TÔNG ĐỒ GIỚI TRẺ

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 

 

-5-

Vấn Nạn Giới Trẻ

 

            Đi sâu vào "trong lòng giới trẻ" bao nhiêu người tông đồ giới trẻ mới càng thấy rằng giới trẻ thật sự khát khao và tìm kiếm chân thiện mỹ. Khuynh hưóng tìm kiếm và khát vọng chân thiện mỹ này nơi giới trẻ có thể được tỏ hiện qua nhiều hình thức khác nhau, như được trình bày ở những chương trước đây. Tuy nhiên, còn một hình thức dễ nhận thấy nữa cần được bàn đến ở chương này, đó là những vấn nạn của họ. Chẳng hạn một vài vấn nạn hết sức tiêu biểu mà giới trẻ trong phong trào tôi phục vụ đã hỏi tôi trong những dịp học hỏi và chia sẻ sau đây:

 

            1- Tại sao con người, cả tinh thần lẫn thể xác, cao qúi và cần phải được tôn trọng, mà Công Giáo lại chủ trương bỏ mình?

            2- Tại sao Chúa lại tỏ ra độc ác đến nỗi ra lệnh cho vua Saolê đem quân đi đánh và giết sạch hết mọi người cũng như thú vật của dân Amalek?

            3- Làm sao có thể phân biệt được đâu là tiên tri giả hay phản Kitô để mà tránh và không bị lừa?

            4- Tại sao Chúa để mình sa ngã rồi cứu, và sau khi đã được Chúa cứu rồi mình còn sa ngã?

            5- Nếu Đức Mẹ từ chối khi được thiên thần truyền tin chịu thai Con Thiên Chúa, thì Đức Mẹ có còn vô nhiễm nguyên tội hay không?

 

            Vấn nạn thứ nhất về ý nghĩa hy sinh bỏ mình. Vấn nạn này do một huynh trưởng phái nữ 23 tuổi hỏi tôi vào một ngày thứ Bảy Đầu Tháng, 4/9/1993, khi tôi đang chia sẻ về đề tài "giới trẻ vào đời". Câu trả lời của tôi đã được ghi lại ngay đoạn mở đầu của phần nhập đề trong cuốn "Mầu Nhiệm Kitô Hữu" (Cao Tấn Tĩnh, Cao-Bùi 1994, trang 7-9), như sau: "Bỏ minh đối với Công Giáo không có là tự hủy, mà là, như Chúa Kitô đã chết đi rồi mới phục sinh, hay như hạt lúa miến có mục nát đi mới trổ sinh nhiều hoa trái. Chưa cần nói đến lãnh vực siêu nhiên, chỉ mới ở lãnh vực tự nhiên, con người cũng đã cần phải bỏ mình rồi. Về phương diện tiêu cực, cứ sống theo tình dục, theo tự ái, kết quả sẽ là những gì? Nếu không phải, như kinh nghiệm của mỗi người cho thấy, toàn là triền miên bất mãn, bất an và bất hạnh. Về phương diện tích cực, làm việc gì thì làm, học hành, làm ăn, yêu đương v.v., muốn đạt được kết qủa mỹ mãn, thực tế cũng cho thấy, đều phải hy sinh bỏ mình. Trong một thế giới nồng nặc hiện sinh và quay cuồng theo cá nhân chủ nghĩa như thế, vẫn không thiếu những con người, chẳng những không bị phản ứng bởi bầu khí cá nhân hưởng thụ đầy ô nhiễm hiện đại, trái lại, còn trở nên những dấu chỉ phục sinh. Đó là những tâm hồn tận hiến đang hân hoan tự nguyện theo đuổi ơn gọi tu trì Công Giáo, không cưới vợ gả chồng, sống như các thần trời. Bỏ mình đích thực của đạo Công Giáo, như thế, về lý thuyết, có một ý nghĩa hoàn toàn tích cực, chính đáng, làm cho con người thăng tiến và thánh thiện, chứ không làm cho họ bị băng hoại, tục hóa, và về thực hành, nó chính là một tiến trình trong việc biến thể, chứ không phải trong việc hủy thể. Đó là mầu nhiệm Kitô hữu".

