Bối-Cảnh Giáo-Dục Tuổi Trẻ Hôm
Nay
Giáo dục chưa bao giờ
lại bị khủng hoảng như hiện nay, đặc
biệt ở tại xã hội Mỹ Quốc này. Đối
với những người đến từ
vùng trời luân lý Á Đông, với
một bầy con chớm lớn, lại càng kinh nghiệm
một cách sâu xa, nhiều khi đến tang thương
chua xót, hơn ai hết, cái tác dụng của cuộc khủng
hoảng giáo dục ở vào thời điểm và địa
điểm mà họ đã chọn để làm nơi sinh
sống cho kiếp đời tha hương của mình!
Thật ra, trước
năm 1975, khi còn ở quê hương, chúng ta cũng đã
cảm thấy phần nào ảnh hưởng của
cơn lốc giáo dục này, được ồ ạt
thổi đến từ vùng trời Âu Mỹ. Như
những lối sống cowboy ngang tàng, hippie ngổ ngáo, và à
la mode lang loàn v.v., do phim ảnh, xuất ngoại, viện
trợ, nhập cảng v.v. tác dụng trên tuổi trẻ
vốn sẵn máu hung hăng, hiếu kỳ, ganh đua,
cách mạng v.v. Bấy giờ, chúng ta đã cảm thấy
giáo dục như đang bị mắc nghẹn ở
cổ của mình, khó mà nuốt trôi. Thế mà, hôm nay đây,
có ngờ đâu, chúng ta lại bị lọt vào giữa
trận lốc mỗi ngày một cuồng loạn
ấy...Và, dù muốn dù không, một khi bị
cơn lốc kinh hoàng này, như
cơn bão lốc (Tornado) thỉnh thoảng vẫn xẩy
ra ở Mỹ, cuốn hút, chúng ta khó lòng mà tránh khỏi
bị choáng váng, mất thăng bằng, rồi mất
chỗ đứng, thậm chí, quay cuồng trong gió.
NHỮNG HOẠT CẢNH:
HỘI NHẬP VÀ ĐỒNG HÓA
Trước hết, chúng ta
không choáng váng là gì, khi những quan niệm luân lý và đạo
đức về đúng sai, tốt xấu, lợi
hại, lành dữ của chúng ta từ trước đến
nay hầu như phải xét lại toàn bộ, để
rồi nhiều khi không còn biết đâu mà theo? Sau nữa,
chúng ta không mất thăng bằng là gì khi bắt đầu
thấy quen thuộc và coi thường tất cả
những gì mà trước kia, lúc mới nhập cuộc, đã
làm cho chúng ta lấy làm chướng tai, gai mắt, khó
chịu? Tiếp theo đó, chúng ta không mất thế đứng
là gì khi, vì bản năng
bảo tồn và định
luật sống còn, chúng ta thật sự đã hoàn toàn
hội nhập vào hệ thống sinh hoạt của
cuộc sống mới? Sau hết, chúng ta đã không
tiến tới giai đoạn quay cuồng theo chiều gió
là gì, một khi, dù vô tình hay chủ ý, để cho những
gì là căn tính làm nên cá thể cũng như quốc
thể của mình bị lai căng bởi phong hoá ngoại
lai; nhất là bị nó đồng hoá khi chúng ta lấy làm
hãnh diện vì cả mình lẫn con cái của mình biết
sống theo lối sống mới, nhất là khi chúng ta
thấy mình hợp thời đâm ra khinh chê đồng hương
của mình, những người không biết lột xác để
thích nghi như mình?
Thật vậy,
Hội nhập vào cơ
cấu tổ chức và sinh hoạt của xã hội Tây phương
này là một việc sống còn và khẩn thiết, không ai
dám và có thể phủ nhận. Bởi vì, đó chỉ là
một phản ứng theo định luật bảo
tồn và là nhu cầu thích nghi của chung sinh vật và của
riêng con người là một con vật có lý trí. Chẳng
hạn, học và nói thông thạo ngoại ngữ để
giao tiếp và làm việc, đó là một
trong những hình thức và
cách thức hội nhập căn bản và thiết
thực nhất để một người tha hương
như chúng ta có thể sinh sống. Mặc dù ngoại
ngữ là tốt, nói ngoại ngữ là cần và lợi như
thế, tuy nhiên, nếu chỉ vì vậy mà chúng ta loại
bỏ hay quên mất tiếng mẹ đẻ của mình đi,
bằng cách, không bao giờ, cả mình cũng như con cái
của mình, nói đến, đọc đến, viết đến
nó
nữa, hay, có bất đắc
dĩ phải sử dụng đến quốc ngữ của
mình cũng ngượng ngùng, ngượng ngập như
một người ngoại quốc xa lạ nào đó...,
thì, không phải hay sao, chúng ta, như nhiều người
nói, là môt con người mất gốc mất rồi? Bởi
vì, trong trường hợp này, chúng ta đã tự để
cho một đặc tính riêng biệt chính yếu làm nên
quốc thể của chúng ta là tiếng Việt dấu yêu
vô tội bị đồng hoá một cách oan uổng bởi
ngoại ngữ!
