Ngày 5 Tháng 6
Thánh Luca VŨ BÁ LOAN
Linh mục
(1756 1840)


Truyện tử đạo Thánh Luca Loan, vị niên trưởng trong số 117 thánh tiên khởi Việt Nam (84 tuổi), là một trong những bằng chứng cụ thể nhất về sự phi lư của các bản án tử đạo. Ngài đă bị giết chỉ do án lệnh của triều đ́nh, trong khi tại địa phương mọi người đều kính yêu vị linh mục 84 tuổi râu dài tóc bạc hiền lành đôn hậu. Từ quan huyện, quan ṭa đến lính ngục, tất cả đều thấy ngài đáng tuổi cha ông ḿnh nên xưng hô bằng “cụ”, và c̣n đối xử nhân đạo với ngài: Gần năm tháng tù không một roi đ̣n, không phải cùm gông. Ngày xử tử, hai người lính t́nh nguyện cáng cha ra pháp trường. Cả mười lư h́nh được lệnh chém đầu cha đều bỏ trốn dù biết sẽ bị phạt, và viên đao phủ thứ mười một chỉ dám thi hành phận sự sau khi xin lỗi, và nói rằng ḿnh bị bó buộc miễn cưỡng thôi.

Đời Linh Mục Ướp Nồng Bằng Lời Nguyện


Luca Vũ Bá Loan sinh năm 1756 ở họ Bút Quai, thuộc xứ Bút Đông, địa phận Tây Đàng Ngoài. Từ niên thiếu, cậu đă dâng ḿnh cho Chúa, rồi tu học ở Phú Đa và Xả Bào. Sau khi thụ phong linh mục, cha Loan đến giúp xứ Nam Sang sáu tháng, rồi về giúp cha già Liêm xứ Kẻ Vồi. Năm 1828, khi Đức cha Longer Gai chia xứ Kẻ Vồi làm hai, th́ cha Loan nhận xứ mới là Kẻ Sở cho đến ngày bị bắt. Trong nhiệm vụ linh mục, những người biết cha đều học được nơi cha một mẫu gương sáng ngời về các nhân đức. Đặc biệt là ḷng yêu mến Chúa, nhiệt tâm phục vụ các linh hồn và nếp sống thanh bạch.

Cha Loan chuyên chú nhiều trong việc giảng dạy. Vào mùa Chay, mỗi ngày cha giảng ba lần. Bài giảng của cha ngắn gọn, đơn sơ, dễ hiểu, nhưng rất thực tế với những chỉ dẫn áp dụng cụ thể trong cuộc sống. Cha ít dùng lư luận, cha nói bằng kinh nghiệm bản thân ḿnh về Đấng cha đă gặp gỡ thực sự trong kinh nguyện và Thánh Thể.

Khi cầu nguyện, cha như xuất thần, quên hết mọi chuyện chung quanh, dù ai gây tiếng động sát bên, cũng không làm cha gián đoạn cuộc tiếp xúc với Đấng linh thiêng được. Hầu như cha không bỏ dâng lễ bao giờ. Thánh lễ cha cử hành có mầu sắc trang nghiêm khoan thai, cung kính đặc biệt. Một thầy giảng góp ư xin cha dâng lễ nhanh lên như các linh mục khác. Cha giải thích:

“Không được con ạ. Lễ Misa là việc cao trọng nhất trên trần gian. Không có ǵ đáng để chúng ta phải cử hành thánh lễ cách vội vă cả. Việc thờ phượng Chúa cần phải làm cho trang nghiêm sốt sắng”.

Và thánh lễ của cha chưa kết thúc ở lời chúc b́nh an, cha thường quỳ lại lâu giờ trước Thánh Thể để tạ ơn Chúa.

Cha Loan đă thưa ǵ với Chúa trong giờ kinh nguyện? Có Chúa mới biết được. Phải chăng cha xin Chúa dạy những ǵ phải giảng, hay là cầu nguyện cho tín hữu trong xứ, cầu nguyện cho Giáo Hội, cho đồng bào...? Có điều chắc chắn: Song song với kinh nguyện đó, cha thường xuyên đến thăm những người nghèo khó bệnh tật, cha tận tâm nuôi dạy một vài em hiền lành nhanh nhẹn để chuẩn bị linh mục cho tương lai, và cha nhiệt thành hướng dẫn giúp đỡ nhiều tín hữu sống thân ái với mọi người, dù có đạo hay không.

