Ngày 13 Tháng 1
Thánh Đaminh PHẠM TRỌNG KHảM
Quan án
(1780 - 1859)
Thánh Giuse PHẠM TRỌNG Tả
Cựu Chánh tổng
(1800 - 1859)
Thánh Luca PHẠM TRỌNG TH̀N
Chánh tổng
(1820 - 1859)
Thánh Đaminh PHẠM TRỌNG KHảM


Đaminh Phạm Trọng Khảm sinh khoảng năm 1780 trong một gia đ́nh bảy anh em giàu có tại làng Quần cống, xă Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc địa phận Bùi Chu). Thân phụ cậu là ông Phạm Tri Khiêm, một hương chức danh giá được dân làng trọng vọng. Hấp thụ được nhiều tính tốt của cha, cậu Khảm nổi tiếng là người con có hiếu. Năm 18 tuổi, vâng lời song thân, cậu kết hôn với cô Anê Phượng, một thiếu nữ đạo hạnh trong làng. Hai vợ chồng sống rất thuận ḥa, được dân làng tin phục mến yêu. Đặc biệt, hai người biết hiệp lực giáo dục và khích lệ con cái học hành. Con trai ông là Cai Th́n cũng làm đến Chánh tổng, được mọi người kính nể và cũng kiên trung làm chứng cho đức tin đến hơi thở cuối cùng với cha của ḿnh. Ba người con gái ông là bà Nhiêu Côn, Nhiêu Trữ và Hậu Địch cũng được đi học như các con trai, nổi tiếng lanh lợi tháo vát.

Khi bị bắt, cụ Án Khảm đă gần 80 tuổi, vừa là Tiên chỉ trong làng, vừa là hội viên ḍng ba, kiêm chức Trùm họ trong giáo xứ. Mọi người đều công nhận cụ là người đạo đức, giàu ḷng bác ái và nhiệt t́nh trong những trách vụ. Các Thừa sai, cả các Giám mục cũng biết tiếng và từng đến trọ tại nhà cụ trong những ngày khó khăn. Với giáo xứ, cụ cộng tác đắc lực với cha sở trong việc điều hành tổ chức họ đạo. Với xóm làng, cụ là một mẫu người đức độ, quan tâm đến nhu cầu của mọi người cả xác lẫn hồn, sẵn sàng chia sẻ của cải cho kẻ nghèo khó, và khích lệ mọi người can đảm trước những bách hại. Gia phả con cháu cụ ghi lại rằng: Gia nhân phải kiếm kẻ khó vào ngồi chung th́ cụ mới ăn cơm.

V́ sẵn của cải chia sẻ cho mọi người, có lần cụ kiếm cớ đăi cả làng. Cụ cho anh m đi rao khắp các hẻm mời mọi người ra ruộng tổ chức đua diều. Ai thắng ai thua không thành vấn đề, miễn là mọi người được một bữa no say.

Khi quân lính đến bao vây làng Quần Cống, cụ tập họp mọi người lại, khuyên họ bền chí. Để khích lệ những người nhát đảm, cụ nói: “Kẻ nào trong anh em đạp lên Thánh giá, khi quan về, tôi sẽ đuổi cổ ra khỏi làng, sẽ không có chỗ mà chôn xác đâu”. Thế rồi cụ bị bắt và trên đường áp giải những tín hữu “cố chấp” về Nam định, cụ Án được tách riêng, nhốt ngay trong thuyền của quan để khỏi ảnh hưởng đến người khác. Nhưng suốt thời gian tù, cụ vẫn là chỗ dựa, là nguồn an ủi, là người khích lệ và chia sẻ tinh thần cũng như vật chất cho các bạn tù.

Hai Thánh TRỌNG Tả và TRỌNG TH̀N


Cuộc đời của hai ông Cai Tả, Cai Th́n tuy cách biệt nhau 20 tuổi đời, nhưng đă ḥa lẫn với nhau trong cùng bối lịch sử thời tử đạo. Một vị là cựu, một vị là Chánh tổng làng Quần Cống. Phải làm ǵ bây giờ? Chắc chắn hai ông đă phải bàn luận với nhau rất nhiều, để cuối cùng với sự ủy thác của Đức cha Sampedro Xuyến, Giám mục địa phận Trung khi đó, hai ông đă chọn giải pháp ḥa b́nh bằng phương thế đối thoại. Một mặt với uy tín riêng, các ông trấn an các tín hữu. Mặt khác quan hệ với quan Tổng đốc để gợi lên trong quan tấm ḷng nhân ái và quảng đại. Rất tiếc, đường lối đó không được đạt như sở nguyện, nên hai ông đă phải trả giá cho sứ mạng ḥa giải bằng chính mạng sống của ḿnh.