Từ việc tự chối
bỏ hình thức văn hoá Việt Nam là tiếng mẹ đẻ
của mình đó, chúng ta mặc nhiên, nếu không muốn
nói là minh nhiên, chấp nhận và đón nhận lấy tinh
thần của văn hoá ngoại quốc như là của
mình, khi lấy làm hãnh diện và thoải mái được
có cùng một ý thức hệ như họ, được
giống một lối suy tưởng, phát ngôn, tác hành và
phản ứng như họ, bất kể ý thức
hệ đó đúng hay sai, bất chấp lối sống đó
tốt hay xấu. Với tinh thần hòa đồng như
thế, không phải là chúng ta đã nhập gia tùy tục,
mà là đã tống cựu nghinh tân, đã có mới nới cũ,
đã biến thể hơn là nhập thể.
BỐI CẢNH: TÌNH
NGHĨA GIA ĐÌNH
Tùy tục ở đây có nghiã
là tùy tục mà theo, chứ không phải tục nào cũng
theo. Chẳng hạn, tục không được đối
xử với vợ, với con bằng những luật rừng
như đánh đập một con vật, vì họ, dù
yếu đuối hơn mình hoặc nhỏ bé hơn mình
và có thuộc về mình đi nữa, cũng là một con
người có nhân phẩm đáng kính như mình, nhất
nữa, lại là ruột thịt đáng yêu, đáng
qúi của mình (tại sao
lại hành hạ và đầy đọa bản thân mình).
Một tục hợp tình và hợp lý
để làm người như
thế, dù có không đúng hay không hợp với tính cách đế
quốc làm chồng đã có như một truyền
thống không trái luật của xứ sở chúng ta đi
nữa, cũng cần phải nhập gia tùy tục với
người thật. Thế nhưng, ngược lại,
không phải tục nào cũng theo. Chẳng hạn, tục
động một tí là bà đem ông ra toà xin ly dị. Bởi
vì, làm như thế, tình yêu nên một xương một
thịt, linh thiêng cao quí giữa hai vợ chồng sẽ
chẳng khác gì như một mời mọc ở
ngoài đường và như
một trao đổi trong quán trọ (motel/hotel) vậy
thôi, tan cuộc sẽ không còn nặng nợ gì với nhau
cả. Tình nghĩa vợ chồng như thế cũng
giống hệt như một hợp đồng làm ăn,
không có lợi nữa thì rút lui một cách hợp pháp, anh đi
đường anh, tôi đường tôi; tình nghĩa đôi
ta có thế thôi. Và, nhất là, hậu qủa của
một tình nghĩa hời hợt và lỏng lẻo như
vậy sẽ là những đứa con của họ,
những đứa con giống hệt như những con búp
bê, có được là do sự trao đổi thuần túy
xác thịt giữa vợ chồng như việc trao
tiền lấy của ở ngoài chợ, sau đó, đem
chúng về nhà, rồi, nếu thích thì ôm hôn, khi chán thì
bỏ bê hay vứt vào xó nhà! Thử hỏi, đối với
bản chất vốn hiền thục của người
đàn bà Việt
chung, nhất là, đối với
một người vợ, khi còn ở bên quê hương
vẫn được tiếng là dâu ngoan vợ hiền, dù
chồng có bê bối đến đâu đi nữa, sang đến
đây, trong khi chàng không làm chi nên tội, ngoài một
tội duy nhất là đã lỗi thời so với một
thần tượng khác của
nàng, thế thôi, liền
bị nàng đọan tuyệt đơn phương
một cách đắc thắng trước toà, như
thế, không phải là căn tính làm nên cá nhân của người
vợ và của người đàn bà Việt Nam đó đã
bị phong hoá nơi đây đồng hoá mất rồi là
gì?!
