Ngày 28 Tháng 7
Thánh Giuse Melchior Garcia SAMPEDRO XUYÊN
Giám mục dòng Đaminh
(1821 - 1858)
Phác Họa Một Chân Dung
Thánh Giuse Sampedro Xuyên với 37 tuổi đời, chín năm truyền giáo, ba năm Giám
mục (hai năm làm Giám mục phó), những con số tương đối khiêm tốn, nhưng sự
nghiệp của thánh nhân thật lẫy lừng vì ngài đảm nhiệm một địa phận lớn nhất khi
đó (154.000 người) và là địa phận chịu bách hại nặng nề nhất. Hơn nữa, cuộc đời
ngài mãi mãi là mẫu gương sáng ngời của một người luôn sống có lý có tình, trung
thành từ những việc nhỏ, khắc khổ hãm mình, nhiệt tâm truyền giáo, chuyên chăm
cầu nguyện và đặc biệt là lòng sùng kính Đức Mẹ.
Tuổi Xuân Đầy Hứa Hẹn
Giuse Melchior Garcia Sampedro Xuyên sinh ngày 29.4.1821 tại San Pedro de
Arrojo, tỉnh Oviedo, Tây Ban Nha. Gia đình cậu tuy thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng
đã sa sút đến chỗ nghèo khổ. Ngay từ nhỏ, cậu Melchior đã bộc lộ khuynh hướng
đạo đức của mình. Cậu thích tụ tập những em nhỏ để dạy kinh. Trong giờ đọc kinh
ban tối ở gia đình, cậu sốt sắng nhận phần xướng kinh, và nghiêm trang quỳ gối
suốt buổi kinh.
Năm 12 tuổi, Sampedro có ý xin đi tu làm linh mục. Cha mẹ cậu tuy nghèo nhưng
vẫn vui vẻ dành dụm gởi con theo học tiếng Latinh với tu sĩ Alvarez, để tiết
kiệm cho gia đình, cậu quyết định tự nguyện đi bộ mỗi ngày đến trường. Những
ngày nghỉ, cậu về giúp song thân trong việc đồng áng. Năm 1835, cậu ghi tên vào
đại học Oviedo. Để giải quyết khó khăn kinh tế, cậu phải xin dạy học tư gia và
phải thường xuyên dùng sách mượn. Nhờ chăm chỉ, cậu đã đạt thành quả cao trong
các kỳ thi.
Từ năm 1842, tuy vẫn còn học, thầy Sampedro đã được mời làm giáo viên dạy văn
chương, La ngữ và âm nhạc tại trường San Jose. Năm 1844, khi đã tốt nghiệp triết
học và thần học, thầy được chọn làm giáo sư phụ tá dạy luân lý cho các tân sinh
viên. Để chia sẻ với hoàn cảnh khó khăn của gia đình, mỗi kỳ nghỉ, thầy đều trở
về quê phụ giúp cha làm ruộng. Khi học sinh tỏ vẻ ngạc nhiên, thầy nói: “Không
có việc nào làm mất danh dự, nếu nó không trái với ý Chúa. Chính Chúa trên trời
cũng đã chọn sinh ra nơi hang đá và nằm trong máng cỏ”.
Ngoài ra trong các kỳ nghỉ hè, thầy Sampedro vẫn dạy giáo lý cho các em thiếu
nhi để chuẩn bị lãnh nhận các bí tích. Dân chúng trong vùng tỏ vẻ mến phục thầy
và quen gọi là “ông cầu nguyện”, vì thời gian dài “ông cầu nguyện” quỳ trước
Thánh Thể cũng như tập quán thầy giữ suốt đời là đọc và suy niệm sốt sắng mười
lăm mầu nhiệm Mân Côi mỗi ngày.
Tu Sĩ Thuyết Giáo
Thế nhưng thầy Sampedro chưa thấy vậy là đủ, thầy cảm thấy Chúa kêu gọi mình
hiến thân cho Ngài một cách trọn vẹn hơn trong việc truyền giáo cho lương dân.
Thầy xin vào tỉnh dòng Đaminh Mân Côi để loan báo tin mừng ở Viễn Đông, dù gia
đình phản đối mãnh liệt, dù lời ngăm đe và nước mắt, thầy đã cương quyết từ bỏ
chức giáo sư, đến Ocana, trung tâm huấn luyện của tỉnh dòng. Thầy lãnh tu phục
ngày 16.8.1845 khi đã 24 tuổi. Ngày 18.8.1846, thầy tuyên khấn trọng thể trong
dòng Đaminh.