 

            Vấn nạn thứ hai về việc Thiên Chúa làm có vẻ ác độc trong Cựu Ước. Vấn nạn này do một huynh trưởng nam 24 tuổi hỏi tôi vào một ngày Chúa Nhật, 9/7/1994, sau khi đoàn thiếu nhi của em nghe tôi kể lại câu truyện liên quan đến câu "vâng lời trọng hơn của lễ". Tôi đã trả lời vấn nạn này của họ như sau. Trước hết, dân Amalek dám đánh dân Do Thái là Dân của Chúa thì chẳng khác gì họ phạm đến Chúa. Do đó, Chúa có quyền dùng tay dân Do Thái để trừng phạt họ xứng đáng với tội của họ. Thứ hai, việc Chúa dùng dân Do Thái để trừng phạt dân Amalek ở đây, cũng như ở những trường hợp khác được thuật lại trong Cựu Ước, ý định của Thiên Chúa là muốn tỏ mình ra cho cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, để cả hai, (dân Chúa nhờ Ngài chiến thắng và dân ngoại cậy mình bị thua cuộc), có thể nhờ đó nhận biết trên thế gian này chỉ có Ngài là Thiên Chúa, ngoài ra không có một Chúa nào khác nữa.

 

            Vấn nạn thứ ba về cách điểm mặt thành phần tiên tri giả và phản Kitô. Vấn nạn này do một dự trưởng nam 20 tuổi hỏi tôi vào một tối thứ bảy hằng tuần trong khi chia sẻ Lời Chúa về bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 thường niên năm C, ngày 19/11/1995. Tôi đã giải đáp vấn nạn này như sau. Thật ra chúng ta không ai biết Chúa Kitô như thế nào. Kể cả các tông đồ sống ngay bên Chúa đi nữa, thế mà cuối cùng cũng có một vị phản bội, một vị chối bỏ và tất cả đều trốn chạy khi Người bị bắt. Đó là lý do Chúa Kitô đã hỏi các tông đồ xem người ta và các vị nghĩ Người là ai.  Để bổ túc câu tuyên xưng của tông đồ Phêrô: "Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống", Chúa Kitô còn xác định thêm về thân phận của "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống này", khi tiết lộ cho các vị biết rằng "Con Người sẽ phải chịu khổ nạn... và được phục sinh". Như thế, Chúa Kitô thật là một Chúa Kitô có hai bản tính, gồm có thần tính là "Con Thiên Chúa hằng sống", và nhân tính là "Con Người sẽ phải chịu khổ nạn", nhưng nhờ thần tính mà nhân tính được "phục sinh". Vậy tất cả những chũ trương hay tinh thần nào không công nhận hay rao giảng một Đức Kitô chân thật này đều là "tiên tri gỉa" hay "phản Kitô". Điển hình nhất hiện nay là trào lưu thử thai, nếu khám phá ra thai nhi bị tật nguyền thì liền phá đi, hay việc luật pháp cho phép giết người nhân đạo trước khi sự sống tự mình chấm dứt. Chủ trương sát hại những gì có vẻ xấu xí hay không có lợi cho loài người và đối với loài người như thế nghĩa là gì, nếu không phải là con người chỉ chấp nhận một Đức Kitô "Con Thiên Chúa hằng sống" tốt lành, hoàn toàn phủ nhận một Đức Kitô "Con Người khổ nạn".  "Tiên tri giả" và "phản Kitô" là như thế đó.

 