Phải,
Bối cảnh thứ
nhất cũng là môi trường để hiện
hữu, sống động và phát triển của tuổi
trẻ
ở mọi thời đại,
đó là gia đình. Thế mà, ở tại mảnh đất
an sinh xã hội nhất thế giới này, tuổi trẻ
lại bị hoang mang hơn nơi nào hết. Bởi vì, chúng
không biết được lúc nào chúng sẽ trở thành
con cái của chính phủ, hơn là con cái của chính cha
mẹ ruột thịt của chúng, và, bởi vì chúng cũng
không có thẩm quyền can thiệp vào tình yêu hôn nhân của
bố mẹ mình, một khi các ngài chán nhau, không muốn
sống với nhau nữa, và đem nhau ra toà xin ly dị. Để
rồi, sau đó, không sớm thì muộn, chúng sẽ tự
động trở thành những đứa trẻ mồ
côi
bất đắc dĩ, trong
cảnh còn cha, còn mẹ mà không được chung sống
với nhau trong cùng một mái ấm yêu thương như
trước, mà lại phải làm con nuôi của cha ghẻ,
người chồng mới
của mẹ mình, hay của
mẹ ghẻ, người vợ mới của bố
mình, và làm anh em ghẻ với những đứa con mới
của bố hay mẹ mình. Mục đích của giáo dục
là đào tạo cho tuổi trẻ trở nên những con người
tốt lành, biết mình và biết người, để
tôn trọng và yêu thương nhau cho xứng đáng.
Nếu tuổi trẻ ở trong một môi trường
bất hoà của cha mẹ mình, những người giáo dục
chúng và là mô phạm của chúng, đến nỗi, các ngài
không thể sống chung với nhau nữa, để
rồi, mỗi đấng cảm thấy cần phải
lập một tổ ấm khác, khác, khác cho đến khi
nào như ý mới thôi, thì, thử hỏi công việc giáo dục
tuổi trẻ cho chúng làm sao có thể đạt được
thành qủa mỹ mãn, nhờ đó, chúng sẽ trở nên
những nhà giáo dục gương mẫu của con cái
và cho con cái chúng sau này. Cứ thế, nền tảng của
xã hội loài người là gia đình bị băng
hoại. Thế rồi, cả một thế giới
văn minh mỗi ngày một cao hơn, vĩ đại
hơn, lại không có nền móng vững chắc được
xây bằng những con người có tinh thần làm người
do gia đình đào tạo nên như thế, thử
hỏi, nó có thể tránh khỏi những hậu qủa tai
hại sẽ xẩy ra cho nó không?
Bằng chứng đầu
tiên và rõ ràng nhất, chứng tỏ xã hội loài người
đang băng hoại tận gốc rễ của mình, đó
là những luật cho phép ly dị để được
lập gia đình khác, và luật cho phép phá thai. Những
luật này bởi đâu mà có, nếu không phải bởi
chính loài người tự tạo dựng nên chúng như
những đứa con tinh thần, kết qủa của ý
thức hoàn toàn cá nhân chủ nghĩa, và là hậu qủa của
nền giáo dục theo chủ nghiã cá nhân mà ra. Phải, người
ta, những con người lập luật mà tuổi
trẻ của họ đã được hình thành trong
một môi trường giáo dục sao đó, đã có đủ
lý do chính đáng và mục đích tốt lành khi cùng nhau đẻ
ra
những luật vô tiền khoáng
hậu như thế. Lý do của họ là bảo vệ
quyền lợi của con người khỏi bị nhau
bắt nạt (abuse); và, mục đích của họ là để
cho con người được hạnh phúc (happy).
Những lý do và mục đích có tính cách công cộng và công
ích này, cũng chẳng khác gì như việc viện lý để
làm một việc gì đó, của bất cứ một con
người nào đã biết sử dụng lý trí và cảm
thấy trách nhiệm trước lương tri của
mình vậy thôi. Để rồi, dù có lý trước khi
hành động như vậy, hậu qủa mà họ
vẫn phải chịu đó là những ray rứt không yên,
vì, hình như, có một cái gì không ổn (something wrong) sao đó
nơi việc làm của
họ. Cũng thế, từ
ngày những đạo luật thời trang này được
vào đời, thế giới như ở trong một tình
trạng bất an lạ lùng. Một trong những hiện
tượng bất an điển hình nhất của con người
là những phong trào chống phá thai nổi lên khắp
nơi trên đất Mỹ hiện nay. Để bảo
vệ sự sống thể lý của con trẻ, người
ta đã có những thái độ phản kháng công khai như
thế, nhưng, để bảo vệ sự sống tâm
linh của tuổi trẻ khỏi bị tác hại bởi
luật cho phép ly dị, tuổi trẻ đã không biết
làm gì cả, ngoài việc chịu trận cho việc của
người lớn muốn làm gì thì làm. Người lớn
bảo cần phải lập ra luật ly dị để
bảo vệ quyền lợi và hạnh phúc cho con người,
mà tuổi trẻ cũng là con người, lại là
những con người đa số, những con người
vô tội đáng thương hơn hết, quyền lợi
và hạnh phúc của chúng lại bị coi thường và
chà đạp hơn ai hết và hơn bao giờ hết,
lại ở trong một xã hội tự hào là văn minh
nhất, mà tác nhân là chính cha mẹ sinh ra chúng. Vì là những
nhà giáo dục của chúng, cha mẹ chúng dĩ nhiên phải
khôn hơn chúng, nhất là trong trường hợp phải
giải quyết hạnh phúc riêng tư cho họ. Trong trường
hợp này, theo luật pháp, cách riêng ở tại tiểu
bang California, chỉ cần nại lý: những sự
bất đồng không thể giải quyết giữa vợ
chồng với nhau, mà không cần chứng cớ để
chứng minh sự thật như những vụ kiện
cáo khác, cũng đủ cho họ đơn phương đẩy
lui đối phương, cho dù đối phương đã
một thời ngụp lặn ân ái với mình, và bất
chấp đối phương có đồng ý hay không, có
lỗi thật và đáng bị ly dị hay không!