Một đặc điểm khác nơi cha Loan là ḷng khiêm tốn trong phục vụ. Khi Đức cha gởi linh mục phó xứ về Kẻ Sở, cha tín nhiệm, khích lệ và nâng đỡ tận t́nh. Cha nói: “Xin trao phó mọi sự cho cha, tôi đă già lại chậm chạp. Xin cha coi sóc cửa nhà, người giúp và coi sóc cả tôi nữa”. Tuy được giáo dân sẵn sàng trợ cấp mọi nhu cầu cần thiết, nhưng cha Loan tự giới hạn cho ḿnh. Cha muốn sống nghèo khó theo gương Đức Giêsu. Áo quần, cha mặc cho đến sờn rách, vá trên vá dưới mới chịu dùng cái khác. Ăn uống, cha chọn những món b́nh dân như người trong xứ. Khi đi giảng ở đâu, nếu ai dọn “mâm sang cỗ đầy” một chút là được cha tỏ thái độ liền. Đức cha Jeantet Khiêm ca tụng cha rằng: “Thầy xét các việc cha Loan làm từ khi chịu chức linh mục đến ngày tử đạo, thầy thấy có lẽ trong số linh mục Việt Nam từ trước đến nay không ai sánh bằng”.

Bị Sa Tay Kẻ Gian

Bấy giờ có hai người là Bá hộ Kiểng ở làng Bún và Đô Cang ở phố Vồi. Cả hai đều ngoại giáo và hiện đang chờ xét xử v́ phạm pháp. Họ bàn tính với nhau đến bắt cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là tối ngày 10.1.1840 tại họ Kẻ Chôn, khi cha vừa dùng cơm xong, họ giả làm khách đến thăm cha, rồi mời xuống thuyền chở thẳng về làng Bún. Các tín hữu khi nghe biết tin đến xin chuộc, họ đ̣i 2000 quan. Cha Loan thương giáo hữu nghèo nên tŕnh bày: “Các anh đ̣i 200 may ra c̣n liệu được chứ bạc ngàn th́ vô phương”. Bá hộ Kiểng định hạ giá xuống, nhưng Đô Cang không chịu, v́ muốn nộp cha để được giảm án của ḿnh.

Hai người đem nộp cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ lại phải đưa cha về thẳng Thăng Long. Vừa đến công đường, quan đầu tỉnh chỉ thẳng mặt hai ông mắng rằng: “Quân dại dột, sao bay đang tâm bắt người hiền lành đạo đức, lại đáng tuổi cha ông chúng bay thế này?”. Tuy nhiên v́ vua Minh Mạng đă ra lệnh bắt đạo, và việc cha Loan bị bắt đă công khai, quan đành phải ra lệnh giam cha lại.

Tuổi Cao Nhưng Vững Vàng Sáng Suốt

Tuy phải ra ṭa hai lần, nhưng cha luôn được các quan đối xử lịch sự và kính trọng mái đầu bạc. Các quan chỉ điều tra lư lịch và khuyên cha nên đạp thánh giá. Cha t́m cách nói khéo đi rằng: “Các linh mục nuôi tôi và Đức cha truyền chức cho tôi th́ đă chết cả rồi. Địa chỉ tôi th́ nay đây mai đó, chỗ nào không chứa, tôi ẩn vào chùa nọ đ́nh kia. Riêng việc quá khóa th́ thưa quan, tôi là đạo trưởng, làm sao tuân đều đó được?”. Khi quan hỏi sao lại theo đạo ngoại quốc, cha trả lời: “Tôi chẳng theo Chúa của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa trời đất, Chúa của muôn dân thôi”.

Trong trại giam, cha Loan không hề bị gông cùm, v́ các tín hữu đút tiền cho lính canh và nói: “Cụ già quá rồi, có bảo trốn cũng chẳng đi được, mấy anh cùm làm chi?”. Lính thông cảm tuổi già nên không cùm cha một ngày nào. Một lần quan tỉnh xuống trại giam gặp cha, dặn ḍ lính canh: “Cụ già tuổi tác cao, phải xử cho hẳn hoi, đừng cấm người ta vào thăm”. Nhờ thế, trong những ngày tháng giam tù, cha loan được rất nhiều người thăm nuôi tiếp tế. Quà biếu nhận được, cha chia sẻ cho lính và các bạn tù nên càng được họ quư mến.

