NHỮNG BIẾN CỐ CUỐI THỜI

Đối với 2 đời giáo hoàng sau cùng, sau khi phát hành cuốn Hận Thù Quyết Thắng vào tháng 5/1996, tôi tự nhiên linh cảm thấy hai sự việc sẽ xẩy ra, đó là việc hiệp nhất Kitô Giáo và việc Do Thái trở lại.

            Việc hiệp nhất Kitô Giáo sẽ xẩy ra trong thời của vị mang mật hiệu “De Labore Solis”, mà tôi nghĩ rằng sẽ mang danh hiệu là Phêrô Phaolô. Thế nhưng việc hiệp nhất này có thể chỉ xẩy ra giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Giáo Hội Chính Thống Đông Phương mà thôi. Vì ngai tòa của thánh Phêrô, thủ lãnh tông đồ đoàn, ở Tây Phương (Tòa Thánh Rôma), và vùng truyền giáo của thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại lại ở Đông Phương. Thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, như “một tân Gia-Liêm” (Rev.21:2), cần phải được Dân Tân Ước xây dựng lại để có thể “diễm lệ như một cô dâu sửa soạn nghênh đón phu quân của mình” (Rev.21:2) đến lần thứ hai, cũng giống như việc Dân Cựu Ước, sau cuộc đất nước phân chia nam bắc và dân chúng bị lưu đầy bên Babylon, đã trở về xây lại đền thờ Gia-Liêm trước khi Chúa Kitô đến lần thứ nhất vậy.

            Việc dân Do Thái trở lại sẽ xẩy ra trong thời của vị mang mật hiệu “Petrus Romanus”. Bởi vì, theo lời Thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Rôma, đoạn 11, câu 26, thì: “cho đến khi đủ số Dân Ngoại được mời gọi thì bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu”. Thế nhưng, làm thế nào dân Do Thái có thể trở lại được, qua việc họ chấp nhận “Chúa Kitô vẫn là một” (Heb.13:8), một Chúa Kitô Vinh Hiển “hôm nay và muôn đời” (Heb. 13:8), khi mà họ không công nhận Chúa Kitô Lịch Sử “hôm qua” (Heb. 13:8) là Đấng đã trực tiếp đến ở giữa họ lần thứ nhất? Phải chăng bản hiệp ước “Vatican và Do Thái” được ký kết tại Gia-Liêm ngày 30-12-1993 giữa đại diện tòa thánh và Do Thái là một trong “những dấu chỉ thời đại” (Mt.16:3)? Cũng hy vọng như vậy. Tuy nhiên, qua những biến cố xẩy ra từ thời điểm của bản hiệp ước này tới nay cho thấy, việc dân Do Thái trở lại cũng không phải là chuyện dễ, và sẽ là một việc có thể xẩy ra trước việc hiệp nhất Kitô. Có thể mãi cho đến thời gian “trong cuộc bắt bớ cuối cùng của Hội Thánh Rôma”, dưới triều của vị mang danh hiệu “Petrus Romanus”, dân Do Thái mới nhận ra chân tướng của “tên vô loài” chiếm ngự Rôma bấy giờ, một nhân vật (có thể là kẻ lãnh đạo nhóm Tam Điểm bấy giờ) mà “những phần tử của hội đồng Satan” (Rev.2:9) “pro” như Đấng Cứu Thế của họ. Vì họ vẫn trông mong một Đấng Cứu Thế đầy uy quyền chứ không phải là một vị không thể xuống khỏi thập giá. Mà theo thư thứ hai của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Thesalônica, thì “tên vô loài này sẽ xuất hiện như phần việc của Satan, được trang bị bằng mọi quyền lực cùng với dấu lạ và sự lạ đầy những dối trá” (2:9). Thế nhưng, cuối cùng, thấy “tên vô loài” này không hoàn toàn phản ảnh một Chúa Kitô Thiên Sai đúng như lời Thánh Kinh của mình, họ mới nhận ra Chúa Kitô Lịch Sử chính là “một Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và muôn đời” (Heb.13:8), và họ đã trở lại, để hoàn tất lời Chúa Giêsu, “chủ chiên nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên” (Jn.10:11), là “rồi chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên” (Jn.10:16). Mà vị chủ chiên cuối cùng, như sấm truyền của tiên tri Malachi, đó là vị giáo hoàng mang danh hiệu “Petrus Romanus”, “vị sẽ chăn nuôi đàn chiên mình giữa những tai biến; sau đó, thành đô có 7 ngọn đồi sẽ bị phá hủy và có Vị Thẩm Phán đáng sợ sẽ xét xử nhân gian”.
            Tuy nhiên, trước khi “có Vị Thẩm Phán đáng sợ sẽ xét xử nhân gian”, Á Thánh Faustina đã được Chúa Giêsu mạc khải cho biết như sau: “Trước khi Cha đến như một Quan Aùn Công Minh, thì Cha đến như Đức Vua của Tình Thương. Trước ngày công thẳng, dân chúng sẽ được thấy một dấu hiệu trên các tầng trời như thế này: Tất cả ánh sáng trên các tầng trời sẽ bị tắt hết, và bóng tối khủng khiếp sẽ bao trùm cả trái đất. Đoạn trên bầu trời sẽ xuất hiện hình bóng cây thánh giá, và từ những kẽ hở của các bàn tay chân bị đóng đanh của Chúa Cúu Thế sẽ phát ra những ánh sáng cả thể chiếu soi mặt đất trong một khoảng thời gian. Điều này sẽ xẩy ra không lâu trước ngày cùng tận”.

            (Bài này chính là Phụ Bản ở phần cuối cuốn “Canh Tân Sống Đạo” của tác giả, Cao-Bùi, 1998, trang 105-126, cũng là bài đã được nguyệt san Dân Chúa Mỹ Châu phổ biến số tháng 2/1998).