BỐI CẢNH: CƠ
CHẾ XÃ HỘI
Bối cảnh gia đình của
tuổi trẻ là thế. Bối cảnh thứ hai của
chúng là xã hội, một môi trường mà chúng đang
sống với và sống trong, ở Âu Mỹ nói chung và ở
Hoa Kỳ nói riêng, là nơi được tổ chức với
những luật lệ bảo vệ tối đa nhân
quyền của con người, và những thể thức
đề cao hết cỡ tinh thần tự lập của
con người.
Về những luật
lệ bảo vệ tối đa nhân quyền của con người,
phải kể đến, về mặt tích cực,
luật cha mẹ không được bắt nạt
con cái (child abuse), dù chúng có
lầm lỗi đến đâu đi nữa, bằng
những hành động vũ phu có thể gây ra vết tích
(mark) cho chúng; về mặt tiêu cực, luật cha mẹ cũng
không được bỏ bê con cái (child neglect) làm cho chúng
bị nạn vì bất cứ lý do gì. Thế nhưng, cũng
theo luật, một khi đứa trẻ chưa đến
18 tuổi, cha mẹ vẫn phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về bất cứ hành động
phạm pháp nào của chúng gây ra trong xã hội. Đối với
những người làm cha, làm me vốn đã quen với
tính cách giáo dục theo kiểu nhà binh, thì thật là một
cực hình khi phải nuốt hận mà tuân hành những
khoản luật như vậy. Bởi vì, ở bên Việt
Nam, đâu có cảnh con cái đi tố bố mẹ với
chính quyền, khi bị bố mẹ sửa phạt
nặng tay một chút; trong khi bố mẹ, cũng chỉ
vì thương con mới cho roi cho vọt, vì nghĩ
rằng, cũng chỉ có cách bất đắc dĩ đó,
mới may ra trị được những đứa con ưa
nặng như chúng, bằng không, chúng sẽ là những đứa
trẻ phá làng, phá xóm. Mà thật, nếu ở quê hương
con hư tại mẹ, cháu hư tại bà vì được
mẹ chiều chuộng, được bà bênh chữa
thế nào, sang đây,"con hư tại luật, cháu hư
tại lệ vì cũng được luật lệ đề
cao và bảo vệ như vậy. Tâm lý tự nhiên là
thế. Vì được đề cao và bảo vệ như
vậy, con cái, nhất là những đứa bản
chất vốn thấp kém, lại càng lên mặt và coi thường
mẹ cha, đụng đến chúng là chúng không tha, để
rồi lộng hành trong gia đình và tung hoành ngoài xã hội.
Có bị chính quyền làm khó dễ vì những phạm pháp của
mình, đã có cha mẹ đỡ đòn trước
luật pháp. Bằng nếu có vào khám, cũng được
đối xử tử tế về mọi mặt, nên đối
với chúng, cũng kể việc nằm trong lao và ở
trong thời gian cải huấn (probation) như là một
cuộc nghỉ xả hơi để nghĩ thêm mưu
kế, hay học thêm thủ đoạn của nhau mà
trả thù đời, một cuộc đời mà chúng có
thể lại là những đứa con của những
cuộc ghét bỏ và ly dị nhau của bố mẹ của
chúng. Vậy, nếu luật bảo vệ con cái được
lập ra với mục đích để bảo vệ con
người nói chung mà giới trẻ là hiện thân,
tại sao xã hội cũng bao gồm biết bao con người
khác đang sinh hoạt để xây dựng cộng đồng
nhân loại lại phải hứng chịu hậu qủa
của những khoản luật này nơi những con người
trẻ tuổi mất dậy vì được luật
pháp bảo vệ như thế!?
