“ĐÂY LÀ TRIỀU ĐẠI CỦA SATAN”:
TINH THẦN VÀ ĐƯỜNG LỐI PHẢN KITÔ

Đến đây chúng ta mới có thể hiểu được phần nào lý do tại sao cho đến hạ bán thế kỷ 20 này, nghĩa là sau gần 2000 năm Lời nhập thể, Thiên Chúa mới ngỏ ý muốn chính thức thành lập Đạo Binh Hồn Nhỏ trên thế giới này, như được ghi nhận trong Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu của Ngài ngày 1-4-1967: “Con sẽ thành lập Đạo Binh Hồn Nhỏ của Trái Tim Nhân Hậu Chúa Giêsu”. Đúng thế, Tinh Thần Hồn Nhỏ Phúc Aâm là một tinh thần có tính cách “công giáo” nhất, tức có tính cách phổ quát nhất, bao gồm mọi nhân đức, bao gồm mọi thời đoạn và bao gồm mọi ơn gọi (tận hiến tu trì hay hôn nhân gia đình). Tuy nhiên, kể từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965), Tinh Thần Hồn Nhỏ Phúc Aâm cần được phát động mạnh hơn, rõ hơn, đến nỗi, phải được hóa thân thành một lực lượng mang danh xưng “Đạo Binh Hồn Nhỏ”, là vì, như Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu ghi lại ngày 21-5-1967, “đây là triều đại của Satan”, do đó, Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu ngày 10-10-1967 còn cho biết: “Để chống lại đạo binh Satan, các con hãy lập Đạo Binh Hồn Nhỏ”.
            Đúng thế, như trên đã nhận định, Tinh Thần Hồn Nhỏ Phúc Aâm ở tại việc chấp nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cha sai, tức chấp nhận “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn.1:14). Trong khi đó, như Thánh Kinh Tân Ước cho biết, “nhiều kẻ gian xảo đã xuất hiện trong thế gian, thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thịt. Thành phần này là thành phần gian xảo. Đó là thành phần phản kitô” (2Jn.7). Thành phần phản kitô này không phải là tay sai của Satan và làm nên lực lượng của Satan hay sao, vì “Satan là tên cám dỗ cả thế gian” (Rev.12:9), hắn chính là “con khổng long” (Rev.12:9), tên phản kitô đầu đảng, như Sách Khải Huyền đã ghi lại thị kiến của thánh Gioan tông đồ như sau: “Bấy giờ con rồng đứng trước người nữ sắp sinh con, rình chực nuốt đi con bà khi con bà được sinh ra” (Rev.12:4).
            Thật ra, cho tới “thời gian sau hết” (Heb.1:2) là lúc “Thiên Chúa nói với chúng ta” (Heb.1:2) qua Lời nhập thể, thành phần phản kitô này cũng mới bắt đầu chính thức xuất hiện, đúng như thánh tông đồ Gioan nhận định: “Hỡi các con, đây là giờ phút cuối cùng (final hour), như các con đã nghe rằng thành phần phản kitô đã đến, mà giờ đây những kẻ phản kitô ấy đã xuất hiện rồi. Điều này cho chúng ta chắc chắn đây là giờ phút sau hết” (1Jn.2:18). Và tên phản kitô đầu tiên được Phúc Aâm ghi nhận là Hêrôđê, vị quận vương đã hạ lệnh truy sát “vua Do Thái mới sinh ra tại Bêlem xứ Giuđa” (Mt.2:2,5). Ngoài ra, thành phần phản kitô còn phải kể đến “những người tự nhận chính danh Do Thái” (Rev.2:9), đã kết tội Con Thiên Chúa (x.Mt.26:65-66), đã xin Philatô đóng đanh Người (x.Mt.27:23-26), và đã thách thức Người xuống khỏi thập giá để họ tin nhận Ngài là Con Thiên Chúa (x.Mt.27:40-42).
            Nếu thành phần phản kitô là đồ đệ của Satan, “những phần tử của hội đồng Satan” (Rev.2:9), thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể như thế, tức thành phần chỉ ham chuộng và tôn sùng những gì là cao sang quyền thế, rồi khinh chê và ghê tránh những gì là bần cùng khốn khổ, thì không còn thời điểm nào hơn thời điểm kể từ thập niên 1960 đến nay, thời điểm cho thấy tinh thần phản kitô có thể nói là đã lên đến tuyệt đỉnh.
