Ngày 13 Tháng 6
Thánh Augustino PHAN VIẾT HUY
Quân nhân
(1795 - 1839)
Thánh Nicolas BÙI ĐỨC THỂ
Quân nhân

(1792 - 1839)
Thánh Đaminh ĐINH ĐẠT
Quân nhân
(1803 - 18.07.1839)
Các Thánh HUY, THỂ và ĐẠT


Dâng Sớ Biểu Lộ Niềm Tin

Một ngày mùa hạ 1839, vua Minh Mạng rời hoàng cung đi dạo và quan sát dân t́nh Huế. Tất cả sinh hoạt đều tạm ngưng, mọi người phải dạt vào lề đường, chờ xa giá nhà vua đi qua mới tiếp tục công việc ḿnh được. Nhưng ḱa, có hai người lính không thuộc đội cận vệ, bỗng từ đâu xuất hiện, tiến ra và quỳ rạp trước kiệu rồng, hai tay nâng cao trên trán một tờ sớ viết bằng chữ Hán. Viên quan hầu nhận sớ tŕnh vua xem. Tuy chỉ có hai người lính, nhưng sớ kư tên ba người, là các ông Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể và Đinh Đạt. Nội dung lá đơn ấy như sau:

“Cha ông chúng tôi đă theo đạo Giatô. Năm ngoái các quan tra tấn ép buộc bước qua thánh giá, chúng tôi đă miễn cưỡng làm theo chứ thực tâm không muốn. Nay chúng tôi xin tiếp tục giữ đạo để tṛn đạo hiếu với cha ông chúng tôi”.

Đó là biến cố chính đưa đến cái chết tử đạo của ba quân nhân xă Lục Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Augustino Phan Viết Huy sinh năm 1795, tại làng Hạ Linh, thuở bé có dâng ḿnh cho Chúa, chuẩn bị làm thầy giảng, nhưng sau xin ra ngoài lập gia đ́nh, ông đă phục vụ trong quân ngũ mười năm.

Người thứ hai là Nicolas Bùi Đức Thế sinh năm 1792 tại làng Kiên Trung, tính đến ngày bị bắt ông mới đi lính được một tháng.

Người thứ ba là Đaminh Đinh Đạt sinh năm 1803 tại làng Phú Nhai, tuy ít tuổi nhất nhưng ông đă gia nhập quân đội được mười hai năm.

Đâu Phải Lính là Can Đảm

Tổng đốc Nam Định bấy giờ là Trịnh Quang Khanh. năm 1838 ông đă từng bị triệu về kinh và bị khiển trách v́ tội lơ là thi hành luật bắt đạo của nhà vua. Từ đó ông trở thành một thứ “hùm xám” tỉnh Nam Định, thề quyết không đội trời chung với “Giatô Tả Đạo”, cho quân đi lùng bắt khắp nơi. Để công việc có hiệu quả, đối tượng đầu tiên ông quan là thanh lọc lại ngay trong hàng ngũ quân đội, những người ông sẽ phái đi thi hành chiến dịch truy lùng trong dân chúng.

Sau nhiều ngày suy tính kế hoạch và chuẩn bị, Tổng đốc tổ chức đại tiệc chiêu đăi tất cả binh sĩ Công giáo ở Nam Định, dựa vào lư lịch của họ. Hôm đó có khoảng năm trăm anh em đến dự. Trong bữa tiệc, Tổng đốc đưa ra những lời hứa hẹn và ban thưởng dành cho những ai trung thành với vua. Ông cũng khéo léo đe dọa những ai cố chấp không bỏ tà đạo. Khi tiệc đă tàn, ông cho mời hết thảy vào dinh để thử ḷng họ. Tại đây, quan để sẵn những dụng cụ tra tấn như gông cùm, xiếng xích, roi ḱm... và đặt tượng thánh giá dưới đất. Tất cả được tự do lựa chọn, bước qua ảnh Chuộc tội, hoặc chịu gia h́nh th́ tùy ư. Tiếc thay trong số năm trăm người lính hôm đó chỉ có mười lăm người trung kiên, từ chối bước qua ảnh tượng Chúa, c̣n bao nhiêu đều nhát sợ bỏ đạo. Tức khắc mười lăm người kia bị tống giam vào ngục tối.