Trong một thể chế như
thế ở xã hội này, tuy cha mẹ có bổn phận
phải tôn trọng con cái một cách kính sợ quyền
bính của công lực, nhưng, về phương diện
quyền lợi, cũng nhờ chúng còn là vị thành niên dưới
18 tuổi, mà, chẳng may cha mẹ của chúng không thể
tự lực mưu sinh để nuôi dưỡng chúng,
vẫn có thể được hưởng chương
trình trợ cấp xã hội (welfare). Ở xã hội này, con
cái trả ơn và nuôi cha, dưỡng mẹ ngay từ bé
là vậy. Lệ thuộc con cái ở hoàn cảnh bất
lực này để mà tạm thời sinh sống khi chúng
còn nhỏ cũng được đi. Thế nhưng,
chỉ khổ cho cha mẹ nào, vì bất đắc dĩ
hay vì ham nhàn đã tìm mánh khóe để tiếp tục hưởng
chương trình trợ cấp này cho đến cùng,
nghĩa là, cho đến khi con cái đủ 18 tuổi mới
thôi, hậu qủa của sự hưởng thụ này
sẽ rất nguy hại đến việc giáo dục con
cái của họ. Tại sao? Tại vì, một khi con cái đã
biết rằng chúng không được cha mẹ chúng nuôi,
mà là chính phủ nuôi, chúng sẽ không biết ơn cha
mẹ chúng mấy nữa. Và, một khi không lệ thuộc
vào cha mẹ của mình về phần xác, tự nhiên chúng
cảm thấy có khuynh hướng coi thường thế
giá của bố mẹ và tỏ ra không phục tùng bố
mẹ là bao. Nhất là, trong hoàn cảnh của những
bố mẹ nghèo nàn, dù hưởng trợ cấp xã hội
hay không, sẽ khó lòng mà đáp ứng được nhu
cầu hay đòi hỏi của tuổi trẻ đang lớn
của con cái của mình, đành phải để cho chúng đi
làm khi chúng đủ tuổi như luật cho phép, hầu đỡ
lo cho được đứa nào hay đứa ấy.
Nhiều khi, gặp những đứa con biết điều,
gia đình lại còn nhờ tiền lương do chúng mang
về đóng góp mới bớt chật vật phần nào
về tài chánh. Thế nhưng, một khi tuổi trẻ
tự kiếm được tiền để gỡ bí
cho cha mẹ nghèo nàn của chúng, chẳng nhẽ chúng
lại không có quyền định đoạt và sử dụng
trên những gì chúng đã công phu kiếm được đó
hay sao? Với số tiền lĩnh được
hằng tháng, chúng có thể mua sắm hoặc làm bất cứ
cái gì chúng thích mà nhiều khi lại không đúng ý với
bố mẹ của chúng, chẳng hạn, hớt đầu
kiểu punk, hút bạch phiến, xem phim X (con heo), ăn
mặc úp úp mở mở v.v. Cha mẹ có bảo, chúng không
nghe cũng chẳng làm gì được chúng, vì là tiền
của chúng; nếu chúng bất ngờ bỏ nhà ra đi
(run away), kể như gia đình lại mất một
nguồn viện trợ đáng tiếc. Rồi, cũng vì
nhà nghèo, cha mẹ đã không đủ tiền tiêu xài cho con,
thì nói gì đến tiền đài thọ chương trình đại
học của chúng. Phần chúng, cha mẹ càng nghèo, chúng
càng tiện và hợp lệ để hưởng
những chương trình cho học (basic grant) hay chương
trình mượn học (student loan) của chính phủ,
nếu chúng không có khả năng để hưởng chương
trình thưởng học (scholarship)
được ban cho
những tuổi trẻ có trí khôn xuất sắc.
Tuy nhiên, không phải chỉ
có những gia đình nghèo khổ ở đất nước
này mới gặp những khó khăn trong vấn đề
chủ quyền giáo dục con cái như thế, một chủ
quyền có tiếng mà không có miếng vì những bất
lực trong việc nuôi con ăn ở, ăn tiêu và ăn
học của những người làm cha, làm mẹ đang
hoàn toàn bị thất the giữa xã hội chỉ thích hợp
với con cái và cho con cái họ
hơn là thích hợp với
họ và cho họ. Đúng thế, trong môi trường xã hội
qúa tối tân và kỹ nghệ hóa này, kể cả những
cha mẹ có khả năng hội nhập và tự nuôi con
bằng sự nghiệp của mình, nghĩa là, những người
vẫn còn toàn chủ quyền giáo dục trên con cái của
mình, nếu không khéo, để những giờ làm ăn phụ
trội, dù làm công hay làm tư, lấn át hết những giờ
sống với con và cho con, thì, kể như, họ chỉ
đóng vai là một người giám hộ con cái cho chính phủ,
cho xã hội, nếu không muốn nói, cho cả băng đảng
mà chúng thuộc về lúc nào đó, họ không hề hay
biết, chỉ vì qúa tin cậy vào nhà trường và qúa ham
mê làm ăn.Tóm lại, những tổ chức của chính
phủ nâng đỡ tuổi trẻ trong vấn đề
sinh sống cũng như học vấn thay thế cho
những cha mẹ không có đủ khả năng như
thế, thật là chính đáng và hữu ích, nhưng, có lợi
hay không là do những kẻ hưởng dùng chúng. Nói chung,
theo nguyên tắc giáo dục, cha mẹ chỉ có uy thế
dậy bảo con cái của mình, một khi chúng còn lệ
thuộc vào mình, đặc biệt về vấn đề
thực tế nhất là vấn đề thể chất.