            Thật thế, kể từ thập niên 1960, thập niên đánh dấu lịch sử con người bắt đầu tiến vào giai đoạn nhảy vọt về khoa học và kỹ thuật, nhưng lại bị khủng hoảng về luân lý và văn hóa. Về khoa học và kỹ thuật, con người đã thám hiểm không gian với mộng chẳng những bá chủ trái đất mà cả vũ trụ nữa, đã phát triển ngành điện tử và điện toán càng ngày càng siêu kỹ thuật, đến nỗi con người cảm thấy gần nhau hơn bao giờ hết, nhờ đủ mọi phương tiện truyền thông xã hội vượt thời không.
            Phải chăng vì cảm thấy khả năng siêu việt của mình nơi khoa học và kỹ thuật như thế, nhất là nơi những tiện nghi lợi ích thiết thực cụ thể do khoa học và kỹ thuật mang lại cho mình như thế, mà con người, về luân lý và văn hóa, càng ngày càng bị suy đồi đến phá sản? Không phải hay sao, cũng từ thập niên 1960, con người đã tự mình hợp thức hóa việc ly dị và phá thai, một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử loài người. Thậm chí con người còn tôn sùng chủ nghĩa duy nhân bản đến nỗi đã bắt đầu hợp thức hóa việc hôn nhân đồng tính và tạo sinh ngoại nhiên.
            Qua những khoản lề luật nhân tạo phản tự nhiên và luân lý này, không phải là bằøng chứng hiển nhiên cho thấy con người hoàn toàn hướng về tự nhiên, tự mình giải quyết mọi vấn đề, cái gì họ nghĩ là đúng, những gì họ muốn là thiện và những gì họ làm là hay, không còn coi Thiên Chúa ra gì, hay phủ nhận Thiên Chúa hiện hữu, hoặc Thiên Chúa có hiện hữu thì Ngài đã chết rồi. Tinh thần tự cao và trào lưu bất phục tùng đến tột độ của thế giới nói chung và Aâu Mỹ là thế giới đặc biệt Kitô giáo nói riêng, trong thời điểm này không cho thấy dấu chỉ “đây là triều đại của Satan”, thời đại của thành phần phản kitô hay sao?
            Không phải “đây là triều đại của Satan”, tức triều đại phản kitô, triều đại không công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể yếu hèn hay sao? Điển hình thứ nhất là phong trào thần học giải phóng ở Mỹ Châu La Tinh từ thập niên 1970, chủ trương ơn cứu rỗi phải được thể hiện bằng đường lối đấu tranh giai cấp như chủ nghĩa cộng sản, một chủ trương như thách thức Chúa Giêsu Kitô phải xuống khỏi thập giá mới đáng tin. Điển hình thứ hai là các khoản luật cho phép phá thai, nếu đứa nhỏ trong bụng mẹ được khám phá thấy có thể bị tàn tật, hay luật cho phép giết chết bệnh nhân bất khả chữa trị trước giờ chết của họ, để họ khỏi đau và xã hội đỡ gánh nặng, hoặc luật cho phép ly dị nhau đơn phương, với lý do chỉ cần cảm thấy không hợp nhau chứ không phải “vì lý do ngoại tình” (Mt.19:9) v.v.
            Tất cả những khoản luật này hay các khoản tương tự đã không nói lên khuynh hướng con người chỉ công nhận một “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt.16:16), chứ không chấp nhận một “Con Người” khổ nạn và tử nạn rồi mới phục sinh (x.Mtù.20:18-19;16:21). Tức con người thiên về khoa học thực nghiệm và kỹ thuật tiện ích ngày nay chỉ giải quyết mọi sự, bao gồm cả lãnh vực lương tâm và luân lý, căn cứ vào những cái lợi thực tế mà thôi, hễ có lợi là tốt, mà tốt thì cần phải làm và được phép làm, có quyền làm, dù có phản trái với lương tâm hay nguyên tắc luân lý phổ quát đi nữa. Chân lý của con người ngày nay là phán đoán chủ quan của họ, và sự thiện của họ là lợi lộc hiện sinh của họ. Nghĩa là con người thuộc “triều đại của Satan” ngày nay muốn thay thế Thiên Chúa trong việc “biết lành biết dữ” (Gen.3:5), tức muốn tự mình định đoạt tất cả mọi sự theo ý riêng của mình, cái gì họ nghĩ lành là lành, như ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính, tạo sinh ngoại nhiên v.v., nên có quyền làm; và cái gì họ cho dữ là dữ, như thai nhi tàn tật, bệnh nhân bất trị v.v., nên cần phải giết đi!