Giuse Phạm Trọng Tả sinh khoảng năm 1800 tại làng Quần Cống, xă Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Cai Tả là anh em thúc bá với thánh Án Khảm, là con ông Đaminh Phạm Thăng. Khi bị bắt ông đă 60 tuổi, là một Kitô hữu đạo đức, một hội viên ḍng ba Đaminh và là cựu Chánh tổng đă chu toàn chức vụ của ḿnh. Phụ lực với cháu Cai Th́n, ông t́m cách giúp mọi người sống đạo trong hoàn cảnh khó khăn. Gia phả con cháu ghi rằng: “Đầy tớ ông rất đông, chưa Tết ông đă đi thăm viếng từng nhà và cho tiền mừng tuổi rất hậu. Số tiền ấy thường gấp đôi số quà cáp họ biếu xén ông trong năm. Tiền thóc gia nhân vay mượn ông thường cho một nửa, nếu túng quá th́ cho luôn. Công nợ của dân trong làng cũng hay được châm chước như thế. Khi bà Cai lên tiếng cằn nhằn, ông thản nhiên trả lời: “Ḿnh quên nợ người, Chúa quên tội ḿnh”.

Luca Phạm Trọng Th́n là con trai cụ Án Khảm, sinh khoảng năm 1820 tại làng Quần Cống, xă Trà Lũ, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Như ta đă biết về cụ Á Khảm, dưới mái nhà gia giáo và khá giả này, cậu Th́n đă lớn lên trong bầu khí đạo đức, được ăn học thành người. Nhờ trí khôn thông minh nhanh nhẹn và chăm chỉ chuyên cần, chẳng bao lâu đă “công thành danh toại”. Khi bị bắt, ông Cai Th́n mới khoảng 40 tuổi và đang là Chánh tổng, vừa quyền thế vừa uy tín. Thực ra khi mới lên chức vụ này, v́ giao tiếp với giới quan lại nhiều, đă có thời kỳ ông có vợ nhỏ là cô Trung người Trà Lũ, nên thờ ơ việc đạo nghĩa (vợ chính ông Cai Th́n là bà Maria Tâm). Nhưng sau nhờ lời khuyên của thân phụ, nhất là của cha giải tội, ông đă thành tâm sám hối. Từ đó ông đă trở thành một mẫu gương thánh thiện, một gia trưởng và hội viên ḍng ba Đaminh đạo đức, một thủ lănh đáng tin cậy.

Năm 1858, t́nh h́nh bắt đạo đang gia tăng, và liên quân Pháp Tây Ban Nha đang đe dọa dân Việt ở Đà Nẵng, vua Tự Đức thêm phẫn nộ ra lệnh cho quan quân triệt để thi hành các sắc chỉ nhắm vào đạo Giatô. Nhưng thực tế, việc thi hành này lệ thuộc nhiều vào các quan địa phương có sốt sắng hay không. Lợi dụng điều đó, Đức cha Sampedro Xuyên đă ủy thác cho Cai Tả và Cai Th́n trọng trách sứ giả ḥa b́nh, v́ cũng thuộc thành phần lănh đạo dễ dàng tiếp xúc với cấp trên.

Hiểu ư đức cha và nắm vững t́nh h́nh các tín hữu Quần Cống, hai ông đă đến gặp trực tiếp Tổng đốc Nam Định, xin ông nương tay cho các tín hữu được b́nh an, và hứa kêu gọi dân chúng trung thành với Đức vua. Cuộc thương thuyết sắp thành công, nhưng không ngờ lúc ấy tại Cao Xă, một người v́ bất măn với chính sách của nhà vua, đă xúi dục một nhóm người nổi loạn chống lại các quan địa phương. Thế là vị Tổng đốc liền đổi ư, ra lệnh tiếp tục truy lùng các thừa sai, các đạo trưởng và các giáo hữu có uy tín trong dân. Quan kết án Cai Tả và Cai Th́n là lừa dối và t́m dịp để bắt hai ông. Chúng ta sẽ biết cơ hội để quan thực hiện ư đồ đó trong phần sau.

Ba lần ra trước ṭa, cả ba lần hai ông đều cương quyết không bước qua Thập giá, dù bị dọa nạt, đánh đập. Khi quan yêu cầu hai ông viết những suy nghĩ của ḿnh lên giấy, Cai Th́n đă viết bản tuyên xưng đức tin r rệt và can đảm sau:

“Tôi là một Kitô hữu, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực h́nh, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ. Chính tay tôi viết đều này. Luca Th́n”.