Ngày hôm sau, quân lính đưa mười lăm tín hữu này ra công đường, đánh đ̣n và bắt ép các ông bước qua ảnh Chúa. Sáu người sờn ḷng bỏ đạo, chỉ c̣n chín người vững vàng trước trận đ̣n chí tử. Cả chín người lại bị tống giam vào ngục. Ba ông Huy, Thể, và Đạt thuộc nhóm chín người này. Riêng ông Huy, v́ trước đây có lấy vợ nhỏ ở tỉnh, đêm hôm đó trốn ra ngoài xưng tội và làm tờ cam kết bỏ vợ nhỏ với cha Năng tại họ Phúc Đường, rồi trở vô tù với anh em.

Ngày thứ ba, chín người trên lại được đem ra tŕnh diện với quan, Tổng đốc hứa thưởng tiền cho ai bỏ đạo. Thoạt đầu không ai nghe lời, quan ra lệnh đánh đập tàn nhẫn, rồi cho lính đánh vào đầu ngón tay từng người. Chịu không nổi, bốn người bỏ cuộc, chỉ c̣n năm vị cương quyết trung thành với Chúa. Đầu tháng 6, vua Minh Mạng phái thêm tướng Lê văn Đức đem hai ngàn quân kinh binh ra tăng viện cho Nam Định. Viên tướng này vừa tới nơi đă là người cộng tác rất đắc lực với Tổng đốc trong cuộc bách hại. Ngày 25 tháng 6 khi đem Đức cha Henares Minh và thầy Chiểu đi xử tử, tướng Lê văn Đức cho dẫn năm binh sĩ bướng bỉnh ra pháp trường, có ư hù dọa để các ông sợ. Không ngờ cả năm đều tỏ ra hân hoan v́ tưởng sắp được chết v́ đạo.

Chỉ C̣n Ba Người Trung Tín

Thấy thế quan lại cho giải năm ông trở về trại giam. Ít bữa sau truyền gọi năm ông ra ṭa, mới đầu quan dùng lời ngon ngọt dụ dỗ, nhưng không thành công, liền thịnh nộ sai quân lính khiêng hai đầu gông từng người kéo lên trên tượng Chúa, các ông liền co chân lên. Họ lấy roi đánh túi bụi, vừa đánh vừa kéo chân các ông xuống đạp lên ảnh thánh. Thêm hai binh sĩ nữa bỏ cuộc sau trận đ̣n này, chỉ c̣n ba ông Huy, Thể và Đạt kiên quyết trả lời với quan rằng: “Các ngài cưỡng bách chúng tôi đạp lên tượng Chúa, nhưng ḷng chúng tôi không chiều theo, th́ chẳng phải chúng tôi bỏ đạo đâu”. Quan liền cho lệnh đóng gông rất nặng và giam cả ba vào ngục.

Từ đó trở đi, ba ông c̣n phải chịu nhiều cuộc tra tấn khác nữa. Khi th́ mỗi người hai mươi bốn roi, khi th́ một trăm năm mươi roi. Một lần quan dùng lư luận khuyên các ông bỏ đạo tà, ông Huy thay mặt anh em đáp lại: “Quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, th́ chúng tôi theo đạo nào bây giờ? Chúng tôi chỉ theo đạo thật thôi”. Quan thét lên: “Nếu đạo chúng bay là đạo thật, sao đức vua lại nghiêm cấm?”. Bấy giờ ông Huy có dịp xử dụng những ǵ xưa đă học khi chuẩn bị làm Thầy giảng, để cắt nghĩa các lẽ đạo và trả lời cách mạch lạc sáng sủa những câu hỏi quan đặt ra. Thấy ḿnh đuối lư, quan cho lệnh giam ba ông chung với linh mục Giacôbê Năm, ông Lư Mỹ và ông Trùm Đích. Cha Năm hỏi ba ông: “Hôm nay thế nào, được hay thua?”. Các ông vui vẻ đáp: “Chúng con chẳng chịu quá khóa, nên quan đă làm án xử rồi”.