Vì đã mãn khóa thần học ở Oviedo, bấy giờ thầy Smapedro chuẩn bị lãnh các chức
thánh và thụ phong linh mục ngày 29.5.1847 tại Madrid, rồi ngày 6 tháng 6 vị tân
linh mục dâng thánh lễ mở tay ở Ocana. Chín tháng sau, cha Sampedro từ Cadiz đi
theo tàu Victoria cùng bốn bạn dòng hành sang Manila ngày 25.7.1848 nhằm lễ
Thánh Giacôbê. Khi đến nơi, bề trên đã xếp đặt để cha phụ trách khoa triết lý
cho trường đại học Santo Tomas, nhưng cha xin phép trình bày ý nguyện đi truyền
giáo ở Việt Nam, và bề trên đã chấp thuận. Chỉ ba tháng, cha đáp tàu đến Macao,
rồi đến Đông Xuyên ngày 28.2.1848 đem theo sắc lệnh của Tòa thánh bổ nhiệm hai
Đức cha Hermosilla Liêm và Marti Gia coi sóc hai địa phận Đông và Trung mới được
phân chia. Sau một thời gian học hỏi kinh nghiệm với vị giám mục lão thành
Hermosilla, cha Sampedro được ngài đặt tên mới là Xuyên.
Sau đó Đức cha Liêm gửi cha đến Nam An học tiếng Việt và phục vụ ở đó cho đến
tháng 3.1850 thì được Đức cha Sanjurjo An đặt làm giám đốc chủng viện ở Cao Xá.
Tháng bảy năm đó, cha được làm đại diện bề trên phụ tỉnh, và tháng 8.1852 thì
nhận chức bề trên phụ tỉnh, chu toàn trách nhiệm giáo dục của mình, cha Sampedro
còn nêu gương cho các chủng sinh về đời tông đồ truyền giáo. Cha giữ luật chay
tịnh, hãm mình theo luật dòng, mặc áo nhặm và gia tăng nhiều việc hy sinh khác.
Ngoài ra cha còn xuất bản nhiều tập sách nhỏ truyền bá đức tin, và đi giảng cho
lương dân. Đức cha An xác nhận cả một họ đạo mới thành lập gồm năm mươi bốn gia
đình, năm trăm tín hữu ở gần Cao Xá là kết quả lòng nhiệt thành của cha bề trên
Sampedro Xuyên.
Giám Mục Trong Cơn Bách Hại
Tháng 8.1852, Đức cha Sanjurjo An lên kế vị Đức cha Marti Gia (qua đời ngày
26.8.1852). Vì địa phận đông quá, Ngài xin phép tòa thánh để chọn cha Sampedro
làm giám mục phụ tá hiệu tòa Tricomia. Lễ phong chức được cử hành rất trọng thể
ngày 16.9.1855 tại làng Bùi Chu, với sự hiện diện của hai giám mục, bốn mươi
chín linh mục và rất đông giáo hữu. Trong chức vụ mới, Đức cha Sampedro Xuyên
càng nhiệt thành hơn với việc truyền bá đức tin. Trong hoàn cảnh nạn dịch lan
tràn, việc rửa tội cho trẻ em ngoại đạo sắp chết gia tăng rất nhanh. Chỉ trong
năm 1855 đã được 35.349 em được rửa tội.
Dầu hoàn cảnh khó khăn, Đức cha Xuyên vẫn lén lút đi thăm các họ đạo, và phải
thi hành việc phục vụ hầu hết vào ban đêm. Tháng 5.1857, khi Đức cha An bị bắt,
Đức cha Xuyên tìm mọi cách để đưa ngài ra, gởi thơ cho cha quản lý miền truyền
giáo tại Trung Hoa, nhờ báo cho các tòa Đại sứ Pháp và Tây Ban Nha can thiệp.
Tiếc rằng khi tàu của liên quân tới, thì Đức cha An đã bị xử tử vào ngày
20.7.1957.
Cuộc bách hại ngày càng gia tăng. Quan quân triệt hạ các nhà thờ Bùi Chu, Lục
Thủy, Phú Nhai, bệnh viện, cô nhi viện và các chủng viện. Tổng đốc Nguyễn đình
Tân hăng hái quyết lùng bắt hết các giám mục, linh mục trong khu vực của ông.
Thủ cấp của Đức cha Xuyên được treo giá cao nên khắp nơi đều có người rình bắt
ngài.
Về phần Đức cha, sợ địa phận có ngày mất chủ chăn, đã dùng quyền Tòa Thánh để
chọn cha Berrio-ochoa Vinh làm giám mục phụ tá có quyền kế vị. Lễ tấn phong âm
thầm có một không hai cho vị giám mục “gậy tre mũ giấy” này đã được cử hành
trong một nhà giáo hữu ngày 13.6.1858 ở Ninh Cường.