Để cho chúng ăn riêng trong thời gian mình còn trách
nhiệm trên chúng, vì bất cứ lý do nào, ngoài ý muốn hay
không, kể như cha mẹ đã phó mặc con cái cho định
mệnh của chúng rồi đó, may thì nhờ, rủi thì
chịu.
BỐI CẢNH: HUẤN
LUYỆN XÃ HỘI
Bối cảnh xã hội có
tính cách hành chánh và quyền lợi của tuổi trẻ ở
đất nước này là thế. Ngoài ra, xã hội còn có
một bối cảnh thiết thực và hấp dẫn
hơn nữa đối với tuổi trẻ nhờ ở
sinh hoạt của nó, những sinh hoạt trực tiếp
động chạm đến chính
việc hình thành lý trí và tác
hành của chúng, đó là môi trường học đường
và phương tiện truyền thông xã hội.
Tại học đường,
môi trường hình thành lý trí của tuổi trẻ, ở
xứ sở khoa học đệ nhất thiên hạ và chủ
trương bình đẳng này, tuổi trẻ được
giáo dục một cách hoàn toàn cởi mở (open), cởi mở
cả về phương diện các môn học lẫn cách đối
xử với nhau. Về phương diện các môn
học, tuổi trẻ có thể học và được
dậy cho biết tất cả những gì cần hiểu
biết, kể cả những gì chưa nên hiểu
biết hay chưa đến lúc cần hiểu biết đối
ở lứa tuổi của chúng, như vấn đề
tình dục (sexual), hay liên quan đến tình dục, như
vấn đề hội chứng băng hoại kháng
thể (Aids) và phương pháp dùng bao cao xu (condom) khi làm tình
để đề phòng ... Thêm vào đó, về phương
diện giao tiếp (social), tuổi trẻ được
khuyến khích và huấn luyện sống độc
lập (independent), chủ động (active), dạn dĩ
(assertive), tham gia (involved) và thực nghiệm (experience) bao
nhiêu có thể. Thế nên, chẳng lạ gì, tuổi
trẻ ở đất nước này sống rất là
mình (identity), rất tự nhiên (feeling), rất cho mình (enjoy)
và rất thoải mái (happy) theo ý nghĩ và ý thích tự do của
chúng. Với những gì được nhà trường
dậy cho biết về tình dục, nhân với
tinh thần cởi mở,
dạn dĩ, tham gia, thực nghiệm, cũng do nhà trường
huấn luyện cho như thế, làm thế nào tuổi
trẻ đang tò mò và sôi nổi, khi có dịp, lại không
làm một hay nhiều màn đùa giỡn với nhau xem sao,
ngay trong tuổi trung học (high school), nhất là khi chúng được
tự do lưu trú với nhau trong đại học (dorm).
Ngoài ra, cũng với tinh thần cởi mở, tự
nhiên, thoải mái, chủ động, tham gia, và thực
nghiệm được nhà trường huấn luyện
cho đó, tuổi trẻ tò mò và sôi nổi lại đi tìm
những cảm giác mới lạ nơi việc hút sách
(drug), đến nỗi, bất chấp thủ đoạn,
kể cả gia nhập băng đảng (gang) để
bảo đảm nhu cầu mê mẩn hút sách đến
bỏ cả học hành (drop out) của mình. Thế là, ở
nơi đây, một mảnh đất cơ hội
(opportunity land), với nhân quyền được luật
pháp bảo vệ tối đa và với nhân vị được
bình đẳng hết cỡ, nếu người lớn
có tự do ly dị nhau, thì tại sao tuổi trẻ
lại không có tự do liên kết với nhau để làm
mọi cái chúng muốn, chẳng hạn, làm tình, hút sách, cướp
giật v.v.
