Cửa Vào 2:

Thiên Chúa Không Thể Chối Bỏ Chính Ḿnh

 

Trên thực tế, "Mầu Nhiệm Yêu Thương" này đă được bắt đầu từ nguyên tắc triết lư hết sức tâm lư và thực nghiệm do chính miệng Thiên Chúa phán ra là: "Của ở đâu ḷng ở đó" (Mt. 6:21).

 

"Của ở đâu ḷng ở đó" nghĩa là ǵ, nếu không phải, như kinh nghiệm mỗi người cho thấy, ḿnh yêu thích cái ǵ, vật ǵ hay người nào th́ tâm trí  của ḿnh luôn luôn qui hướng về đối tượng đó, gắn liền với đối tượng đó. Chính v́ thế mà nhân gian mới có câu "hữu duyên thiên lư năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng": có yêu thương nhau th́ ngh́n trùng xa cách cũng vẫn có thể gần nhau, bằng nếu không yêu thương nhau th́ cho dù gần nhau cũng không gặp nhau được.

 

Vậy, nếu đă công nhận chân lư "Thiên Chúa là T́nh Yêu" (1Gn 4:8,16), tức công nhận T́nh Yêu là bản tính của Thiên Chúa, từ đó cũng công nhận Thiên Chúa không thể nào c̣n là và thực là Thiên Chúa, nếu Ngài không yêu thương, th́ theo đó, căn cứ vào nguyên tắc "của ở đâu ḷng ở đó" không thể sai lầm này, cũng phải nhận thực rằng, cho dù loài người có tội lỗi, Thiên Chúa vẫn ở với loài người:

"Nếu chúng ta phủ-nhận/chối-bỏ Người (Chúa Giêsu Kitô) th́ Người cũng phủ- nhận/chối-bỏ chúng ta. Nếu chúng ta bất trung, Người vẫn trung thành, v́ Người không thể phủ-nhận/chối-bỏ chính ḿnh Người" (2Timôthêu 2:12-13).

 

Chúng ta nên chú ư đến cách dùng chữ rất rơ ràng của thánh Phaolô trong thư ngài gửi cho môn đệ Timôthêu trên đây. Thiên Chúa nhất định và chỉ "phủ nhận" (deny) con người, tức không tha cho con người, như không tha cho thành phần dê trong trường hợp của dụ ngôn chung thẩm: "Đi cho khuất mắt Ta, hỡi những kẻ bị luận phạt..." (Mt 25:41), nếu con người "phủ nhận" (deny) Người, tức là khi "Người đến với (con người) nhưng (con người) không chấp nhận Người" (Gn 1:11), Đấng tỏ ḿnh "là T́nh Yêu" ra cho họ, (theo ư nghĩa vừa diễn giải với những hàng chữ đậm ở cuối trang 12 và đầu trang 13).

 

Tuy nhiên, nếu con người chưa phạm tội đến độ "phủ nhận" Thiên Chúa, tức "phủ nhận" "Lời đă hóa thành nhục thể" (Gn 1:14), "phủ nhận" Chân Lư là thực tại Thiên Chúa muốn tỏ cho ḿnh, mà chỉ mới "bất trung" (unfaithful) với Người, tức mới phạm đến những điều Thiên Chúa cấm không được làm, như trường hợp Adong "nghe vợ mà ăn cây (Thiên Chúa) cấm không được ăn" (KN 3:17), th́ Thiên Chúa vẫn "trung thành" (faithful) với con người. Lư do là v́ "Người không thể phủ-nhận/chối-bỏ (deny) chính ḿnh Người".

 

Chúa Giêsu Kitô, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Gn 1:14), đă "chứng tỏ t́nh yêu của Ngài đối với chúng ta' đó là đang khi chúng ta c̣n là những tội nhân th́ Chúa Kitô đă chết cho chúng ta" (Rm 5:8), chỉ v́ "Thiên Chúa không thể phủ-nhận/chối-bỏ chính ḿnh Người", như thế, đă khẳng định và thừa nhận niềm xác tín đă được tuyên xưng ở trên: "Cho dù loài người có tội lỗi, Thiên Chúa vẫn "ở với" loài người", tức vẫn "yêu thươn" con người, vẫn "gắn bó" với con người!