Tuy không thiếu thốn vật chất, nhưng v́ sức yếu tuổi già, lại phải ở nơi chật hẹp hôi hám, sau một tháng tù cha Loan trở bệnh nặng, chân phù, mặt sưng, cộng với căn bệnh suyễn kinh niên, làm cha kiệt quệ, nhiều lúc tưởng không hy vọng đi tới đích cùng lănh phúc tử đạo. Viên cai ngục thấy thế tội nghiệp, tâu tŕnh và xin phép quan cho một tín hữu họ đạo Chuôn Trung ở luôn trong tù chăm sóc cha cho đến ngày xử tử. Hai ba giáo xứ nài nỉ cha làm tờ di chúc thi hài sau khi chết cho xứ ḿnh. Cha chỉ cười và nói: “Xác tôi cũng là tro bụi, chết rồi cũng tanh hôi cho gịi bọ rúc rỉa, các ông xin làm chi?”. Thế nhưng cha nhận lời kư giấy trao thi thể cho họ Chuôn Trung, xứ Kẻ Chuôn, tức là xứ đạo của người giúp cha trong tù, được lo liệu mai táng khi cha khải hoàn về Thiên Quốc.

Vinh Phúc Thiên Thu

Quan tỉnh Hà Nội tuy quư trọng cha, nhưng lại sợ vua Minh Mạng, nên khi thấy cha cương quyết không bỏ đạo, ông đành làm án xử trảm quyết. Vua Minh Mạng châu phê và ra lệnh thi hành. Trước ngày xử, một giáo dân t́m cách đưa cha Tuấn vào tù giải tội và trao Ḿnh Thánh cho cha già.

Đúng ngày 5.6.1840, quân lính t́nh nguyện cáng cha già Loan ra pháp trường, nhưng cha cám ơn từ chối. V́ trời nắng gay gắt, cha chỉ chấp nhận cho hai tín hữu đi hai bên cầm lọng che nắng. Viên quan giám sát chủ tŕ phiên xử thấy cha đi bộ cũng bỏ ngựa, giao cho một người lính, rồi cùng đi ra cửa Ô cầu Giấy là nơi thi hành bản án. Đến nơi, ông nói với cha: “Cụ muốn làm ǵ th́ làm đi”. Cha Loan quỳ xuống cầu nguyện, rồi vui vẻ đưa tay cho lính cột trói vào cọc. Mười người lính được chỉ định chém cha Loan bỗng trốn đi hết. Uy tín của cha quá lớn, đến độ họ cứ sợ sau khi chết, hồn cha sẽ nhập vào họ trả thù chăng. Để giải quyết vấn đề, quan liền sai một người lính Nam bộ, anh Minh, người lư h́nh bất đắc dĩ đó đă đến lạy cha Loan và biện bạch rằng: “Việc vua truyền chúng cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho, cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời, cụ nhớ đến cháu nhé”. Cha Loan gật đầu, rồi ra hiệu cho anh thi hành phận sự. Chỉ một nhát chém, cha giă từ trần thế về Thiên quốc. Các tín hữu xông vào cởi áo, thấm máu vị tử đạo như một chứng tích anh hùng của người cha tuy già yếu nhưng mạnh mẽ về niềm tin.

Được ân huệ trối trăng, xứ Kẻ Chuôn đem thi hài cha về chôn cất ở họ ḿnh.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Luca Vũ Bá Loan lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.

Ngày 5 Tháng 6
Thánh Đaminh TOẠI
Ngư phủ
(1812 - 1862)
Thánh Đaminh HUYÊN
Ngư phủ
(1817 - 1862)

Hai Thánh Đaminh TOẠI và Đaminh HUYÊN


Lễ Toàn Thiêu

Trong hạnh tích 117 vị thánh tử đạo trên đất Việt chỉ có sáu bản án thiêu sinh, và tất cả đều diễn ra vào tháng 6.1862. Thánh Đaminh Toại và Đaminh Huyên là hai vị đầu tiên được vinh dự trở thành của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa vào đúng ngày vua Tự Đức kư ḥa ước Nhâm Tuất cho phép tự do tôn giáo (5.6.1862). Ba ngày trước khi bản án được thi hành, hai vị đă biết tin mà không chút nhụt chí. Thay v́ hăi sợ, hai vị đă vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Có lẽ như Thánh Polycarpo thuở xưa, hai vị đă tin tưởng rằng:

“Đấng đă giúp tôi quyết định chịu đau khổ v́ Ngài, sẽ cho tôi sức mạnh. Đấng ấy sẽ làm cho lửa dịu lại và cho tôi đủ sức lướt thắng mọi thử thách”.

