26.- Công Bằng

 

  

Công Bằng và Sự Thật 

 

N

ếu nói đến tội lỗi cũng phải nói đến nhân đức. Nếu nói đến con người hư hỏng cũng phải nói đến con người đức hạnh.

 

Nh́n vào thực tế, chúng ta thấy cái ǵ mới bao giờ cũng đẹp, cũng dễ thương, kể cả loài vật lẫn loài người (như đứa nhỏ trông xinh xắn, hồn nhiên và trinh trắng như thiên thần v.v.), kể cả đồ vật (như xe mới, nhà mới v.v.) lẫn sự vật (như khi mới yêu nhau, mới lấy nhau, khi c̣n ở vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy v.v.).

 

Đó là lư do ngôn ngữ loài người mới có chữ “nguyên tuyền” hay “tinh nguyên”, một từ ngữ và là một ư niệm nói lên t́nh trạng tinh tuyền của thuở ban đầu.

 

Đó cũng là lư do, sau khi con người lạc xa cái thuở ban đầu tinh nguyên ấy, tức sau khi họ đă bị ô nhiễm bởi những bụi bặm trần gian làm bản thân họ trở thành dơ bẩn và ô uế, làm cuộc sống họ sa đọa, trụy lạc, con người mới cảm thấy nhu cầu “về nguồn”, về với nguồn gốc thực sự của ḿnh, t́nh trạng “nguyên tuyền” hay “tinh tuyền” của ḿnh.

 

Hiện tượng thế giới Tây Phương văn minh đặc biệt từ thập niên cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai có phong trào thực hành những phương pháp tĩnh niệm Đông Phương, như phương pháp tọa thiền Zen của Phật Giáo Nhật Bản hay Zoga của Ấn Giáo, đă đủ chứng minh cho thấy văn minh vật chất chẳng những không làm cho con người hạnh phúc, mà c̣n làm cho họ cảm thấy bị căng thẳng và dồn nén hơn, bị bất an và khủng hoảng hơn, đến nỗi đă đi đến chỗ mất gốc, cần phải làm sao để có thể lấy lại quân b́nh, có thể b́nh an tự tại.

 

Phải, quan niệm đầu tiên và chính yếu nhất của đức công bằng đây có một liên hệ hết sức mật thiết với t́nh trạng quân b́nh nơi con người. Có thể nói, chính v́ con người đă mất thăng bằng, không c̣n giữ được quân b́nh nội tâm nữa, họ mới đi đến chỗ và thực sự đă đi đến chỗ sống bất công, trước hết bất công với chính bản thân họ, từ đó và sau đó họ đă không tránh được có những hành vi cử chỉ bất công cả với Thượng Đế, với tha nhân cũng như với thiên nhiên tạo vật.

 

Trước hết, con người ở trong t́nh trạng mất quân b́nh nội tâm đă sống bất công với bản thân ḿnh ở chỗ họ đă không sống động và tác hành theo đúng với sự thật làm người của họ, hay không sống đúng với ơn gọi làm người của họ, bởi thế, họ đă phạm đến nhân phẩm làm người của họ, nếu chưa muốn nói họ đă làm mất nhân phẩm của họ, làm hại đến nhân phẩm của họ, một thứ nhân phẩm chẳng những làm nên con người họ, làm nên vị thế cao trọng của họ đối với các sinh vật khác nói riêng và tất cả mọi vật hữu h́nh nói chung.

 

Tuy nhiên, v́ nhân phẩm này tự bẩm sinh mà có, tức được thiên phú, được trời ban cho, do đó, một khi phạm đến nhân phẩm của ḿnh, làm hại đến nhân phẩm của ḿnh là con người gián tiếp xúc phạm đến cả Vị Tạo Hóa Tối Cao của họ nữa.

 

Ngoài ra, nhân phẩm của con người có tính cách phổ quát và đại đồng, áp dụng cho mọi cá nhân con người, bởi thế, một khi họ làm mất nhân phẩm của họ, họ đồng thời cũng làm mất nhân phẩm của chung nhân loại nữa.

 

Một con người làm điếm không phải chỉ làm hại đến nhân phẩm của ḿnh, c̣n làm nhục cho giới phụ nữ nói riêng và nhân loại nói chung nữa.

 

Chưa hết, v́ con người là loài nhân linh ư vạn vật, là bộ mặt của tất cả mọi vật hữu h́nh, là thể diện của thiên nhiên vật chất, mà một khi con người làm mất nhân phẩm của ḿnh, họ cũng đă làm mất thể diện của thiên nhiên tạo vật nữa.

