21.- Con Người Vào Đời

 

 

Vào Đời: Chủ Trương Của Khổng Giáo 

 

T

rước hết, “vào đời” đây không phải là ra đời, một biến cố chào đời hay sinh vào trần gian, một biến cố hoàn toàn trái với ư nghĩa “qua đời” hay “ĺa đời”, một biến cố chết đi hay ra khỏi trần gian. Bởi thế, con người “vào đời” đây là con người sau khi đă được giáo dục để thành nhân bắt đầu xuống núi hành hiệp, bắt đầu bước vào đời, bắt đầu lập thân xây dựng sự nghiệp, bắt đầu dấn thân gánh vác trách nhiệm làm người trong xă hội, những trách nhiệm chính yếu đối với gia đ́nh thân thuộc, đối với quốc gia dân tộc, cũng như đối với nhân gian đồng loại. Đó là lư do Khổng Giáo chủ trương con người vào đời cần phải trải qua tiến tŕnh bốn giai đoạn là “tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”.

 

Thật vậy, theo chủ trương của Khổng Giáo, một tôn giáo, đúng hơn, một triết thuyết thiên về xă hội, một triết thuyết sau khi nhấn mạnh đến chiều kích giáo dục con người “nhân chi sơ tính bản thiện” thành một con người chính nhân quân tử, th́ tiến đến chiều kích xây dựng xă hội. Thế nhưng, để có thể xây dựng xă hội, xây dựng thực sự và có công hiệu, con người trước hết cần phải tu thân, bằng không, họ sẽ không có đủ tư cách và khả năng để “tề gia”, lại càng không thể “trị quốc”, nhất là “b́nh thiên hạ”. Như thế, vấn đề “tu thân” của Khổng Giáo ở đây cũng chính là vấn đề giáo dục, vấn đề phải làm sao để con người có thể trở thành một chính nhân quân tử. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, giáo dục là vấn đề cả một đời người chứ không phải cho đến khi con người lên tới 18 hay 21 tuổi là xong, là tự nhiên thành nhân, là thành chính nhân quân tử. Đó là lư do, vấn đề “tu thân” của Khổng Giáo ở đây c̣n áp dụng cho tất cả mọi con người đă thành nhân về thể lư nhưng chưa trọn về “minh đức”.

 

Thế nhưng, thực tế c̣n cho thấy con người ta dù “nhân chi sơ tính bản thiện” nhưng cũng chỉ là những con người “nhân vô thập toàn”. Bởi đó, không ai dám vỗ ngực tự cho ḿnh là chính nhân quân tử, là thánh nhân thánh hiền. Cùng lắm, v́ tư cách đặc biệt và nổi bật, một số con người rất hiếm hoi nào đó, như các vị sáng lập đạo giáo hay như một Mẹ Têrêsa Calcutta chẳng hạn, ngay khi c̣n sống, đă được thiên hạ mộ mến tôn sùng như những bậc thánh hiền thánh sống, đă được nhiều người đi theo làm môn đệ. Như thế, vấn đề được đặt ra ở đây là, nếu xă hội chỉ có một ít rất hiếm chính nhân quân tử, thỉnh thoảng mới xuất hiện một thánh nhân thánh hiền, những vị đáng được gọi là “anh hùng tạo thời thế” này, th́ vấn đề “tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ” phải chăng chỉ là một thứ mộng tưởng cao vời, hay cùng lắm chỉ là một cái ǵ thuần lư thuyết lư tưởng, không bao giờ có thể hiện thực hay rất hiếm người có thể thực hiện được.

 

 

Vào Đời: Chủ Trương Của Kitô Giáo

 

Phần Kitô Giáo, như bài lần trước về “con người thành nhân” đă đề cập tới, con người được kêu gọi nên thánh chứ không phải chỉ nên người, chỉ thành nhân, mà là được kêu gọi nên thánh trong một t́nh trạng bất toàn và tội lỗi, trong một trạng thái con người c̣n mang trong ḿnh đầy những mầm mống tội lỗi, lúc nào cũng có thể sa ngă, lúc nào cũng có thể trở thành một tội nhân, trở thành một con người “tiểu nhân”, thậm chí trở thành một con người “bần nhân” hay “tiện nhân” trước mắt thiên hạ. Chính v́ thế, cuộc sống nên thánh của Kitô hữu mới là cuộc sống vượt qua sự chết mà vào sự sống, mới là cuộc sống đi từ tối tăm tiến ra ánh sáng lạ lùng, mới là cuộc sống về nguồn, tức trở về với nguồn mạch chân, thiện, mỹ nguyên thủy của ḿnh là thực tại mà họ đă mù quáng bị lạc xa ngay từ ban đầu. Và môi trường để con người có thể nên thánh, có thể về nguồn, đó là bản thân con người, là gia đ́nh thân thuộc, là quốc gia dân tộc, là nhân gian đồng loại, những môi trường được Khổng Giáo gọi là “tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”.

