuối bất lực mà tin tưởng vào lòng thương xót Chúa.
Lời Nguyện Fatima sau mỗi chục kinh như Đức Mẹ dạy: "Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn".
Lời than thở Chúa Giêsu dạy chị Thánh Faustina viết ở dưới bức ảnh Chúa Tình Thương: "Chúa Giêsu ơi, con tin tưởng nơi Chúa".
Chúc Thiếu Nhi Fatima Quân trở thành Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa.
TNF Cao Tấn Tĩnh