Ông Cai Tả không những cương quyết không xúc phạm Thánh giá, ông c̣n khuyên bảo mọi người đừng phạm thứ tội mà ông gọi là “ghê tởm” đó.

Nếu Đức Giêsu, Hoàng Tử B́nh An đă dùng Thánh giá khổ nhục để ḥa giải nhân loại bạc bẽo với Chúa Cha. Cuối cùng, hai ông Cai Tả và Cai Th́n sẽ măi măi là sứ giả ḥa b́nh bằng cái chết, để chứng tỏ ḷng ḿnh luôn trung tín với Thiên Chúa và trung thành với dân tộc.


Các Thánh Đaminh Khảm, Giuse Tả, và Luca TH̀N
 

Chứng Tá Của Một Làng Công Giáo

Năm 1858, khởi đầu cho gian đoạn 5 năm bách hại đạo gay gắt nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Nhà vua treo giải thưởng xứng đáng cho những ai tố cáo nơi trú ẩn của các vị Thừa sai Âu châu, và ngược lại sẽ trừng trị đích đáng những kẻ chứa chấp họ. Thế là các ngài phải nay đây mai đó trốn từ làng này qua làng khác. Quần Cống là một nơi ẩn trốn khá an toàn, v́ các chức sắc trong làng là người Công giáo, và chính họ sẵn sàng đón tiếp các ngài. Đức cha Sampedro Xuyên, Đại diện Tông ṭa địa phận Trung dự đoán ḿnh có thể bị bắt bất ngờ, đă chủ phong Giám mục phó cho Đức cha Valentino Vinh ngày 14 tháng 6 tại Ninh Cường, hai cha Riano Ḥa và Carreras Hiển là phụ phong. Sau đó cả bốn vị đến ẩn tại làng Quần Cống, trọ tại nhà cụ Án Khảm, Cai Tả và ông Nhiêu Côn.

Quan Án sát Nam Định được mật báo làng Quần Cống chứa chấp Tây dương đạo trưởng, liền huy động quân lính đến vây bắt. Nhưng cụ Án Khảm kịp biết tin, vội vàng t́m cách đưa các vị thừa sai trốn khỏi làng. Đức cha Vinh và hai linh mục qua làng Trà Lũ, Đức cha Xuyên đi qua Kiên Lao (ngày 8 tháng 7 mới bị bắt). Sau khi các thừa sai đă đi xa, cụ cho m làng đi trước, đích thân cầm roi đi sau, bắt m làng rao lớn tiếng: “Tŕnh quan viên làng nước, có lệnh cụ Án truyền rằng: Người nào quá khóa phải phạt ba roi và vị đuổi ra khỏi làng”. Rồi cụ tụ tập dân lại khích lệ họ.

Sau đó, quan quân ùa vào làng, họ bắt toàn thể dân làng tập trung lại, rồi gọi cụ Án Khảm ra tŕnh diện và nói: “Mau nộp ngay lập tức các đạo trưởng Tây dương và bản quốc, cũng như bọn thầy giảng lẫn trốn trong làng. Nếu bất tuân, lăo sẽ bị bắt, bị tịch thu tài sản, nhà cửa sẽ bị thiêu hủy, c̣n chính lăo sẽ bị kết tội chống cưỡng nhà vua”. Cụ Án Khảm hết sức b́nh tĩnh v́ biết chắc các thừa sai đă trốn xa rồi, cụ mạnh bạo trả lời: “Đúng, đạo chúng tôi có các đạo trưởng, nhưng các ngài ở đâu, làm sao chúng tôi biết được. Xin quan cứ tự do lục soát, nếu t́m thấy vị nào trong làng, th́ quan muốn làm ǵ cũng được”.

Thế là quân lính chia nhau lục soát khắp mọi nhà, dĩ nhiên là không thể thấy một linh mục nào. Nhưng lính lại phát hiện được một số tượng ảnh, áo lễ... và chủ nhà này bị kết tội là chứa chấp đạo trưởng. Cụ Án liền đứng ra nhận là ḿnh đă mua những thứ đó. Tuy vậy quan vẫn ra lệnh bắt trói cả nhà.