            Vấn nạn thứ bốn về mầu nhiệm và thần lực ơn cứu độ của Thiên Chúa. Vấn nạn này do một thiếu sinh 9 tuổi hỏi riêng tôi vào ngày lễ Hiển Linh 7/1/1995. Tôi hoàn toàn giật mình về vấn nạn này không ngờ lại phát xuất từ một con người nhỏ bé như vậy. Tôi đã cố gắng trả lời cho em theo trình độ hiểu biết của em thế này. Sở dĩ "Chúa để mình sa ngã rồi cứu" là vì Chúa biết rằng Chúa có thể lợi dụng (take advantage) việc con người sa ngã để làm cho con người được trở nên tốt hơn (become better). Nếu con người tốt lành, tức không sa ngã, Chúa có yêu con người thì tình yêu của Ngài cũng thường (normal) thôi, phải không. Nhưng khi con người đã trở nên xấu (bad guy) rồi mà Chúa vẫn còn thương họ thì tình yêu của Ngài mới trọn lành (perfect) hơn phải không. Và khi thấy mình tội lỗi mà Chúa vẫn yêu thương mình, con người sẽ yêu mến Chúa hơn, nhờ đó con người sẽ nên tốt hơn phải không. Còn lý do tại sao "Chúa đã cứu mình rồi mà mình còn sa ngã", là bởi vì Chúa muốn cho mỗi một người Kitô hữu thấy rằng, họ được cứu là do ơn Chúa (grace) và nên thánh (become a saint) cũng là do ơn của Ngài. Chúa cứu con người là cứu con người khỏi tội lỗi và sự chết, có nghiã là Chúa cứu chung con người khỏi tội lỗi do hai nguyên tổ Adong-Evà gây ra, đồng thời Ngài cũng cứu họ khỏi sự chết là hậu qủa của tội tổ tông. Trên thực tế (in reality) con người đã được cứu khỏi tội lỗi khi họ lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Còn việc con người được cứu khỏi sự chết thì chưa xẩy ra bây giờ, mà sẽ xẩy ra vào ngày tận thế. Chính vì thế mà con người vẫn phải chết đi rồi mới được sống lại trong ngày tận thế. Cũng vì con người còn phải chết như thế, nên họ vẫn còn mang (carry) những dấu vết (marks) của tội nguyên tổ, cho dù họ đã được cứu khỏi tội ấy khi chiụ phép rửa tội. Những dấu vết của tội nguyên tổ đó là tính mê nết xấu (vice), đam mê nhục dục (lust) chẳng hạn. Vì còn những dấu vết của tội tổ tông trong mình như thế, do đó mà con người vẫn còn có thể sa ngã phạm tội mỗi khi gặp chước cám dỗ (temptation) hay bị thử thách (trial). Thế nhưng, vì con người đã được cứu, nghĩa là đã được ơn nghĩa Chúa, nên họ sẽ có đủ ơn Chúa để làm chủ được những dấu vết của tội tổ tông nơi con người của mình, nhờ đó, họ sẽ không hay đỡ sa ngã phạm tội. Đó là lý do con người Kitô hữu chúng ta phải luôn luôn kết hợp với Chúa (union with God or communion with God) là Đấng ở trong mình từ khi chịu phép rửa tội, họ mới có thể giữ mình sạch tội. Mà việc con người tỏ ra kết hợp với Chúa, gắn bó với Chúa (cling to God) đây được thực hiện (to be performed) qua việc năng lãnh nhận các bí tích, như rước Chúa và xưng tội. Như thế, nếu nhờ ơn Chúa, qua các bí tích, mà người Kitô hữu giữ mình sạch tội và sống đẹp lòng Chúa thì, như đã nói: "là bởi vì Chúa muốn cho mỗi một người Kitô hữu thấy rằng, họ được cứu là do ơn Chúa (grace) và nên thánh (become a saint) cũng là do ơn của Ngài". Tóm lại, vấn nạn (question) này liên quan đến (related to) cả tội nguyên tổ (original sin) lẫn tội cá nhân (personal sin). Còn tại sao Thiên Chúa muốn để cho cả tội nguyên tổ lẫn tội cá nhân xẩy ra vì Ngài muốn con người có thể nhờ đó nhận biết (know) Ngài là Đấng trọn lành (perfect) để họ nên trọn lành như Ngài.

 

            Vấn nạn thứ năm về tác dụng của Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội nơi Mẹ Maria. Vấn nạn này do một em huynh trưởng nam 24 tuổi hỏi tôi vào ngày Thứ Bảy Đầu Tháng, 5/10/1996, khi tôi đang phân tách cho các em biết lý do tại sao ỡ Lộ Đức năm 1858, Mẹ tự xưng "Mẹ là Đấng đầu thai vô nhiễm nguyên tội", song ở Fatima Mẹ Maria lại xưng mình "Ta là Đức Bà Mân Côi". Tôi trả lời cho vấn nạn này như sau. Mẹ Maria được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, theo giáo lý Công Giáo, nghĩa là Mẹ được gìn giữ khỏi tội tổ tông. Ngoài ra, nhờ đặc ân này, Mẹ chẳng những không có một tội riêng nào, mà còn không có cả đam mê nhục dục nữa. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là Mẹ không bao giờ bị thử thách và không thể phạm tội mất lòng Chúa. Hai nguyên tổ trong vườn địa đàng, trước khi sa ngã cũng đâu có đam mê nhục dục, thế mà vẫn phạm tội mất lòng Chúa. Trường hợp "nếu Mẹ Maria từ chối lời thiên thần truyền tin trong việc thụ thai Con Thiên Chúa thì Mẹ có còn vô nhiễm nguyên tội hay không", không thể nào xẩy ra được. Bởi vì, nếu căn cứ vào Lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm thánh Mathêu, "ai trung tín trong những việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất trung trong việc nhỏ thì cũng bất trung trong việc lớn", thì Mẹ Maria "đầy ơn phúc" như lời thiên thần chào Mẹ trước khi truyền tin cho Mẹ, không thể nào không thưa "xin vâng" được. Thật vậy, Đức Mẹ "đầy ơn phúc" là gì, nếu không phải là Mẹ đã liên lỉ trung tín với ơn Chúa cho đến giây phút thiên thần chào kính Mẹ như thế, tức là không bao giờ Mẹ từ chối Chúa điều gì, bằng không, Mẹ đã không còn "đầy ơn phúc" nữa, và thiên thần Chúa chắc chắc cũng không kính cẩn kính chào Mẹ như thế. Chính vì vậy mà sau đó Mẹ Maria đã được bà chị Isave chúc tụng là "Em có phúc vì đã tin".