 

Tức là, Kitô Giáo không chủ trương con người phải là chính nhân quân tử, là thánh nhân thánh hiền đă rồi mới làm ǵ th́ làm, như làm linh mục, làm tu sĩ v.v. trái lại, cứ làm rồi sẽ nên thánh hay nhờ làm mà trở thành thánh nhân thánh hiền; bằng không, ai dám cho ḿnh là thánh nhân, là toàn hảo, để có thể đóng vai giáo hoàng hay giám mục trong việc chăn dắt con chiên bổn đạo, đóng vai thày cô dạy bảo học sinh hay cha mẹ giáo dục con cái, đóng vai tổng thống dẫn dắt dân chúng hay thẩm phán phân xử tội phạm v.v. Đó là lư do Đấng Sáng Lập Kitô Giáo đă dạy những người Do Thái đang tính xử tử một người phụ nữ bị họ bắt quả tang đang phạm tội ngoại t́nh, một tội mà theo luật của họ sẽ bị ném đá chết, là “ai trong quí vị không có tội th́ hăy ném đá chị ta trước đi” (xem Gioan 8:9).

 

Phải, chính v́ thực sự cảm nhận được thân phận bất toàn của ḿnh, một cảm nhận mà con người thành nhân nào cũng phải có, bằng không họ chưa thực sự thành nhân, chưa thực sự biết ḿnh, tức c̣n tỏ ra những hành động mộng du ngông cuồng trái với nhân cách làm người, con người vào đời mới có thể tiến tới chỗ nhận biết tất cả những ǵ tốt lành nơi ḿnh, về khả năng cũng như về phẩm chất, đều là tặng ân họ nhận được từ trên cao. Bởi thế, chân lư thứ hai con người thành nhân vào đời thâm tín được và không thể nào sống ngược lại, đó là chân lư lưỡng diện về vai tṛ phổ quát của con người sau đây: đối với Trời, với Đấng đă ban cho họ những ǵ họ có nơi thân phận làm người, họ chỉ đóng vai tṛ của một người quản lư trong việc phân phát những ǵ họ có cho anh chị em đồng loại của ḿnh, và khi thi hành phận sự phân phát như thế, nghĩa là họ không sống cho ḿnh mà là cho người, th́ đối với tha nhân, họ chỉ đóng vai tṛ của một người tôi tớ phục vụ không hơn không kém.


 

Vào Đời: Một Hiện Trường Thế Giới

 

Chân lư lưỡng diện liên quan đến vai tṛ phổ quát này của con người vào đời vô cùng quan trọng, bởi v́, tất cả vận mệnh của loài người và tương lai của thế giới này đều lệ thuộc vào chân lư ấy, đúng hơn, lệ thuộc vào việc con người có nhận ra chân lư này và sống chân lư này hay chăng.

 

Lịch sử cho thấy, bao lâu con người c̣n chủ trương “pro choice” trong tất cả mọi sự, tức cho ḿnh có toàn quyền, trên tất cả những ǵ ḿnh có, như tử cung nơi thai mẫu hay sự sống nơi thai nhi hoặc sự sống nơi bệnh nhân nan trị, chứ không chịu đóng vai tṛ quản lư viên cho Hóa Công và tôi tớ phục vụ tha nhân, th́ con người đang ra tay tàn phá tất cả những ǵ ḿnh có, thậm chí đang đi đến chỗ tự diệt, như t́nh h́nh con người văn minh tân tiến ngất ngưởng ngày nay song chỉ biết quay cuồng với khuynh hướng thụ hưởng - consumerism theo cá nhân chủ nghĩa - individualism đang hiển nhiên cho thấy.

 

Đặc biệt về phương diện chính trị, một con người chỉ ham danh và tham quyền cố vị th́ thử hỏi họ có thực sự phục vụ thành phần nhân dân đă bầu họ lên hay chăng, một thành phần đă căn cứ vào những hứa hẹn ban đầu đủ thứ của họ có vẻ vuốt ve mị dân để đạt được đích điểm tham vọng quyền uy thế lực của họ. Có thể nói, hay phải công nhận rằng, tất cả mọi sự lộn xộn về vấn đề cai trị đều do thành phần lănh đạo chính trị không biết sống tinh thần Đức Kitô đă dạy các môn đệ của Ngài, đó là tinh thần “ai muốn làm đầu phải làm đầy tớ phục vụ mọi người” (xem Mathêu 20:26).