 

Đó là lư do một khi con người bất công với bản thân ḿnh họ đồng thời cũng bất công cả với Thượng Đế, với nhân loại và với nhiên loại.

Công Bằng và Trách Nhiệm

 

Một khi con người không sống đúng với sự thật làm người, bằng những việc vượt ra ngoài quyền hạn của ḿnh, là con người sống trong gian ác, sống một cách dối trá, không sống công minh chính trực.

 

Bởi thế, công bằng, về nguyên tắc, chẳng những liên quan đến bất công, về thực hành, c̣n liên quan đến tính cách gian ác dối trá nữa.

 

Bởi thế, bất cứ tội lỗi nặng nhẹ nào của con người, tự bản chất của nó, đều là những việc gian ác và bất công: gian ác ở chỗ, con người tỏ ra những hành động tội lỗi đó đă không sống đúng với sự thật làm người của họ; bất công ở chỗ, con người mù quáng trước sự thật hay bất chấp sự thật làm người này đă lộng hành làm cả những ǵ họ không được làm (về phương diện luân lư) dù họ làm được (về phương diện thể lư).

 

Có những thứ tội về cả bản chất lẫn h́nh thức đều là những hành động gian ác bất công đó là hăm hiếp, trộm cướp, giết người, đàn áp, bóc lột, ăn gian, nói dối v.v.

 

Con người thực hiện những hành động tội lỗi xúc phạm đến nhau này không phải gian ác và bất công ở tác dụng gây ra do việc họ làm, mà c̣n ở chỗ họ phạm đến chính nguyên tắc làm người thiết yếu nữa.

 

Bởi v́, những điều họ không muốn người khác gây ra cho họ, như ăn trộm ăn cướp sản vật của họ, ăn gian nói dối đánh lừa họ, hành hạ sát hại họ, đàn áp bóc lột họ, vu oan cáo vạ cho họ v.v. họ lại gây ra cho người khác.

 

Như thế, con người gian ác bất công, con người không công bằng là con người mâu thuẫn. Hơn thế nữa, những ǵ họ gây ra cho người khác, phạm đến nguyên tắc làm người không phải tự chúng sẽ qua đi, trái lại, chúng sẽ gây ra cho họ ác họa họ không muốn. Đó là ác quả ác báo. Đó là định luật tự nhiên, “gieo gió gặt băo”, phạm tội th́ phải đền tội một cách xứng đáng theo đức công bằng.

 

Thật vậy, tội lỗi có hai khía cạnh, khía cạnh tác hành xấu xa và khía cạnh trách nhiệm gánh chịu. Về tác hành xấu xa, phạm nhân có thể được nạn nhân rộng t́nh thứ tha, nhưng về trách nhiệm gánh chịu hậu quả tai hại gây ra bởi hành động tội lỗi của phạm nhân th́ dù có được thứ tha, chính lương tâm của phạm nhân cũng không tha cho họ cho tới khi họ đền bù một cách tương đối cân xứng.

 

Chẳng hạn, người con gái bị hiếp có thể tha thứ cho kẻ cướp trinh tiết của ḿnh, nhưng phạm nhân chẳng lẽ có thể yên tâm tươi cười khi thấy hành động hăm hiếp của ḿnh gây ra đổ vỡ hôn nhân cho gia đ́nh người con gái ấy, v́ đứa con oan nghiệt của một lúc quá nhục dục của ḿnh hay chăng?

 

Thực tế cho thấy, những hành động bất công thường làm cho nạn nhân uất ức, hận thù và t́m cách đ̣i lại công lư. Chính v́ muốn bảo vệ quyền lợi của con người, cũng là để bảo vệ sự công b́nh trong xă hội, hay để giữ trật tự cho xă hội, xă hội mới cần đến sự hiện hữu của hệ thống luật pháp.

 

Tâm lư b́nh dân đă cho thấy rơ nhu cầu công bằng trong đời sống xă hội nói chung và giữa liên hệ cá nhân nói riêng, một nhu cầu xă hội được tỏ hiện rơ nhất nơi loại phim Tầu, với chủ trương công bằng ở chỗ ân oán phân minh, nhận ơn th́ trả ơn, tác hại th́ phải chuốc khổ, ở hiền gặp lành, ở dữ gặp ác.

 

Bởi thế, chẳng riêng ǵ phim Tầu, hầu như phim nào cũng vậy, truyện nước nào cũng thế, cũng có hai phe lành dữ, sáng tối, kẻ lành chịu khổ nhưng cuối cùng kẻ dữ phải chết, công lư được sáng tỏ.