 

            Những vấn nạn trên đây thật ra cũng chỉ là một số vấn nạn tượng trưng cho khuynh hướng và khát vọng tìm kiếm chân thiện mỹ nơi một số giới trẻ sinh hoạt trong một phong trào ở địa phương mà thôi. Để đi sâu hơn vào "trong lòng giới trẻ" ở nhiều nơi trên thế giới, sau đây tôi xin soạn dịch, theo thứ tự thời gian, một số vấn nạn của giời trẻ gần đây đã hỏi chính Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II và đã được Ngài giải quyết. Thứ nhất, Ngài trả lời (câu 1, 2 và 3) cho giới trẻ ở Ngày Giới Trẻ Thế Giới, 14-1-1995, tại Manila nước Phi Luật Tân, (bản văn được trích dịch từ The Pope Speaks, Vol.40, No.4, July/August 1995). Thứ hai, Ngài trả lời (câu 3, 4 và 5) cho giới trẻ ở Trent nước Ý ngày 30-4-1995, (bản văn được trích dịch từ The Pope Speaks, Vol.40, No.6, November/December 1996). Thứ ba, Ngài trả lời (câu 6, 7, 8 và 9) cho giới trẻ ở giáo phận Como cũng nước Ý ngày 5-5-1996, (bản văn được trích dịch từ L'Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, N.20, phát hành ngày 15/5/1996). Thứ bốn, Ngài trả lời (câu 10) cho giới trẻ ở Slovenia ngày 18-5-1996, (bản văn được trích dịch từ L'Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, N.23, phát hành ngày 5/6/1996).

 

Vấn nạn 1:

            "Đức Thánh Cha mong ước gì nơi giới trẻ?"

            Trong cuốn "Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng", Cha đã viết "vấn đề nền tảng của giới trẻ là một vấn đề cá nhân sâu xa. Giới trẻ... biết rằng cuộc sống của họ có ý nghĩa cho đến độ nó trở nên một tặng vật hy hiến cho những người khác". Do đó, câu hỏi này nhắm đến một cách riêng tư mỗi một người trong các con. Các con có thể hiến mình, giờ giấc của mình, năng lực của mình, tài năng của mình cho lợi ích của những người khác chăng? Nếu các con làm được thì Giáo Hội và xã hội có thể mong nơi mỗi một người trong các con nhiều điều trọng đại. Ơn gọi yêu thương, hiểu theo nghĩa thực sự vươn mình đến những đồng loại của chúng ta và đoàn kết với họ, là ơn gọi căn bản nhất trong mọi ơn gọi. Nó là nguồn gốc của tất cả mọi ơn gọi trong đời sống.  Đó là điều Chúa Giêsu tìm kiếm nơi con người trẻ ấy khi Người phán: "Hãy giữ các giới răn" (Mk.10:19). Nói cách khác: đó là phụng sự Thiên Chúa và tha nhân theo mọi đòi hỏi của một con tim chân thật và chân chính. Thế rồi, sau khi người trẻ nói rằng anh ta đã theo đường lối đó, Chúa Giêsu liền kêu mời anh ta đến một tình yêu cao cả hơn: Hãy bỏ mọi sự, đến mà theo Ta; hãy bỏ mọi sự liên quan đến bản thân mình mà bắt tay với Ta trong công cuộc vĩ đại cứu rỗi thế gian (x.câu 21). Chúa có một điều gì đó cho mỗi người làm dọc theo cuộc hiện hữu của từng người...