Phải chăng, mức độ
cân bằng (balance) tương xứng nơi xã hội này,
giữa người lớn và tuổi trẻ, ở đây
và bây giờ, là thế. Là: nếu người lớn ly tán
(separate) thì tuổi trẻ hợp quần (join). Là: người
lớn ngừa thai (contraception) và phá thai (abortion) thì tuổi
trẻ thụ thai (pregnant) và giữ thai. Là: người lớn
tạo nên những bào thai trong ống nghiệm (tube) hay
những bào thai mướn thì tuổi trẻ tạo nên
những bào thai thật sự, những bào thai nơi chính
mình. Những sự kiện thực tế không thể tránh
khỏi và chối cãi như hiện nay đó, phải
chăng, giống như những phản ứng hóa
học, có tính cách phản hồi (feadback) của hiện tượng,
hay phản kháng (reaction) của tuổi trẻ, hoặc
trả lẽ (response) của người lớn ? Có
thể nói, tuổi trẻ hôm nay, nhất là ở đất
nước này, <B>chẳng những đang là nạn
nhân của xã hội mà còn là tại họa của xã hội
nữa. Nạn Tuổi Trẻ này chẳng qua chỉ là hoa
trái của người lớn trong xã hội, những
bậc làm cha, làm mẹ của chúng, cũng la những người
đã coi thường và bỏ bê chúng để bảo toàn
hạnh phúc cá nhân của mình. Chúng cũng cần có
những lối thoát để có thể tồn tại và
xây dựng xã hội mà chúng đã được người
lớn cho vào đời, dạy bảo và làm gương, một
xã hội được vây chặt bằng một hàng rào
luật pháp mà mỗi ngày lại tự động
quấn chặt lấy mình bởi những rối loạn
(crisis) không thể giải quyết cho hoàn toàn thảo đáng,
nếu không đào lên và đặt
lại nền tảng của nó...
BỐI CẢNH: TRUYỀN
THÔNG XÃ HỘI
Ngoài ra, còn một bối
cảnh nữa, ngoài học đường, mà người
lớn vừa là chuyên viên phối cảnh thật hấp
dẫn, vừa là nhà sáng tác thật tâm lý, lại còn là một
đạo diễn thật tài tình, đến nỗi, có
thể lôi cuốn tuổi trẻ hôm nay thành những minh
tinh màn bạc sống động nhất trên màn bạc cuộc
đời thực tế như những gì chúng đã trông
thấy, đó là phương tiện truyền thông xã hội.
Trong số những phương tiện truyền thông xã hội
tối tân, tiện lợi và hấp dẫn nhất
hiện nay, đó là, vô tuyến truyền hình (television), cũng
gọi là màn ảnh nhõ, hay phim ảnh được
chiếu trên màn ảnh lớn (cinema). Hai phương
tiện truyền thông rõ ràng và sống động này,
phải công nhận là có hấp lực mạnh nhất, có
tác dụng chính xác nhất, trên tác hành của tuổi
trẻ hôm nay. Bởi vì, cũng với tinh thần cởi
mở truyền thống của xã hội này hầu như
được áp dụng trong mọi phương diện
của cuộc sống chung, nên, từ người
cống hiến và trình diễn, đến người thưởng
thức và phỏng theo, nhất là những con người
tuổi trẻ, chẳng khác gì như có cùng một tần
số để có thể tiềm mật thông đồng
với nhau. Phần người cống hiến và trình
diễn thì đồng loã với nhau từ những
cảnh cởi mở trên những đài công cộng (public
broadcast) đến những cảnh cởi bỏ ở
những đài riêng biệt (cable T. V.), hay ở những cuộn
băng hình (video tape) thuộc loại một X, hai X, ba X, được
phổ biến rất ư là mời mọc và hợp pháp ở
các tiệm người lớn (adult bookstore). Ngoài ra,
nếu tuổi trẻ bồng bột lại hung hăng
cần đến những màn mạnh máu (strong feeling),
những cách thức và mánh khóe để sống ngoài vòng
pháp luật, cũng không thiếu những tuồng
truyền hình (T.V. show), hay những băng hình (video tape)
hoặc những cuốn phim (movie) hết sức độc
ác và sát máu, để chúng có thể tập làm anh hùng
bắt giặc hoặc anh hùng làm giặc. Chưa hết,
còn những màn quảng cáo rất ngắn song cũng
rất ư là thuận tai người nghe, được
phát biểu bằng hình thức đề cao mình và đả
phá người một cách mánh khóe mà hợp pháp để dụ
khách và chiếm khách, cũng có thể đi vào tim óc
hiếu thắng của tuổi trẻ cái tinh thần cá
nhân chủ nghĩa, tự cao, tự đại, chỉ có
mình là nhất.
Được thấy
những mẫu mực cởi mở trên màn ảnh nhỏ
(T.V.) hay màn ảnh lớn (ciné) như thế, nhân với
những gì đã được giáo dục cởi mở
trong trường, tuổi trẻ khó lòng mà tránh được
những gì đã, đang và sẽ xẩy ra về vấn đề
tình dục (như đã
đề cập đến ở
trên). Thêm vào đó, vấn đề tình cảm của chúng
cũng bị chi phối không ít, bởi tinh thần tranh thủ
(competition) trong mọi lãnh vực của đời
sống Mỹ quốc này. Tranh thủ khi đi kiếm
việc làm, bằng những đề cao mình hết cỡ
(sell oneself the best) trong những cuộc phỏng vấn xin
việc (job interview) mới hy vọng được
việc. Tranh thủ để làm sao được A hay toàn
A (straight A) trong việc học hành. Tranh thủ để được
yêu, dù được yêu bởi một người đã từng
ly dị (divorce history), mà không sợ mình cũng cùng chung số
phận, chỉ vì cảm thấy mình có giá hơn (better) người
trước.