Thế nhưng án của các ông chưa được vua Minh Mạng châu phê. Vua truyền các quan bằng mọi cách bắt ba ông bỏ đạo v́ “khi đầu đă dứt, chẳng c̣n phép chi nối lại được nữa”. Giai đoạn này, Trịnh Quang Khanh đang bị ngưng chức Tổng đốc, Tổng trấn Lê văn Đức tạm thay quyền đă cho lệnh đóng gông và đưa ba chiến sĩ Đức Kitô phơi nắng chỗ công cộng, ông Huy và ông Thể ở cửa Đông và ông Đạt ở cửa Nam suốt hai mươi mốt ngày liền, mọi người đi qua đều tự do hành hạ, sỉ nhục tùy ư. Nhưng quan lại một lần nữa thất bại.

Tháng 10.1838, Trịnh Quang Khanh được phục chức Tổng đốc, nên hết ḷng t́m cách đền đáp ơn vua. Tổng đốc cho những người bỏ đạo trước đây vào ngục khuyến dụ ba ông bỏ đạo, nhưng những người này bị các ông khiển trách là kẻ hèn nhát dại dột, nên mắc cỡ không dám nói năng ǵ cả. Tổng đốc chuyển sang kế hoạch mới, dọa nạt vợ con, thân nhân bạn bè của ba ông, bắt họ vào nài nỉ dụ dỗ, hy vọng các ông sẽ xiêu ḷng. Nhưng cả ba vị cương quyết trung thành với Chúa.

Một Phút Lầm Lỡ và Thống Hối

Cuối cùng Tổng đốc cho gọi các kỳ mục ba làng Hạ Linh, Kiên Trung, Phú Nhai đến, và ra hẹn trong một tháng phải ép ba chiến sĩ đức tin bỏ đạo, bằng không sẽ bị trừng phạt. Một tháng sau, những người này vẫn chưa hoàn thành được công tác khó khăn ấy. Quan liền tập trung các kỳ mục và cho lệnh đánh đ̣n họ trước mặt ba người chiến sĩ Đức Kitô. Và lần này ông thành công. Ông Thể động ḷng trước cảnh một bô lăo làng Kiên Trung chịu đ̣n thâm tím v́ ḿnh, xin quan tha cho cụ bằng cách đồng ư bước qua thập giá. Quan quân vỗ tay reo mừng. Tiếp theo ông Đạt cũng bước qua thập giá. Riêng ông Huy vẫn chưa chịu khuất phục.

Đêm hôm đó, quan cho người vào ngục dụ dỗ ông Huy: “Chẳng ai cười chú đâu, v́ chú đă chịu khó rất can đảm. Vua chẳng muốn giết chú, chi bằng cứ bước đại qua thập giá để khỏi rầy rà”. Ông Huy nghe thế hơi xiêu ḷng, lại thấy hai bạn ḿnh được tự do cả rồi, nên sáng hôm sau ông cũng theo chân các bạn bỏ đạo. Quan cho mỗi người mười quan tiền và cho trở lại quân ngũ.

Thế nhưng ba người lính được tự do trở về nhà lại thấy ḷng áy náy, lương tâm cắn rứt. Các ông không ngờ vụ án ḿnh không chỉ là vấn đề cá nhân. Quá nhiều người quan tâm và cầu nguyện cho các ông mỗi ngày. Do đó việc bỏ đạo của ba người cuối trong nhóm năm trăm binh sĩ trở thành tin buồn lớn lao cho tập thể. Có người không tin các ông đă đạp lên thánh giá, dù các ông hoàn toàn nhận lỗi nơi ḿnh, họ bảo rằng chắc các quan dùng thuốc mê khiến các ông mất sáng suốt. Thế là ba ông, sau khi xưng tội, bàn bạc với nhau và cương quyết lên tỉnh để tuyên xưng đạo một lần nữa.