 

Vấn nạn 2:

            "Chúng con giải thích thế nào về tác dụng phi thường của đời sống Chúa Kitô và hiệu qủa của những lời Người? Quyền năng và quyền bính của Người từ đâu mà có?"

            Những vấn nạn của các con lần này liên quan đến bản thân và công việc của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế của chúng ta. Đọc kỹ Phúc Âm thánh Gioan, chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời cho vấn nạn của chúng ta... Chúa Giêsu phục sinh và sống động đến với các tông đồ trong một căn phòng các vị đang qui tụ. Và để chứng tỏ Người cũng chính là Đấng mà các vị vẫn quen biết, Người đã tỏ cho các vị thấy những thương tích của Người: nơi đôi bàn tay và cạnh sườn của Người. Đây là những vết tích về cuộc tử nạn và vượt qua cứu độ của Người, là nguồn mạch quyền năng mà Người truyền sang cho các vị... Vì cuộc phục sinh của Đức Kitô, con người không còn hiện hữu để mà chết nữa, họ hiện hữu cho một sự sống đã được tỏ hiện nơi chúng ta. Đây là sự sống mà Chúa Kitô đã mang xuống trần gian (x.Jn.1:4)... Cuộc chiến thắng của sự sống trên sự chết là điều mà mọi người ước vọng. Tất cả mọi tôn giáo, đặc biệt là những tôn giáo lớn lâu đời được hầu hết dân Á Châu theo, đều chứng tỏ sự thật về tình trạng bất tử của chúng ta được ghi khắc nơi lương tri đạo lý của con người sâu xa biết bao. Việc con người tìm kiếm sự sống sau khi chết gặp được thỏa nguyện thực sự nơi cuộc phục sinh của Chúa Kitô. Vì Chúa Kitô phục sinh là biểu hiện cho việc Thiên Chúa đáp ứng niềm mong đợi thao thức sâu xa này của tinh thần con người, mà Giáo Hội tuyên xưng: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy" (Kinh Tin Kính Các Tông Đồ). Chúa Kitô phục sinh là bảo chứng cho con người nam nữ của mọi thời đại là họ được kêu gọi đến một sự sống vượt ngoài biên giới sự chết. Việc sống lại của thân xác không phải chỉ là tình trạng bất tử của linh hồn thôi. Toàn thể con người, bao gồm cả thân xác lẫn linh hồn, được hưởng sự sống đời đời. Mà sự sống đời đời là sự sống trong Thiên Chúa. Chứ không phải là sự sống, như thánh Phaolô dạy, "lụy thuộc sự hư nát" (Rm.8:20). Là tạo vật trên thế gian, mỗi người đều phải chết cũng giống như mọi tạo vật khác. Tình trạng bất tử của toàn thể con người chỉ có thể nhận được từ tặng ân của Thiên Chúa. Thật ra nó là việc chia sẻ vào sự vĩnh cửu của chính Thiên Chúa.             Chúng ta có thể nhận lãnh "sự sống trong Thiên Chúa" như thế nào? Bởi Chúa Thánh Thần. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban sự sống mới này, như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: "Tôi tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống". Nhờ Ngài, chúng ta trở nên, theo hình ảnh của Người Con duy nhất, con cái thừa nhận của Cha... "Hãy nhận lấy Thánh Thần" nghĩa là hãy chấp nhận từ Thày gia sản ơn thánh và sự thật này, là cái làm cho các con trở nên một thân thể thiêng liêng nhiệm mầu với Thày. "Hãy nhận lấy Thánh Linh" cũng có nghĩa là hãy trở nên những kẻ tham hưởng vương quốc Thiên Chúa, do Thánh Linh tràn đổ vào lòng các con như hoa trái khổ đau và hy sinh của Con Thiên Chúa, để càng ngày Thiên Chúa sẽ càng trở nên tất cả trong mọi người (x.1Cor.15:28). Giới trẻ thân mến, cuộc suy niệm của chúng ta đã tiến đến trung tâm điểm của Chúa Kitô Cứu Thế. Nhờ việc toàn hiến của Người cho Chúa Cha, Người đã trở nên đường nẻo cho việc chúng ta được làm dưỡng tử dưỡng nữ dấu yêu của Thiên Chúa. Sự sống mới này hiện hữu nơi các con nhờ bí tích rửa tội là nguồn mạch hy vọng và lạc quan của Kitô hữu chúng con. Chúa Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và muôn đời vẫn thế. Khi Người nói với các con: "Như Cha sai Thày, Thày cũng sai các con", các con có thể yên tâm là Người sẽ không bỏ mặc các con. Người sẽ luôn luôn ở cùng các con...