 

V́ công bằng là căn bản của xă hội và có liên quan mật thiết đến sự thật làm người mà các đạo giáo cũng nhấn mạnh đặc biệt đến vấn đề trả lẽ, vấn đề thưởng phạt, vấn đề đền tội. Do Thái Giáo có luật “mắt đền mắt răng đền răng”, một thứ luật phản ảnh những ǵ Thiên Chúa Giavê vô cùng công minh chính trực của họ luôn trừng phạt tất cả mọi sự dữ do họ gây ra phạm đến thánh luật Ngài ban cho họ qua trung gian Moisen.

 

Phật Giáo chủ trương đầu thai luân hồi, ở chỗ, những ai phạm tội sẽ chuốc lấy cho ḿnh nghiệp báo, một thứ nghiệp báo cần phải đền bù cho cân xứng mới được vào cơi Niết Bàn. Kitô Giáo có tứ chung là sự chết, phán xét, thiên đàng và hỏa ngục.

 

 

Công Bằng và Nghĩa Phận

 

Công bằng, về phương diện tiêu cực, chẳng những liên quan đến việc đền tội v́ những thiệt hại gây ra cho tha nhân bởi lỗi lầm của ḿnh, về phương diện tích cực, c̣n liên quan đến ḷng biết ơn nữa.

 

Bởi thế, không phải chỉ có những ai hăm hiếp, đàn áp và bóc lột đồng loại của ḿnh mới là thành phần bất công, thậm chí cả những kẻ vong ân bội nghĩa, những kẻ thất tín phản thề cũng là thành phần bất công nữa.

 

Đó là thành phần muốn kẻ khác làm cho ḿnh những ǵ có lợi cho ḿnh, nhất là những ǵ họ xin làm cho họ trong cơn khốn khó, nhưng họ lại không nhớ ơn, không trả ơn, ít là bằng một tặng vật bề ngoài nào đó, hay bằng những việc làm đáp ứng nhu cầu của vị ân nhân khi họ cần.

 

Thậm chí con người gian ác bất công đến nỗi c̣n có thể đi tới chỗ lấy oán trả ơn. Như những trường hợp tṛ phản thày, con cái hỗn láo với cha mẹ, oán trách cha mẹ đủ thứ v́ những thất bại của ḿnh trên đường đời.

 

Những con người thuộc loại vong ân bội nghĩa này nói riêng và tâm lư con người nói chung thường có khuynh hướng làm toán trừ nhanh hơn làm toán cộng. Chỉ cần một điều ǵ đó làm phật ḷng ḿnh, làm trái ư ḿnh thôi, vào một lúc nào đó, là tất cả mọi sự tốt lành của vị ân nhân đều tan biến ngay lập tức, đều trở thành số không khổng lồ, đều gây ra bất măn và hận tức trong ḷng thành phần thụ ân.

Cả những trường hợp lạm dụng ḷng tốt của nhau cũng phải được kể là những hành vi cử chỉ lỗi đức công bằng, v́ con người lạm dụng chỉ muốn hưởng thụ hơn là phục vụ, chỉ muốn chiếm đoạt hơn cho đi. Như thế, con người ích kỷ, con người vị kỷ là một con người bất công.

 

Chưa hết, bất công không phải chỉ được tỏ hiện qua những hành động hăm hiếp, đàn áp, bóc lột, hay những hành động vong ân bội nghĩa, hành động lấy oán báo ân, hành động vị kỷ hưởng thụ, mà c̣n qua cả thái độ tự phụ khinh người nữa.

 

Chẳng hạn những khoa học gia khám phá ra được điều ǵ liền phủ nhận công trạng của các khoa học gia trước họ, cho rằng những khoa học gia đó không giỏi bằng ḿnh nên không t́m ra những ǵ họ vừa mới t́m thấy, trong khi đó, nếu không có gia sản khoa học từ trước đến khi có khám phá mới của họ, liệu họ có thể hội đủ kiến thức để khám phá ra cái tân kỳ đó hay chăng?

 

Như thế không phải thái độ tự phụ nói chung tự bản chất là thái độ bất công hay sao? Có thể nói, tự phụ cũng là một h́nh thức vong ân bội nghĩa trắng trợn vậy! Trường hợp của các kỹ thuật gia cũng thế, phát minh ra được một điều ǵ đó liền tự phụ cho rằng nhờ óc sáng tạo của ḿnh loài người mới tiến đến chỗ văn minh tiện nghi như ngày nay.

 

Nếu tận thâm tâm của chuyên viên sáng chế về kỹ thuật này không hề nghĩ ǵ đến kiến thức ḿnh có được để nhờ đó chế tạo ra những phát minh tân kỳ, đều là do các vị tiền bối, do những phát minh hiện đại có vẻ lỗi thời góp phần và gợi ư, th́ thái độ của họ thực sự là một thái độ quá tự phụ và bất công. Họ cho ḿnh là người bố thí cho nhân loại, bởi thế nhân loại nợ nần họ, chứ họ không nợ nần ai.