 

Lịch sử cũng cho thấy, chính v́ thâm tín được chân lư về nhân loại học siêu nhiên liên quan đến vai tṛ của ḿnh là quản lư của Thiên Chúa và là đầy tớ của nhau như thế mà, trong số các đạo giáo lớn trên thế giới, chỉ có Kitô Giáo, theo gương Vị Sáng Lập của ḿnh, Đấng tuyên bố “đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ” (xem Mathêu 20:28), và đă làm gương qùi xuống rửa chân cho các môn đệ của ḿnh (xem Phúc Âm Gioan 13:5), mới lập lên những cơ sở phục vụ nhân quần xă hội ở đủ mọi lănh vực, để cố gắng đáp ứng đủ mọi nhu cầu thiết yếu của anh chị em đồng loại của ḿnh, nhất là thành phần bất hạnh nhất trên đời, thành phần được Vị Sáng Lập gọi là “anh em hèn mọn nhất của Ta” và tuyên bố là làm ơn cho họ chính là làm ơn cho Ngài (xem Mathêu 25:40).

 

Ngày 6/11/2002, tại Văn Pḥng Báo Chí của Ṭa Thánh Vatican, Đức Tổng Giám Mục Javier Lozano Barragan, chủ tịch Hội Đồng Ṭa Thánh Về Mục Vụ Chăm Lo Sức Khoẻ, đă cho biết về hội nghị quốc tế lần thứ 17 do hội đồng này tổ chức. Đề tài của hội nghị lần này là “Căn Tính của các Tổ Chức Công Giáo Về Việc Chăm Lo Sức Khỏe”. Hội nghị với 700 tham dự viên này đă kéo dài 3 ngày, từ 7-9/11/2002, tại Sảnh Đường Tân Synod ở Vatican. ĐTGM chủ tịch cho biết Giáo Hội Công Giáo đang điều hành khắp thế giới 6.038 bệnh viện, 17.189 cấp cứu viện, 799 trại cùi, 13.238 trung tâm cho người già, yếu liệt và tật nguyền, 8.711 viện mồ côi, 10.368 trung tâm giữ trẻ, 10.565 trung tâm cố vấn gia đ́nh, 18.789 trung tâm giáo huấn hay cải huấn xă hội, và 25.257 trung tâm thừa tác vụ chăm sóc sức khoẻ. Tổng cộng tất cả các tổ chức chăm sóc sức khoẻ của Công Giáo trên thế giới là 110.954.

 

Chưa hết, cũng chính v́ ư thức được chân lư làm người thực sự chỉ đóng vai tṛ là quản lư của Thiên Chúa, ban phát tất cả những ǵ nhận được từ Ngài cho anh em đồng loại của ḿnh theo phận sự của một người tôi tớ phục vụ như thế, mà Giáo Hội Công Giáo đă mạnh mẽ lên tiếng phản đối, cho dù có bị chống đối, bất cứ thành phần nào v́ không sống đúng với chân lư làm người này đă tác hại cho công ích.

 

Đó là lư do những vị thẩm quyền của Giáo Hội Công Giáo đă ban hành những văn kiện hiện đại khi thấy có những hiện tượng, biến chuyển hay trào lưu phi nhân bản, phản luân thường đạo lư.

 

Điển h́nh nhất là ba bức Thông Điệp lừng danh sau đây: Bức Thông Điệp thứ nhất là Thông Điệp “Tân Sự” Rerum Novarum của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, ban hành ngày 15/5/1891 chẳng những lên án nạn bất công xă hội về phía tư bản mà c̣n cả nạn cộng sản về phía xă hội chủ nghĩa nữa; Bức Thông Điệp thứ hai là Thông Điệp “Sự Sống Con Người” Humanae Vitae của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, ban hành ngày 25/7/1968, để lên án hành động ngừa thai nhân tạo phản mục đích thực sự của hôn nhân chính đáng và đề nghị theo phương pháp ngừa thai tự nhiên; và Bức Thông Điệp Thứ Ba là Thông Điệp “Phúc Âm Sự Sống” Evangelium Vitae của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ban hành ngày 25/3/1995, để lên án văn hóa sự chết, như phá thai và trợ an tử, và phát động văn hóa sự sống.

 

Riêng vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trước Hội Nghị Về Dân Số ở Cairô Ai Cập năm 1994, c̣n gửi thư cho Vị Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc bấy giờ, cũng như cho từng vị Quốc Trưởng trên thế giới về bản dự thảo của Liên Hiệp Quốc muốn kiểm soát dân số bằng việc hệ thống hóa vấn đề phá thai khắp thế giới là những ǵ sai lầm và vô cùng nguy hiểm. Cuối cùng, trước tinh thần chiến đấu cương quyết và dũng mănh cho chân lư của phái đoàn đại biểu Công Giáo, vấn đề này đă đành phải tạm xẹp xuống.