 

Tuy nhiên, niềm xác tín không thể sai lầm được căn cứ vào nền tảng Thánh Kinh chân thật này, (cũng như vào những Lời Thỏ Thẻ của Chúa Giêsu sẽ được trích dẫn trong sách này), không phản lại với đức tin của Giáo Hội Chúa Kitô dạy. Theo "Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo" (Catéchisme De L'Église Catholique - Catechism of the Catholic Church) hiện đại, khoản 1472, th́:

"Tội có một hậu quả lưỡng đôi (une double conséquence - a double consequence). Tội trọng (le péché grave - grave sin) làm cho chúng ta mất đi mối hiệp thông với Thiên Chúa (nous prive de la communion avec Dieu - deprives us of communion with God) và do đó làm cho chúng ta không xứng hợp với sự sống đời đời (et par là il nous rend incapables de la vie éternelle - and therefore makes us incapable of eternal life), một sự hụt mất bởi tội được gọi là 'h́nh phạt đời đời' (dont la privation s'appelle la 'peine éternelle' du péché - the privation of which is called the 'eternal punishment' of sin)... Hai h́nh phạt này (kể cả 'h́nh phạt tạm thời' ở trong luyện ngục bởi tội nhẹ)  không được quan niệm (ne doivent pas être concues - must not be conceived of) như một thứ báo oán từ bên ngoài bởi Thiên Chúa giáng xuống (comme une espèce de vengeance, infligée par Dieu de l'extérieur - as a kind of vengeance inflicted by God from without), nhưng là từ chính bản chất của tội mà ra (mais bien comme découlant de la nature même du péché - but as following from the very nature of sin)".

 

Theo Giáo Lư trên, Giáo Hội Công Giáo đă minh xác những điểm sau đây:

1.         "Tội trọng làm cho chúng ta mất đi sự hiệp thông với Thiên Chúa", chứ không phải Thiên Chúa tự dứt t́nh với con người. Người con hoang đàng tự bỏ Cha mà đi, cũng là bỏ "gia đ́nh" hay  bỏ "nhà" (Gn 8:35), nơi "hiệp thông" và cũng là biểu tượng cho chính "sự hiệp thông", mà đi, chứ Cha không bao giờ tự động đuổi con ḿnh ra khỏi "nhà", khỏi "sự hiệp thông" của t́nh nghĩa cha con, không coi nó là con ḿnh nữa. Trái lại, dù có bị con cái của ḿnh bỏ ḿnh hằng yêu thương nó, không bao giờ làm hại nó, mà đi, người Cha vẫn chờ đứa con đáng thương đó trở về và chờ cho đến khi nào nó thực sự trở về với ḿnh mới thôi (x. Lc 15:11-24).

 

2.         "H́nh phạt không được quan niệm như một thứ báo oán từ bên ngoài bởi Thiên Chúa giáng xuống, nhưng là từ chính bản chất của tội mà ra". Cảnh lầm than khốn cùng mà người con hoang đàng phải chịu, sau khi đă phung phá hết gia tài "ân sủng" được Cha chia cho như ư  muốn của hắn, không phải là do chính cuộc sống buông tuồng của hắn gây ra hay sao? Cha của hắn chẳng những không phải là tác nhân gây ra tai họa cho hắn, trái lại, người Cha vẫn ở nhà ngong ngóng chờ hắn trở về để có thể bù đắp cho hắn tất cả những ǵ hắn đă làm mất và đă chịu đựng nữa. Miễn là, phải, miễn là, khi c̣n thời giờ, người con tội lỗi nhận thức được ḿnh "bất trung" (unfaithful) với Cha, song không "phủ nhận" (deny) Cha ḿnh, để có thể dứt khoát "lên đường trở về với Cha".

           

            Cả trong trường hợp giả sử người con hoang đàng, sau khi đă nhận thức được ḿnh "bất trung" với Cha và nhất định không trở về với Cha, th́ cũng không phải là người Cha trực tiếp "phủ nhận" (deny) người con vô cùng khốn nạn của ḿnh, cho bằng chính nó đă bất hạnh tự sát  nó, tự chấp nhận lấy cái chết đời đời, "sự chết thứ hai" (Khải Huyền 20:14), hơn là "chấp nhận" Cha ḿnh để "như chết mà được sống lại".