Ḷng Can Đảm Hy Hữu

Đến tỉnh, ba ông vào thẳng dinh quan Tổng đốc tŕnh bày nguyện vọng của ḿnh:

“Thưa quan, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng tôi thờ là Đấng quyền năng vô biên. Mấy ngày trước chúng tôi đă trót dại quá khoá. Nay chúng tôi xin trả tiền lại cho quan để được giữ đạo Chúa cho thật ḷng”.

Quan nghe nói tức giận chửi mắng ba ông thậm tệ, rồi ra lệnh giam vào ngục để t́m cách dụ dỗ như lần trước. Nhưng v́ quan đă báo cáo lên vua việc ba ông bỏ đạo nên muốn cho qua chuyện, chỉ truyền đánh đ̣n ba ông rồi đuổi ra khỏi dinh. Số tiền các ông trả, quan trao cho hương chức ba làng của các ông.

Trở về nhà, ba ông cầu nguyện liên lỉ và tiếp tục bàn bạc với nhau, dự tính vào tận kinh đô để tuyên xưng niềm tin. Ba ông đến hỏi ư kiến cha Tuyên và cha Năng. Các ngài nói tùy ư, chứ tội các ông không buộc phải đền bằng cách đó. Cha chính Jimeno Lâm (Sau này làm Giám mục địa phận Đông Đàng Ngoài) nghe tin th́ viết thư tán thành sáng kiến đó. Thế là ba ông ngồi lại với nhau viết một lá đơn cho nhà vua, bày tỏ niềm tin của ḿnh. Ông Đạt cũng kư vào đơn, nhưng v́ đang phải công tác với đội binh nên ở lại. Hai ông Huy và Thể có cơ hội tức tốc khăn gói đi vào Huế. Trước khi lên đường, cha Tuyên nhắc bảo hai ông phải trông cậy vào Chúa hơn là sức ḿnh, phải cầu nguyện nhiều mới có thể can đảm làm chứng cho đạo Chúa.Hai vị xưng tội một lần nữa, chào giă biệt họ hàng thân thích và xin mọi người góp lời cầu nguyện. Sau hai mươi ngày đi bộ, các ông vào tới kinh đô đầu tháng 5.1839. Một người con ông Huy mới 16 tuổi cũng theo chân cha để nghe ngóng tin tức.

Theo thủ tục khi đó, ba ông đến nộp đơn ở ṭa Tam Pháp chờ đợi. Các quan nhận đơn, nhưng lại bỏ qua không tŕnh lên vua. Trong thời gian chờ đợi, các ông ở trọ nhà bà Đông, cũng là một tín hữu ở Huế. Sau đó hai vị làm thêm một lá đơn thứ hai, nhưng ṭa Tam Pháp vẫn im tiếng làm ngơ như cũ. Thế là các ông phải tính đến một kế hoạch táo bạo hơn. Nhân dịp vua Minh Mạng ngự gía đi dạo trong thành phố, hai ông đón đường để tŕnh đơn thẳng lên nhà vua. Đọc xong vua nổi giận truyền tống ngục cả hai, và giao cho các quan bộ H́nh xét.

Khổ H́nh và Vinh Phúc

Các quan ở kinh đô khuyến dụ, hứa hẹn nhiều điều, rồi tra tấn đánh đập, nhưng hai chứng nhân vẫn trước sau như một, tuyên xưng là những binh sĩ có đạo. Tướng quân Lê văn Đức ở Nam Định trở về, v́ đă từng biết sự gan dạ của hai ông nên nói: “Đừng hy vọng thuyết phục bọn này, đánh chúng chỉ mỏi tay thôi”. Một hôm quan hỏi tại sao trong đơn c̣n có chữ kư của Đinh Đạt, hai ông trả lời: “Thưa quan, anh Đạt cũng không chịu quá khóa, nhưng bận việc quân không đi với chúng tôi được. Anh ấy dặn chúng tôi thể nào, anh ấy cũng như vậy”.