Không Để Mất Cơ Hội

Hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên đều là người làng Đông Thành, tỉnh Thái B́nh, đồng thời là tín hữu của xứ Đông Thành (Đông Thành, Đại Đồng và Trung Đồng là ba xứ được tách ra từ xứ Kẻ Mèn, thuộc địa phận Trung Đàng Ngoài). Cả hai đă lập gia đ́nh và là những gia trưởng đạo đức gương mẫu. Hai ông làm nghề đánh cá trên sông Nhị B́nh gần cửa Ba Lạt. Khi bị lính bắt, ông Toại đă trên 50 tuổi, c̣n ông Huyên 45 tuổi. Hai ông toại và Huyên cùng với 16.000 giáo hữu địa phận Trung là nạn nhân trực tiếp của chiếu chỉ Phân sáp tháng 8.1861 của vua Tự Đức. Theo chiếu chỉ này, quân lính và những dân làng ngoại giáo được phép tràn vào các khu vực Công giáo để tịch thu tài sản, sau đó bắt trói các giáo hữu đưa lên huyện để khắc trên má hai chữ Tả Đạo, rồi hoặc trao họ cho người ngoại giáo quản lư, hoặc giam chung họ trong ngục.

Làng Đông Thành cũng cùng chung số phận đó. Lính đến bắt ông Đaminh Huyên và giải lên huyện Quỳnh Côi. Ông Toại v́ bệnh tật không thể đi bộ theo quân lính được, nên họ đề nghị ông nộp tiền chuộc nếu muốn tự do về xum họp với gian đ́nh. Nhưng ông đă từ chối, v́ không muốn để mất cơ hội quư báu là hiến dâng mạng sống ḿnh minh chứng cho miềm tin và t́nh yêu vào Thiên Chúa. Ông xin quan cho phép đi xe đến huyện tŕnh diện, để được chung số phận với các giáo hữu cùng xứ đạo.

Kiên Tâm Bền Chí v́ Đức Kitô

Tại huyện Quỳnh Côi, sau khi khẳng định lập trường đức tin của ḿnh, hai ông Toại và Huyên bị tống giam vào ngục tù Tăng Già. Suốt thời gian chín tháng ở đây, mọi người có thể thấy r ḷng quả cảm kiên cường của hai ông. Nào đói, nào khát, nào đ̣n vọt và ngay cả án tử h́nh cũng không làm các ông nản ḷng. Ngược lại, hai ông tiếp tục khích lệ các bạn kiên tŕ giữ vững niềm tin. Ông Toại thường nói với các bạn tù:

“Nào anh em, hăy can đảm lên. Chúng ta chịu khổ h́nh v́ Đức Kitô, nên chúng ta phải đón nhận đau khổ cách nhẫn nại. Chúng ta phải bền chí đến cùng, và nếu cần, sẵn sàng hy sinh mạng sống v́ Chúa”.

Nhiều lần bị dẫn đến trước công đường và bị ép buộc chà đạp thánh giá, hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên khẳng khái phản đối. Các quan thấy khó ḷng lay chuyển được hai nhân chứng của Chúa, nên kết án thiêu sinh cả hai vị. Khi biết tin này, hai vị hân hoan tạ ơn Chúa. Đến ngày xử án, sáng 5.6.1862, hai vị vui vẻ rảo bước đến giàn hỏa thiêu dành sẵn cho ḿnh. Trước sự chứng kiến của rất đông người, hai ông bước vào cũi tre và chờ đợi. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe r các ông cất tiếng cầu nguyện thật lớn trong khi ngọn lửa phừng phực bốc cao. Không ai ghi lại những lời hai vị đă cầu nguyện khi bị hỏa thiêu, nhưng dựa vào thái độ và tâm t́nh của các vị, chúng ta có thể liên tưởng đến lời nguyện của Thánh Polycarpo trên giàn lửa thuở xưa: “Lạy Chúa các thiên binh, Chúa Tể trời đất, Đấng bênh vực kẻ công chính và những ai bước đi trong sự hiện diện của Người. Con là một kẻ bé mọn trong các tôi tớ Chúa đây, xin tạ ơn Người đă cho con vinh dự được đau khổ, được cầm trong tay triều thiên tử đạo và được kề môi đón nhận chén thương khó. Này đây lạy Đức Chúa, hiến tế con sắp hoàn tất trong ngày hôm nay, con sẽ được thấy lời hứa của người thể hiện. Amen”.

Ngày 29.4.1951 Đức Piô XII đă suy tôn hai ông Đaminh Toại và Đaminh Huyên lên hàng Chân Phước.