            Tại sao Người sai các con? Vì con ngưòi nam cũng như nữ khắp cả thế giới - Bắc, Nam, Đông, Tây - ngóng đợi một sự giải phóng và mãn nguyện đích thực. Người nghèo tìm kiếm công lý và kết đoàn; kẻ bị áp bức cần phải có tự do và nhân phẩm; người mù kêu gọi ánh sáng và chân lý (x.Lk.4:18). Các con được sai đi không phải để công bố một sự thật trừu tượng. Phúc Âm không phải là một lý thuyết hay một ý thức hệ! Phúc Âm là sự sống! Công việc của các con là làm chứng cho sự sống này: sự sống của dưỡng tử dưỡng nữ Thiên Chúa. Con người tân tiến, cho dù họ có biết hay chăng, thật là cần đến sự sống này - như 2000 năm trước đây nhân loại cần Chúa Kitô đến vậy; cũng như con người luôn luôn cần Chúa Giêsu Kitô cho đến tận cùng thời gian.

            Tại sao chúng ta cần Người? Vì Chúa Kitô mạc khải chân lý về con người và về cuộc sống cũng như định mệnh của con người. Người tỏ cho chúng ta thấy vị trí của chúng ta trước nhan Thiên Chúa, như là những tạo vật và những tội nhân, như thành phần được cứu chuộc nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người, khi chúng ta đang lữ hành trên con đường về nhà Cha... Sự thật về con người - mà thế giới tân tiến khó lòng hiểu được - đó là chúng ta được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như chính Thiên Chúa (x.Gn.1:27), và chính ở tại chỗ này, chứ chưa cần kể đến những khía cạnh khác, chất chứa phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi một con người, không có luật trừ, kể từ lúc được thụ thai cho đến lúc tự nhiên mà chết. Cho dù cái mà đối với văn hóa hiện đại càng khó hiểu đi nữa, thì nhân phẩm này, được khuôn đúc theo tác động sáng tạo của Thiên Chúa, lại được nâng lên cao hơn vượt bực trong mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa. Đây là sứ điệp mà các con phải công bố cho thế giới tân tiến: nhất là cho người bất hạnh nhất, cho người vô cư vô sản, cho người yếu bệnh, cho những kẻ bị ruồng rẫy, cho những người khổ sở trong tay kẻ khác. Cho mỗi một người, các con phải nói rằng: Xin hãy nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để qúi vị thấy rằng thực sự qúi vị là ai trước mặt Thiên Chúa!...

            Chúa Giêsu sai các con như thế nào? Người không hứa gươm giáo hay bạc tiền, quyền lực, cũng không hứa bất cứ điều gì như phương tiện truyền thông xã hội thu hút con người ngày nay. Thay vào đó, Người ban cho các con bình an và sự thật. Người sai các con đi với một sứ điệp uy quyền về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, với sự thật về thập giá và phục sinh của Người. Đó là tất cả những gì Người ban cho các con, và đó cũng là tất cả những gì các con cần. Phần ân sủng và sự thật này sẽ phát sinh can đảm. Theo Chúa Kitô bao giờ cũng đòi phải can đảm... Và như thế là chúng ta trở về với vấn nạn đầu tiên của các con:

            Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng mong đợi gì nơi giới trẻ của Ngày Giới Trẻ Thứ 10? Đó là các con tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô. Đó cũng là các con học biết làm sao để công bố tất cả những gì chất chứa nơi sứ điệp của Chúa Kitô, thực hiện một cuộc giải phóng đích thực và một cuộc tiến triển chính đáng cho loài người. Đây là điều mà Chúa Kitô mong đợi nơi các con. Đây là điều Giáo Hội tìm kiếm nơi giới trẻ Phi Luật Tân, nơi giới trẻ Á Châu, nơi giới trẻ thế giới. Như thế, văn hóa riêng của các con sẽ thấy rằng các con nói năng bằng một thứ ngôn ngữ đã vang vọng sẵn, một cách nào đó, nơi những truyền thống cổ kính của Á Châu: một thứ ngôn ngữ của bình an nội tâm chân thực và của sự sống tròn đầy, bây giờ và cho đến muôn đời...