 

 

Vào Đời: Nhân Loại Học Siêu Nhiên

 

Tóm lại, một con người vào đời là một con người nhập cuộc với xă hội để phục vụ, để sống cho đời, chứ không phải chỉ để hưởng thụ, để sống cho ḿnh. Bởi v́, trước hết, họ đă ư thức được thân phận tạo vật hữu hạn đầy bất toàn của ḿnh, sau nữa, từ đó, họ đă cảm nhận được vai tṛ quản lư của ḿnh đối với những ǵ họ có, cũng như vai tṛ tôi tớ phục vụ của họ trong việc chia sẻ những cái họ có đó, và sau hết, họ c̣n tỏ ra bênh vực những ǵ sai trái làm hại đến công ích xă hội nữa. Như thế, bốn luân đức trụ đă được bàn đến trong bài “con người thành nhân”, là khôn ngoan, công bằng, tiết độ và can đảm, bốn đức hạnh chứng tỏ con người thành nhân, khi vào đời, con người đă thực sự sống và thực thi chúng.

 

Đúng vậy, con người vào đời chính là con người thành nhân, trước hết, ở chỗ họ khôn ngoan sống trong chân lư làm người, biết ḿnh mang thân phận bất toàn để rồi cố gắng đóng đúng vai tṛ quản lư và tôi tớ của ḿnh.  Khi nỗ lực để cho chân lư làm người này được thể hiện nơi cuộc đời, qua hành vi cử chỉ của ḿnh, là con người đă sống một đời sống công bằng, đúng như lời Vị Sáng Lập Kitô Giáo dạy: “Trả về cho Thiên Chúa những ǵ của Thiên Chúa” (xem Mathêu 22:21), một tác động hoàn trả công bằng; thế nhưng, tác động hoàn trả công bằng này không phải là hoàn trả trực tiếp cho Đấng Tạo Hóa Tối Cao Vô Cùng Hoàn Hảo và Phong Phú chẳng cần ǵ của tạo vật, song hoàn trả một cách gián tiếp cho Ngài qua tha nhân đồng loại, thành phần bất toàn thiếu thốn mọi mặt, thành phần mà Ngài muốn những ǵ Ngài ban cho mỗi một tạo vật ngôi vị trong họ đều phải được sinh hoa kết trái qua việc chia sẻ và phân phát tặng ân của Ngài cho nhau chung hưởng, nhờ đó tất cả mọi người cũng được hưởng sự phong phú và trọn hảo của Ngài.

 

Để có thể sống trọn chân lư làm người ấy, tức để hoàn toàn và thực sự sống một đời sống khôn ngoan và công bằng như vậy, con người thành nhân vào đời c̣n chứng tỏ cho thấy là họ chẳng những đă cố gắng sống tiết độ biết làm chủ ḿnh, mà c̣n hết sức can đảm sống chân lư ấy nữa, nhất là những lần họ bất chấp mọi giá hoạt động và vận động để bảo vệ nó hay bênh vực nó khi nó bị đam mê dục vọng của loài người ngông cuồng lấn át, bóp cổ và sát hại một cách phũ phàng và oan nghiệt!

 

Như thế, một con người vào đời, sống cho đời hơn cho ḿnh, phục vụ hơn hưởng thụ, một cách khôn ngoan, công bằng, tiết độ và can đảm, là con người thực sự đă đạt tới tầm mức thành nhân toàn hảo của ḿnh nhờ đời và trong đời.

 

Nếu thân xác của một thai nhi được h́nh thành nên h́nh dạng con người trước khi được ra chào đời thế nào, th́ tinh thần của con người cũng được đạt đến tầm vóc thành nhân của ḿnh nhờ đời và trong đời để được tái sinh vào đời với một con người mới như vậy.

 

Bởi thế, nếu con người thành nhân để vào đời th́ con người vào đời là để thành nhân, nhờ “thời thế tạo anh hùng”, v́ khi vào đời là lúc con người bắt đầu được đời trực tiếp cưu mang và h́nh thành cho đến khi họ được tái sinh với một con người mới, một con người viên măn yêu thương, một con người có khả năng và tư cách của một “anh hùng tạo thời thế”, v́ t́nh yêu viên măn nơi họ là một quyền lực vô địch mạnh hơn tử thần và là một thứ ánh sáng sự sống xua tan tối tăm tội lỗi.