Trở lại nơi tập trung dân làng, quan Án sát cho đặt một Thánh giá ngay giữa sân, rồi bắt mọi người lần lượt bước qua. Nhưng quan đă thất bại, dù lính có đi tới đi lui đe dọa, toàn thể dân làng hôm đó không một ai bước qua Thánh giá. Một bô lăo, có lẽ v́ quá sợ, run rẩy tiến lên vài bước, định thực hiện lệnh quan, nhưng cụ Án nhanh chân hơn cản lại và khiển trách. Viên quan tức giận quát lên rằng: “Ta sẽ mất chức, nếu không kết tội được Án Khảm và bọn người vô phúc này”. Thế rồi quan sai bắt trói Án Khảm, Cai Tả và Cai Th́n cùng một số người, rồi giải về Nam Định. Riêng cụ Án được chở đi trong thuyền của quan.

Chúng Tôi Được Về Nước Thiên Đàng

Về tới Nam Định, hai cha con cụ Án Khảm được gặp nhau trong những lần ra ṭa, và sau này được giam chung. Hai cha con vui mừng và xúc động khuyến khích nhau chịu khổ v́ ḷng kính mến Chúa Kitô. Tất cả những tù nhân Quần Cống hẹn với nhau quyết tâm trung thành với đức tin, dù phải hy sinh mạng sống. Riêng cụ Án Khảm nhiều lần đă đại diện cả nhóm trả lời với quan, đă t́m cách giải thích giáo lư trong đạo.

Một hôm, sau khi bắt được Đức cha Xuyên, quan cho dẫn ba ông đến trước mặt Đức cha. Các ông kính cẩn chào hỏi và không giấu được niềm vui gặp lại vị chủ chăn của ḿnh. Thấy thế, quan phỏng đoán và kết tội các ông chứa chấp vị thừa sai này. Tuy thực sự Đức cha đă từng ở nhà ḿnh, cụ Án Khảm t́m cách trả lời chung chung: “Là người tín hữu, chúng tôi tôn kính và yêu mến bất cứ một linh mục nào, dù chưa hề quen biết”.

Sau bốn tháng rưỡi bị giam, một hôm quan báo cho biết là cả ba vị đă bị kết án xử giáo. Ông Cai Th́n hỏi lại án đă kết tội ǵ, quan cho hay là tội chống lại nhà vua. Ông Th́n cực lực phản đối. Cuối cùng theo đề nghị của ông, bản án được viết thêm bốn chữ “BẤT KHẲNG QUÁ KHÓA”, nghĩa là tội không chịu bước qua Thập giá. Các ông vui mừng hân hoan v́ thực sự được chết cho Đức Kitô. Và trong những ngày c̣n lại, các ông chuẩn bị sốt sắng đón chờ ngày lănh nhận hồng phúc tử đạo.

Ba vị chứng nhân đức tin đă cảm nghiệm sâu xa lời Đức Kitô chúc phúc cho những người chịu bách hại v́ danh Ngài. Đối với ba vị, bị bắt chịu khổ nhục, bị giết v́ danh Đức Kitô là niềm vinh phúc lớn lao. Các vị đă hân hoan đón chờ nó, đồng thời khích lệ an ủi các tín hữu khác. Và khi nghe báo giờ tử đă tới, cụ Án Khảm vui vẻ nói với mọi người: “Cha con chúng tôi, hôm nay được Nước Thiên Đàng”. Cả ba vị đă sẵn sàng giă từ trần gian, để về hợp đoàn với hàng ngũ các Thánh Tử đạo, và mở rộng đôi tay đón nhận phần thưởng vinh phúc Chúa đă hứa ban cho những tôi trung của Ngài.

Ngày 13.1.1859, ngoài ba vị Án Khảm, Cai Tả, và Cai Th́n, c̣n có bảy giáo hữu làng Quần Cống khác được đưa ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Trên đường đi, các vị lớn tiếng đọc kinh. Đến nơi xử, các vị tiếp tục đọc kinh Tin, Cậy, Mến và nhiều lần kinh Ăn Năn Tội chung với nhau, rồi lớn tiếng kêu tên Chúa Giêsu. Quân lính mạnh tay xô các vị té ngửa trên đất, rồi trói chân tay từng người vào cọc đă chôn sẵn. Mỗi vị bị hai người lính cầm hai đầu giây thừng tṛng qua cổ và kéo thật mạnh cho đến khi tắt thở. Các tín hữu làng Quần Cống rước thi thể các vị đưa về quê ḿnh, và tổ chức an táng trọng thể.

Đức Thánh Cha Piô XII đă suy tôn ba anh hùng tử đạo: Đaminh Phạm Trọng Khảm, Giuse Phạm Trọng Tả và Luca Phạm Th́n lên bậc Chân Phước ngày 29.4.1951.

NB: Phần gia phả dựa vào cuốn “Liên chi gia phả làng Thiên Thiện” (tên Quần Cống sau này). Đỗ Quư Bản, Sàig̣n 1964 (tập Ronéo).