 

Cử chỉ và hành động bất công c̣n được thể hiện qua cả thái độ khinh người nữa. Ở chỗ, con người bất công không đối xử xứng hợp với vai tṛ, thân thế, chức phận, phẩm vị, thẩm quyền của những ai có liên hệ với họ.

 

Chẳng hạn, họ thích quen thân với thành phần tai to mặt lớn, thành phần giầu sang phú quí, nhưng tỏ ra coi thường, thậm chí khinh bỉ ra mặt những người quê mùa, nghèo hèn, dốt nát trong xă hội, không phải là họ có những hành vi cử chỉ và thái độ bất công hay sao?

 

Trường hợp phê b́nh chỉ trích một cách chủ quan và hạ cấp, dù vô t́nh hay hữu ư, làm mất uy tín của những vị có thẩm quyền trong đạo ngoài đời, cũng là những hành vi cử chỉ bất công, thậm chí có thể liệt vào những hành động gây chia rẽ và phá hoại, những tai hại cộng đồng phạm nhân khó ḷng đền bù cho cân xứng.

 

Cả những trường hợp tiêu xài hoang phí tiền bạc, sử dụng bừa băi đồ dùng, ăn không hết đổ đi v.v., không hề nghĩ đến tha nhân, những người đang cần đến những cái thừa thăi và bừa băi của thành phần anh chị em may mắn của ḿnh đó để có thể sống c̣n, để có thể sống thoải mái hơn một chút, để có cơ hội vươn lên như ai, cũng là những thái độ và hành động bất công! Sau hết, nếu con người không biết tự trọng đối với những ǵ được ban cho ḿnh, những ǵ ḿnh chỉ là quản lư sử dụng theo ư chủ nhân ông Tạo Hóa của ḿnh, đem phung phá chúng, như không biết giữ ǵn sức khỏe, cũng phạm đến đức công b́nh, đến công ích xă hội.

 

Cũng thế, thậm chí cả những ǵ không trực thuộc bản thân mỗi người, nhưng được giành cho nhân loại sử dụng chung, như nguồn tài nguyên thiên nhiên, nếu cá nhân hay đoàn thể nào không sử dụng cho nên, trái lại, phí phạm hay tàn phá những tài nguyên chung này, cũng phạm đến đức công bằng xă hội.

 

C̣n nữa, về nguồn nhân lực, nếu thấy ai làm được việc hơn ḿnh, đâm ghen tương và chọc phá cho đến độ thiệt hại đến công ích, những thái độ và hành động chia rẽ này cũng là những ǵ phạm đến đức công bằng. Thậm chí kỳ thị không cho nhau sống văn hóa và niềm tin chân chính của họ cũng là những hành vi cử chỉ bất công.

 

 

Công Lư và Ḥa B́nh

 

Lịch sử thế giới đă và đang hiển nhiên cho thấy hai sự kiện hết sức thực tế sau đây liên quan đến nền tảng của xă hội là vấn đề công bằng.

 

Thứ nhất, nhân loại sẽ không thể nào có ḥa b́nh chân thực nếu xă hội không có công bằng, một thứ công bằng phát xuất từ một sự thật làm người chung được gọi là công lư, đó là mọi người b́nh đẳng về phẩm giá bẩm sinh làm người bất khả xúc phạm của ḿnh, như được bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc khẳng định và công bố ngày 10/12/1948.

 

Thứ hai, tất cả những lộn xộn, xung khắc, bạo loạn và chiến tranh, trước hết và trên hết, đều phát xuất từ t́nh trạng bất công trong xă hội, thường xẩy ra ở chỗ thành phần tư bản tài phiệt bóc lột thành phần lao nhân bần cùng, thành phần tai to mặt lớn đán áp thành phần thấp cổ bé miệng.

 

Những hiện tượng Cộng Sản xuất hiện từ hậu bán thế kỷ 19 và suốt thế kỷ 20 kéo dài cho tới nay không phải là phản ứng của một xă hội bất công gây ra bởi cuộc cách mạng kỹ nghệ từ đầu thế kỷ 18 hay sao?

 

Hiện tượng khủng bố tấn công bùng lên từ sau biến cố ngày 11/9/2001 ở Hoa Kỳ đến nay không phải là một việc làm điên khùng của những người cuồng tín, cho bằng đó là lư lẽ sống c̣n của những kẻ bị đẩy đến chân tường, bị áp bức quá cỡ, bị lạm dụng quá nhiều.