Điều hành địa phận trong những ngày khó khăn, cuộc sống của Đức cha Xuyên nổi
bật về lòng đạo đức và tinh thần cầu nguyện. Ngài thường tự xưng là “kẻ tội lỗi
khốn khổ”. Ngài thường khuyên người khác: “Hãy nhìn khuyết điểm của tha nhân để
sửa mình, và sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mọi người”. Đức cha vẫn luôn mặc áo
nhặm và suy gẫm chuỗi Mân Côi, mỗi ngày suy niệm về Đức Mẹ Sầu bi, Nữ Vương các
Thánh Tử Đạo, mẫu gương hiệp thông với những đau khổ của Chúa. Đặc biệt, vì tôn
kính Đức Mẹ, ngài luôn khởi đầu thư từ và các buổi nói chuyện bằng lời chúc tụng
Ave Maria.
Ngục Tù và Án Lăng Trì
Sau lễ tấn phong cho vị giám mục phụ tá, Đức cha Xuyên đi lên Quần Cống, rồi qua
thôn Đông vài ngày, và đến Kiên Lao tạm trú tại nhà ông trùm Khanh. Ngày
8.7.1858 quân lính đã vây bắt được ngài và hai chú giúp lễ: Đaminh Nguyễn Tiệp
và Mai Hiến. Quan bắt Đức cha mang gông xiềng nặng nề và giải ba cha con lên Nam
Định.
Sau hai mươi ngày trong ngục, Đức cha lãnh án lăng trì ngày 28.7.1858. Trên
đường ra pháp trường Bẩy Mẫu đi sau đám lính đông đảo và lý hình hai mươi người
tuốt gươm trần, Đức cha Sampedro Xuyên một tay cầm sách nguyện, một tay giơ lên
ban phép lành cho dân chúng. Tuy nhiên cũng có kẻ lấy bùn ném vào Ngài.
Tại pháp trường, hai cậu Tiệp và Hiến đón nhận phép lành của Đức Cha, rồi đưa cổ
chịu chém. Sau đó, lý hình xô vị giám mục nằm sấp trên chiếu có phủ vải sẵn.
Tước hết y phục, chỉ để lại cho ngài mặc chiếc quần cụt. Rồi họ cột chân tay
thật căng vào bốn cọc ở bốn phía, và thêm hai cọc ở dưới nách để nạn nhân khỏi
cựa quậy.
Năm lý hình cầm sẵn năm cái rìu chờ lệnh quan án sát ra dấu, lần lượt từng người
thi hành nhiệm vụ. Họ chặt từng chân, từng cánh tay rồi mới chặt đầu. Máu tuôn
ra đọng lại thành vũng, trong khi vị tử đạo vẫn giữ được vẻ mặt bình tĩnh, không
ngừng kêu tên Chúa Giêsu cho đến khi tắt thở.
Mấy phút sau, đám lính mổ bụng ngài, cắt gan giơ lên cao và nói: “Xem này, gan
Tây thật là to”, rồi họ chia nhau ăn. Cuối cùng họ đẩy thi thể ngài xuống một hố
sâu, lấp đi và muốn cho voi dầy xéo nữa. Nhưng dù họ thúc giục hò la mà đàn voi
vẫn không đạp lên hố. Thủ cấp vị tử đạo sau ba ngày bị bêu nơi công cộng, quân
lính bằm nát rồi ném xuống sông. Đến sau các giáo hữu đưa thi thể của Đức cha về
mai táng tại Phú Nhai. Năm 1888 thi hài ngài được dời về quê hương Oviedo, nhưng
tay phải của ngài thì để lại Bùi Chu, và tay trái được đưa về Manila, sau bị
thất lạc trong thế chiến thứ hai vì bom đạn.
Ngày 29.4.1951, Đức Thánh Cha Piô XII đã suy tôn Đức cha Giuse Melchior Garcia
Sampedro Xuyên lên bậc Chân Phước cùng với Đức cha An và hai mươi ba vị tử đạo
người Việt Nam.
NB: Theo bản án của vua Tự Đức, Đức cha Xuyên bị ghép vào tội theo Lê văn Phụng.
Nhưng Tòa Thánh có một thư chung của ngài gởi cho địa phận (Đức cha Vinh có nói
đến) cấm nổi loạn và còn ra vạ tuyệt thông chỉ mình ngài có quyền giải (Xc
Diquitie RPD Promotoris Fidei super intro causae, I, tr 17-19).