            Thế nhưng, với lý luận sắc bén và thực tế như thế, nhất là lối lý luận này lại được chính quyền hợp thức hóa, được nhiều người theo như thế, làm sao Hồn Nhỏ có thể nhận ra những sai lầm của “triều đại Satan”, tức có thể nhận diện và điểm mặt thành phần phản kitô này, một thành phần mà Thánh Kinh Tân Ước đã nhận định “chúng từ hàng ngũ của chúng ta mà ra” (1Jn.2:19). Chính vì thành phần này, cũng Thánh Kinh Tân Ước nhận định, là thành phần “gian xảo” (2Jn.7), mà Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ trong những ngày cuối thời, “lừa đảo nhiều người” (Mt.24:5,11), thậm chí lừa đảo “cả thành phần được chọn” (Mt.24:24). Ngay thánh Phêrô, sống ở kề bên và sống ngay trước một “Đức Kitô” (Mt.16:16) thực sự, như ngài được ơn Chúa tuyên xưng (x.Mt.16:17), mà còn trở thành “Satan” (Mt.16:23), tức còn khuynh hướng phản kitô, chưa hoàn toàn công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể, huống chi chúng ta đã sống xa Người cả gần 2000 năm, chưa hề được “nghe bằng tai, thấy bằng mắt, sờ bằng tay” (1Jn.1:1), như các vị tông đồ là chứng nhân tiên khởi của Kitô giáo chúng ta.
            Bởi thế, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trách cứ thánh Phêrô trong việc thánh nhân “không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài người” (Mt.16:23), tức chỉ theo phán đoán tự nhiên của mình hướng về những gì tốt lành chủ quan, chứ “không chấp nhận” (Jn.1:12) mạc khải của Thiên Chúa, một mạc khải được trọn vẹn thể hiện nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn.1:14) là Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, chúng ta có thể kết luận để lột trần bộ mặt phản kitô nơi chính bản thân mình cũng như trong việc giao tiếp xã hội. Sau đây là một số dấu hiệu:
            Dấu hiệu thứ nhất: những ai không tuân phục quyền bính Giáo Hội và Đức Thánh Cha nói riêng, đều là phản kitô, vì Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô và vị đại diện của Người trên trần gian là đầu của thân thể này, không tuân phục Giáo Hội và Đức Thánh Cha là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thể.
            Dấu hiệu thứ hai có thể nhận diện thành phần phản kitô là họ không tin hay coi thường Bí Tích Thánh Thể, một thực tại thần linh mà Đức Giêsu Kitô còn đang hiện diện bằng cả thần tính cũng như nhân tính của Người nói chung và Mình Máu Thánh Người nói riêng; không tin hay tôn sùng Thánh Thể là dấu chứng tỏ phản kitô, thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.
            Dấu hiệu thứ ba cũng không kém phần vững chắc để nhận ra thành phần phản kitô là họ không nhận biết Mẹ Maria, thậm chí còn chỉ trích và chống đối việc tôn sùng Mẹ, vì như thế là họ tỏ ra cũng không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, tức đã được sinh ra bởi Mẹ Maria.
            Dấu hiệu thứ bốn để nhận ra thành phần phản kitô là lòng thù hằn thánh giá của họ, ở chỗ không phải họ chỉ sợ hãi và tránh né thánh giá theo tính tự nhiên như mọi con người bình thường, mà còn dùng thủ đoạn bất chính để tiêu diệt thánh giá nữa, bằng cách không được như ý là ly dị, là phá thai, là giết người nhân đạo v.v.; mà thánh giá là đường lối duy nhất Lời nhập thể đã dùng để cứu rỗi nhân loại, do đó, “trở thành những kẻ thù của thánh giá Đức Kitô” (Phil.3:18) như thế tức là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.