Các quan tŕnh bày sự việc lên vua để lănh ư. Sau đó, theo lệnh vua, quan cho bày trước mặt hai ông mười nén vàng, một tượng Chịu nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ư chọn, bước qua tượng th́ được vàng, bằng không th́ gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển”. Hai ông b́nh tĩnh bày tỏ ư muốn chọn gươm. Vua Minh Mạng nổi giận truyền viết bản án như sau:

“Trước đây ta đă làm án tử h́nh, nhưng ta thường chẳng muốn giết, nào ngờ chúng đă mê dại chẳng biết sự phải lẽ. Ta đă mở lối cho chúng ăn năn chừa cải, song hai tên tội phạm cố chấp theo Giatô tả đạo, lại bỏ cả việc quân vào kinh nộp đơn. Thật là bọn kiêu ngạo đáng khinh đáng ghét, chẳng thể để sống được nữa. Vậy hai tội phạm Phan Viết Huy và Bùi Đức Thể phải cho lính đem ra biển lấy ŕu lớn chặt ngang lưng rồi bỏ xác xuống biển, để ai nấy biết tỏ điều răn cấm...”.

Phần sau bản án, vua giao cho Trịnh Quang Khang việc điều tra ông Đinh Đạt và dặn tŕnh báo lại. Ngày 13.6.1839, quân lính điệu hai ông ra cửa Thuận An thi hành án lệnh. Họ dẫn hai ông lên thuyền chèo ra giữa biển, đặt một thánh giá ngay trong thuyền, để thử xem các ông có đổi ư đạp lên chăng. Khi thất vọng, họ trói hai ông vào cột chèo, thay v́ chặt ngang lưng, họ chặt đầu trước rồi bổ thân ra làm bốn, ném xuống biển làm mồi cho cá.

Bổ Làm Tám Cũng Được

Về phần ông Đinh Đạt, sau khi đi công tác trên tỉnh, ông thu xếp việc nhà và chuẩn bị tâm hồn đón nhận cái chết anh hùng. Cuối tháng 6.1839, một người bạn đồng đội đến báo tin ông Huy và Thể đă bị hành h́nh. Ông Đạt tỏ ra rất vui mừng, báo tin cho cha mẹ bà con, từ giă mọi người. Ông không tính chuyện chạy trốn, chỉ chờ đợi ngày bị bắt. Vợ con ông khóc lóc, ông lựa lời an ủi và quả quyết Chúa sẽ lo liệu quan pḥng mọi sự. Khi quân lính đến vây bắt. Ông lánh mặt ít giờ để xưng tội và rước lễ lần cuối, rồi thản nhiên đi theo họ lên tỉnh. Dọc đường ông sốt sắng lần chuỗi, suy niệm các mầu nhiệm kinh Mân Côi.

Đến Nam định, lính đưa ông vào gặp Trịnh Quang Khanh, quan Tổng đốc bảo ông: “Hai bạn của ngươi v́ cuồng dại không chịu bỏ đạo tà nên đă bị chém làm tư quăng xuống biển. C̣n ngươi, nếu khôn th́ chối bỏ thứ đạo đó đi về với vợ con”. Ông Đạt thẳng thắn thưa: “Tôi đă chịu nhiều cực h́nh v́ đức tin, nay tôi sẵn sàng chịu thêm nhiều h́nh khổ khác nữa. Hai bạn tôi đă được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám khúc cũng được”. Quan biết có đe dọa cũng không thành công, liền lập án gởi về kinh xin xử giảo.

Ông Đạt khi nghe đọc bản án th́ rất b́nh tĩnh, vui mừng đón nhận cái chết gần kề. Ngày 18.7.1839 ông theo lính ra pháp trường Bảy Mẫu, vừa đi vừa cầu nguyện giây lát, rồi chờ quân lính tháo gông trên cổ, ông nằm xuống. Lư h́nh đứng hai bên dùng dây xiết cổ ông cho đến khi tắt thở. Tín hữu làng Phú Nhai thương lượng với quan quân đem thi hài vị anh hùng tử đạo về an táng tại khu đất của người anh cả vị anh hùng. Sau hài cốt của ông Đạt được lưu giữ tại nhà thờ Phú Nhai.

Ngày 27.5.1900, Đức Lêo XIII suy tôn ba vị anh hùng tử đạo: Augustino Phan Viết Huy, Nicolas Bùi Đức Thể và Đaminh Đinh Đạt lên bậc Chân Phước.