Tóm lại,
Tuổi trẻ Việt Nam đang
ở trong xã hội Âu Mỹ, nhất là ở một
nơi mà chỉ có đất nước chứ không có dân
tộc là Hiệp Chủng Hoa Kỳ này, qua những bối
cảnh gia đình và xã hội như thế, lớn lên, chúng
sẽ thành một con người nhân bản thuần túy
hơn là một con người nhân ái cao cả; một con
người coi trọng nhân quyền hơn là nhân nghiã; một
con người sống theo luật làm
người hơn là đạo
làm người. Bởi vì, trí óc của chúng đã trở
thành như một bộ máy điện toán (computer) với
đầy những chi
tiết (information) và dữ
kiện (data) được học đường chủ
trương cởi mở cho vào (input). Bởi vì, tâm tưởng
của chúng như một hệ thống điện
tử (electronic) được kết cấu bởi chi
chít luật lệ xã hội liên hệ với nhau một
cách chặt chẽ, đến nỗi, lỏng lẻo một
cái, toàn bộ đều bị ảnh hưởng ngay. Bởi
vì, tác hành của chúng bộc phát hoàn toàn theo tự nhiên như
tính chất của điện lực (electric), hễ
kị nhau là toé lửa, chỉ có đúng lý và hợp nhau mới
chịu nhau mà thôi. Và, bởi vì được chạy
bằng điện lực lý sự và tự ái như
thế, cả con người của tuổi trẻ,
kể cả bộ óc hiểu biết hoạt động
như bộ máy điện toán và huyết mạch
quyền lợi liên kết như hệ thống điện
tư của chúng, đều bị chi phối bởi động
lực (motivation) có tính cách điện lực đó. Ngoài
ra, bộ máy tuổi trẻ này còn bị điều
khiển xa xa (remote control) bởi phương tiện
truyền thông xã hội (media) để làm theo những gì
kích thích thị hiếu và sở thích của chúng.Vậy, là
phụ huynh của tuổi trẻ hôm nay nói riêng, và là
những nhà giáo
dục, những người
còn có những quan hệ hay quan tâm đến tuổi
trẻ nói chung, phải làm sao đây để huấn
luyện cho tuổi trẻ, con cháu của chúng ta, mầm
non tương lai của dân tộc ở nơi xứ
lạ quê người đang quay cuồng trong cơn bão
lốc giáo dục này? Để rồi, dù mang tên gọi
(first name) theo tiếng Mỹ đi nữa, dù nói tiếng
Anh hệt như người Mỹ đi nữa, dù có được
bảo vệ tối đa bởi luật pháp và nâng đỡ
hết cỡ bằng cơ chế của xã hội Mỹ
đi nữa, dù ở học đường có được
huấn luyện theo kiểu Mỹ và phải giao tiếp với
những đồng bạn (peer) đang sống buông
thả đi nữa, và dù được thưởng thức
những phương tiện truyền thông (nhất là T.V.)
thường xuyên đi nữa, chúng vẫn không phải là
những con người máy móc được tạo nên và
bị điều khiển bởi tinh thần kỹ
thuật thuần nhân bản trong việc sản xuất
(production) cho xã hội vật chất nặng tư bản
này, và vẫn không trở thành nạn tuổi trẻ cho gia đình
và cho xã hội, trái lại, còn có những tâm tưởng,
tính nết và tác hành y hệt của một con người
Việt Nam và như một người Việt Nam
thuần túy, nhất là của một con người
quốc tế với một lương tâm chân
chính, tốt lành và khôn
ngoan.Cuốn sách này là một chút chia sẻ hoàn toàn có tính
cách thực nghiệm cá nhân, được kinh nghiệm từ
những năm trực tiếp coi sóc tuổi trẻ ở
một túc xá với tư cách giám thị và dạy một
số kiến thức trung học cho tuổi trẻ ở
một số trường, nhất là từ những
năm làm phụ huynh của tuổi trẻ. Những chia
sẻ này có tính cách vừa phổ quát, có thể áp dụng ở
bất cứ nơi nào và lúc nào, vừa chi tiết, có
thể thích hợp cho từng trường hợp của
người làm giáo dục hay được giáo dục,
nghĩa là, chúng cố gắng trình bày đại quan về
những gì quan thiết liên quan đến việc làm sao để
có thể sống với tuổi trẻ và sống cho
tuổi trẻ. Hy vọng, nó sẽ là những gợi ý
không đến nỗi vô bổ đối với tất
cả những ai đang gặp khó khăn, hay đang ham ước
việc cưu mang và sinh hạ tuổi trẻ hôm nay