 

Nếu không có lửa làm sao có khói th́ quả thực khói khủng bố sẽ không thể nào ngùn ngụt bốc lên như bây giờ, nếu không có ngọn lửa tham vọng của những thế lực chính trị và kinh tế đang làm chủ thị trường thế giới hiện nay.

 

Bởi vậy, cho dù sau hai trận Thế Chiến I và II trong thế kỷ 20, xă hội loài người đă tiến đến chỗ thành lập một quyền lực toàn cầu để có thể giải quyết những vấn đề xung khắc và xung đột quốc tế, nhưng thực tế cho thấy dường như thứ quyền lực toàn cầu này cũng phải bất lực đầu hàng trước những cuộc khủng hoảng trầm trọng, như giữa Do Thái và Lực Lượng Palestine ở Thánh Địa.

 

Đó là lư do, trong Sứ Điệp Ḥa B́nh cho Ngày Ḥa B́nh Thế Giới 1/1/2003, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vị Lănh Đạo thế giới Công Giáo, đă thẳng thắn nhận định và thiết tha lên tiếng kêu gọi thành phần thiện tâm nói chung và thành phần lănh đạo chính trị nói riêng như sau:

 

“Cần phải nêu lên một nhận định nữa là cộng đồng quốc tế, một cộng đồng mà từ năm 1948 đă có được một bản hiến chương về những quyền lợi bất khả vi phạm của con người, đă thất bại một cách chung chung trong việc nỗ lực một cách đầy đủ những phận vụ tương xứng của ḿnh…

 

“Có lẽ ngày nay không đâu có một nhu cầu hiển nhiên về việc sử dụng xác đáng thẩm quyền chính trị cho bằng ở t́nh h́nh thê thảm của Trung Đông và Thánh Địa. Từ ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác, hậu quả chồng chất của việc loại trừ nhau một cách gay cấn, cùng với một chuỗi không ngừng t́nh trạng bạo loạn và trả đũa đă làm tiêu tán hết mọi nỗ lực cho đến nay trong việc dấn thân đối thoại nghiêm cẩn về những vấn đề thực sự xẩy ra. Tính cách mỏng manh của t́nh h́nh này c̣n được lồng vào một cuộc đụng độ về lợi lộc giữa những phần tử của cộng đồng quốc tế…

 

“Giữa hoạt động ḥa b́nh và việc tôn trọng sự thật có một mối liên kết bất khả tách biệt… Những cuộc họp thượng đỉnh về chính trị ở cấp vùng và quốc tế sẽ góp phần xây dựng ḥa b́nh chỉ khi nào những quyết tâm chung được mỗi phần tử tham dự bấy giờ tôn trọng mà thôi. Bằng không, những cuộc họp này có thể không thích hợp và hóa ra vô dụng, ở chỗ làm cho dân chúng càng ít tin tưởng hơn vào việc trao đổi và tin tưởng hơn vào việc sử dụng vơ lực như đường lối giải quyết các thứ vấn đề. Những âm vang tiêu cực này về việc xây dựng ḥa b́nh phát xuất từ những quyết tâm được dốc ḷng sau đó không được tuân giữ cần phải được các vị lănh đạo Quốc Gia và chính quyền cẩn thận thẩm xét.

 

“Ḥa b́nh thực ra không phải là những ǵ liên quan đến cấu trúc mà là đến con người. Những thứ cấu trúc và guồng máy ḥa b́nh, như về pháp lư, chính trị, kinh tế, dĩ nhiên là cần thiết và phải có, nhưng chúng đă không được phát xuất từ ǵ khác ngoài sự khôn ngoan và cảm nghiệm chồng chất của vô vàn những cử chỉ ḥa b́nh được những con người nam nữ thực hiện suốt gịng lịch sử của ḿnh, thành phần giữ niềm hy vọng chứ không chịu hàng đầu thất vọng. Những cử chỉ ḥa b́nh ấy bắt nguồn từ đời sống của con người ôm ấp ḥa b́nh trước hết trong ḷng họ. Chúng là công cuộc của con tim cũng như của lư trí nơi những ai đi xây dựng ḥa b́nh. Có thể thực hiện những cử chỉ ḥa b́nh này nếu con người thực sự biết cảm nhận chiều kích cộng đồng nơi cuộc sống của ḿnh, nhờ đó, họ nắm được ư nghĩa và thành quả của những biến cố trong cộng đồng riêng của họ cũng như trên khắp thế giới. Những cử chỉ ḥa b́nh kiến tạo nên một thứ truyền thống và một thứ văn hóa ḥa b́nh vậy”.