 

            Vẫn biết việc đứa con hoang đàng có tự sát và bị chết trong "sự chết thứ hai", cái chết đời đời, là do tự nó, chứ không phải tự Cha nó. Thế nhưng, ngay trong chính lúc nó tuyệt vọng và không thể nào đủ sức để có thể vùng đứng lên trở về với Cha cho được tái sinh, nếu bấy giờ người Cha lại đến với nó và ở bên cạnh nó, số phận đời đời vô cùng khốn nạn của nó đă không xẩy ra chăng?

            Điều này có nghĩa là, thay v́ người Cha chỉ ngồi ở nhà chờ đứa con hoang đàng của ḿnh trở về một cách có vẻ thụ động, th́ hăy chủ động đứng lên đi t́m nó về' bằng không, một cách nào đó, trong con mắt của thành phần "kiêu ngạo oai quyền giầu có", người Cha, không nhiều th́ ít, cũng dính dáng đến việc hư mất thật tội nghiệp cho đứa con của ông.

 

            Thật ra, không phải người Cha, với bản tính là T́nh Yêu, là Đấng Trọn Lành trên trời, vô cùng yêu thương con cái, đă không hiểu ǵ về con cái của ḿnh và đă không biết đi t́m đứa con đáng thương của ḿnh đâu. Thánh Kinh chẳng những định nghĩa bản tính "Thiên Chúa là T́nh Yêu" (1Gn 4:8,16), mà c̣n minh chứng "Thiên Chúa là T́nh Yêu" ở chỗ nào và có tác dụng ra sao nữa, khi tuyên bố:

1.         "T́nh yêu của Thiên Chúa được tỏ cho chúng ta như thế này: Ngài đă sai Con Một của Ngài đến thế gian để chúng ta nhờ Con mà được sống" (1Gn 4:9).

2.         "Phần chúng ta, hăy yêu thương v́ Thiên Chúa đă yêu chúng ta trước" (1Gn 4:19).

 

            Vâng, "Thiên Chúa đă yêu chúng ta" trước, yêu "đến nỗi" (Gn 3:16) "đă sai Con Một của Ngài đến thế gian", để t́m kiếm từng con chiên lạc, dù chỉ một con, một con cuối cùng, con thứ 100 (x.Mt Lc 15:4-7), và t́m kiếm "tới cùng" (Gn 13:1), tới độ "tự ư" (Gn 10:18) "thí mạng sống ḿnh cho chiên được sống và sống viên măn" (Gn 10:11,10), và t́m kiếm tới nỗi:

            "Người sẽ không bẻ gẫy cây sậy bị dập và sẽ không dụi tắt ngọn bấc c̣n khói" (Is 41:4).

 

            Gia tài mà người Cha chia cho con, theo như lời nó yêu cầu, không phải là chính Thánh Sủng được ban cho nó qua Bí Tích Thánh Tẩy mà nó lănh nhận "nhân danh Chúa Giêsu Kitô" (TĐCV 10:48) hay  sao? Như thế, theo lư, người Cha đă đi t́m con và cứu nó về rồi, nó lại bỏ Cha mà đi, th́ Cha đâu cần phải đi t́m nó nữa. Phần người con, v́ đă tự ư ḿnh xin Cha chia gia tài thuộc về nó th́ phải có trách nhiệm nơi những ǵ vô cùng cao qúi do Cha trao cho mới phải. "Trách nhiệm" này là ǵ, nếu không phải là đáp lại t́nh yêu của Cha, bằng cách ǵn giữ và làm phong phú hóa "những ǵ của cha cũng là của con" (Lc 15:31).

 

            "Mầu Nhiệm Yêu Thương" được biểu lộ nơi Hiện Tượng Siêu Nhiên "người đă có lại càng thêm dồi dào" và được phát sinh từ Thực Tại Thần Linh "Thiên Chúa không thể chối bỏ chính ḿnh", để tiếp tục được linh động bằng Sự Sống Trọn Hảo như sau của "Mầu Nhiệm Yêu Thương".