 

Vấn nạn 3:

            Giới trẻ phải sống hiệp nhất và hòa hợp ra sao trong một thế giới phân mảnh đầy những mâu thuẫn?

            Chính Chúa Giêsu trả lời cho các con là: "Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha... để họ tất cả được nên một...". Đó là câu trả lời. Các con có thể thấu hiểu được nó trong việc chiêm ngưỡng Chúa Ba Ngôi. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa: để biết mình, họ phải biết Thiên Chúa. Mà Thiên Chúa là ai? Dung nhan đích thực của Ngài như thế nào? "Thiên Chúa là tình yêu" (1Jn.4:8,16), thánh Gioan viết như thế. Chúa Cha yêu Chúa Con, Chúa Con yêu Chúa Cha, và tình yêu của Các Ngài là Chúa Thánh Linh. Thiên Chúa là một, Ngài là Đấng Tuyệt Đối; nhưng Ngài cũng là ba, là mối liên hệ, là tặng phẩm của Ngôi này cho Ngôi kia trong một sự cởi mở hoàn toàn hỗ tương. Mỗi một Ngôi là chính mình đồng thời cũng khác biệt với các Ngôi khác, tuy thế Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa. Đây là kiểu mẫu mà các con phải suy niệm! Các con yêu dấu, Chúa Ba Ngôi trước hết dạy các con là mỗi một người phải tìm gặp chính mình. Một con người thanh thiếu niên, một con người trẻ, là một cá nhân đang hình thành căn tính riêng của mình. Trong xã hội của chúng theo chủ nghĩa hưởng thụ và tượng hình, chúng ta dễ dàng liều mất chính bản thân mình để trở thành "bị phân mảnh". Một tấm gương rạn nứt không thể nào phản ảnh tất cả hình hài. Nó phải được tái tạo. Thế nên con người cần phải có một tâm điểm sâu xa và vững chắc để từ đó họ có thể hợp nhất các kinh nghiệm khác nhau của mình. Tâm điểm này, như thánh Augustinô dạy, không tìm thấy được ngoài mình, mà ở tận thẳm sâu trong tâm khảm con người, nơi con người gặp được Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Trong mối liên hệ với Thiên Chúa là Đấng duy nhất, con người mới có thể nên một bản thân mình. Chúng ta hãy suy niệm sâu xa hơn nữa: Con người hoàn toàn là mình chỉ khi nào họ gặp gỡ Thiên Chúa và có thể từ bỏ chính mình trong việc gắn bó với Chúa Ba Ngôí! Con người thanh thiếu niên nhận biết tình yêu Thiên Chúa và phó mình cho Ngài thì hoàn toàn trở nên chính mình, tránh được cảnh dám liều mình trở thành "một người, không một ai và một trăm ngàn", như một nhà văn người Ý rất quen thuộc với các con viết. Bấy giờ họ mới có thể vươn mình đến với người khác, chẳng những để ban phát một điều gì đó, mà còn để hiến tặng cả chính bản thân mình nữa. Giới trẻ thân mến, nếu các con có thể sống theo đường lối này, các con sẽ không bao giờ thuộc về số những khối hỗn tạp, những phóng ảnh của những bộ mặt vô danh trên quảng cáo. Bất hạnh thay, con người hưởng thụ mà xã hội thực sự thường mong ước, đó là các con phải là những cá nhân mà không có cá thể, đó là các con phải sống theo thời trang, luôn luôn tìm kiếm những cảm giác mới mẻ, khiêu gợi những kích thích tự nhiên, vì đó mới là cách làm các con trở nên những kẻ hưởng thụ lý tưởng. Ngay cả cái được gọi là vấp phạm mà trước kia từng đồng nghĩa với khuynh hướng bất nhất thì nay lại thịnh hành trong cái thứ văn hóa thụ hưởng. Thế nhưng ngày nay, suy nghĩ kỹ về điều này thì thấy rằng những ai còn có thể kiên trì sống Phúc Âm là họ đang bơi ngược chiều sóng. Đó là đức anh hùng của một cuộc sống thường nhật, của sự thánh thiện sống động trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh...