SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

Chúa Nhật
Năm C
LỄ ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ
(Lễ trọng)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sm 5, 1-3
"Họ xức dầu phong Ðavít làm vua Israel".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, toàn thể chi tộc Israel đến cùng Ðavít tại Hebron mà nói rằng: "Ðây chúng tôi là cốt nhục của ngài. Nhưng từ trước đến giờ, khi Saolê đang làm vua chúng tôi, thì chính ngài đã dẫn dắt Israel. Và Chúa đã nói với ngài rằng: 'Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, và sẽ trở nên thủ lãnh Israel'".
Vậy tất cả các vị kỳ lão Israel đều đến tìm nhà vua tại Hebron, và tại đó, vua Ðavít ký kết với họ một giao ước trước mặt Chúa. Họ liền xức dầu phong Ðavít làm vua Israel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa" (c. 1).
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Cl 1, 12-20
"Người đã đem chúng ta về Nước Con yêu dấu của Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ Chúa Cha, Ðấng đã làm cho anh em xứng đáng lãnh phần gia nghiệp các thánh trong ánh sáng. Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tôi.
Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Người.
Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 11, 10
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavid tổ phụ chúng ta đã đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 23, 35-43
"Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Ðấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người Này Là Vua Dân Do Thái".
Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm Lời Chúa
sự sống vương giả
Chủ đề sự sống của Mùa Phục Sinh đã đạt tới tột đỉnh ở Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật Trọng Kính Chúa Giêsu Kitô Vua, thời điểm kết thúc cho bất cứ phụng niên nào, dù là chu kỳ A, B hay C.
Thật vậy, nếu Chúa Kitô "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), (lưu ý Chúa Kitô xưng Người là "sự sống lại" trước và là "sự sống" sau) thì quả thực Người "là sự sống lại" khi Người phục sinh vào ngày thứ ba từ trong kẻ chết. Bởi vì Người chính "là sự sống" bất tử không thể nào bị sự chết làm chủ và tiêu diệt.
Thế nhưng, cho dù Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô 2 ngàn năm trước đã hoàn toàn thắng được sự dữ nơi thân xác bị giết chết nhưng sống lại của Người, trong một thế giới càng ngày càng văn minh về khoa học và càng văn hóa về nhân bản nhân quyền chưa từng thấy, như giai đoạn lịch sử từ giữa thế kỷ 20 sang đầu hơn một thập kỷ của thiên kỷ thứ 3 hiện nay cho thấy, sự dữ lại càng gia tăng hơn bao giờ hết, như thể con rồng sau một ngàn năm bị xiềng lại, bởi sợi giây xích khổng lồ là quyền lực cứu độ của Thánh Giá Chúa Kitô tử nạn, đã được thả ra trong một thời gian ngắn, như Sách Khải Huyền đã tiết lộ (20:1-3).
Trong thời gian ngắn vớt vát còn lại này của mình, con rồng đã vận dụng tất cả quyền lực chết chóc độc hại nhất và dữ dội nhất của hắn và từ hắn, để tàn phá cho bằng được công ơn cứu chuộc vô giá của Chúa Giêsu Kitô nơi từng Kitô hữu cũng như nơi chung Giáo Hội, những đối thủ chính yếu của nó và là mục tiêu tấn công quyết liệt của nó, qua hai đạo quân hùng hậu gog và magog, (như ám chỉ trào lưu ồ ạt chủ nghĩa duy nhân bản và tương đối vô cùng lợi hại đang chi phối tâm thức và đời sống của loài người hiện nay), đông như cát biển "đã xâm chiếm toàn cõi xứ sở (ám chỉ thế giới) và công hãm thành đô yêu dấu là nơi dân Chúa cắm trại (ám chỉ Giáo Hội)", như Sách Khải Huyền ghi lại (20:8-9).
Phải chăng chiến dịch toàn cầu hóa về kinh tế theo chiều hướng chính trị để làm sao có thể dần dần đế quốc hóa tất cả mọi nền văn hóa của các dân nước, cũng như biến đổi hoàn toàn nền luân lý chân chính của lề luật Thiên Chúa, thành những gì là tự nhiên lăng loàn của bản tính nhiễm lây nguyên tội trên thế giới hiện nay, hình như đang hiện thực hóa mưu đồ lịch sử (conspiracy of history) của hội kín thợ xây trật tự thế giới mới tam điểm, cho vương quốc của Satan trị đến trong lòng người và lịch sử?!
Phải, cho tới khi con rồng đã tung ra tất cả quyền lực độc dữ nhất của nó thì cũng chính là lúc sự dữ hết thời, và hoàn toàn bị tận diệt bởi chính Đấng "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18), khi Người "là sự sống" vĩnh hằng bất tận tái xuất hiện trong vinh quang với tư cách là Thẩm Phán Chí Tôn "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", Đấng được Tiên Tri Đaniên trong Bài Đọc 1 Năm B báo trước vương quyền thống trị bất diệt của Người:
"Trong một thị kiến ban đêm (theo người viết thời điểm "ban đêm" ở đây ám chỉ tình hình nhân gian và Giáo Hội trước khi Chúa Kitô tái giáng), tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão ("Vị Bô Lão" ở đây theo người viết có thể ám chỉ Chúa Cha), và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị nầy ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài; quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá hủy".
Thị kiến của Tiên Tri Đaniên về Con Người lãnh nhận vương quyền thống trị đến muôn đời tất cả loài người là loài tạo vật được Người cứu chuộc, đã được phụ họa và âm vang trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai; Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt
long đai.
2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa.
3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở.
Đúng thế, sự kiện Chúa Kitô "là sự sống" bất diệt và bất tận xuất hiện lần thứ hai không phải chỉ để tận diệt sự dữ, mà trước hết và trên hết là để tỏ hết mình ra trên thế gian này, như thể tạo vật được Thiên Chúa dựng nên đã đến thời viên mãn của mình nơi Người, nhờ Người và với Người. Bấy giờ, khi Người tái xuất hiện, Người tỏ mình ra với tư cách là một Vị Con Thiên Chúa hằng sống bất diệt, qua nhân tính hiển linh cùng với thân xác phục sinh của Người, và như thế, Người như ánh sáng sự sống cuối cùng xua tan bóng tối sự dữ cho đến muôn đời, hoàn toàn không bao giờ còn sự dữ nữa, như Sách Khải Huyền tiên báo về một Tân Thành Thánh Giêrusalem "không còn đêm" (22:5), vì "trời trước và đất trước đã qua đi" (21:1).
Chiều hướng trên đây về lần đến cuối cùng đầy vinh quang rạng ngời vinh thắng của Chúa Kitô "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16; Gioan 11:27), Đấng cuối cùng đã tỏ mình ra hoàn toàn đúng với phẩm chức thần linh và quyền năng tối cao của Người, được Sách Khải Huyền tiên báo nơi Bài Đọc 2 Năm B như thế này:
"Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Ðấng đã yêu thương chúng ta, Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người. Nguyện chúc Người được vinh quang và quyền lực muôn đời. Amen. Kìa, Người đến trong đám mây, mọi con mắt đã nhìn thấy Người, và cả những kẻ đã đâm Người cũng nhìn thấy Người, các chủng tộc trên địa cầu sẽ than khóc Người. Thật như vậy. Amen. Chúa là Thiên Chúa, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, là Ðấng Toàn Năng phán: 'Ta là Alpha và Ômêga, là nguyên thuỷ và là cứu cánh'".
Trong cuộc khổ nạn của mình Người mới chỉ tỏ mình ra như là một con người bị lép vế trước quyền bính thế gian, bị quyền lực thế gian bắt giữ và bị hành hạ cùng sát hại như một tên đại tử tội hoàn toàn bất lực và vô cùng nhục nhã.
Thế nhưng, sự dữ và quyền lực sự dữ vẫn không làm gì được Người, Đấng "là sự sống", Đấng "tự ý bỏ mạng sống mình đi rồi có quyền lấy lại mạng sống của mình" (Gioan 10:18). Trái lại, Người đã thắng được sự dữ nơi sự chết bị Người tiêu diệt bởi "sự sống lại" của Người hay bởi Người "là sự sống lại". Thậm chí nhờ sự dữ Người phải chịu cả trong tâm hồn lẫn thể xác mà Người đã cứu được con người, trước hết và trên hết, khỏi sự dữ về luân lý là tội lỗi của họ, nhờ đó họ khỏi bị chết đời đời là sự dữ trên hết mọi sự dữ.
Người quả thực là vua cai trị mọi sự, dù trải qua cuộc khổ nạn và tử giá. Do đó, không phải tự nhiên mà viên tổng trấn dân ngoại có linh cảm Người là một nhân vật đặc biệt, mang phong cách oai nghi vương giả, chứ không phải là một nhân vật tầm thường mà ông đã từng gặp, qua câu hỏi "ngài từ đâu tới" (Gioan 19:9), dù theo nhân vật cầm quyền sinh tử của Người bấy giờ thì Người chỉ là "Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38) chư hầu của đế quốc Rôma.
Tuy nhiên, theo Phúc Âm của Thánh ký Gioan được Giáo Hội chọn đọc thay cho Phúc Âm Thánh ký Marco Chu Kỳ Năm B, Chúa Kitô đã tự đính chính bằng câu trả lời rất chính xác cho vấn đề được Viên Tổng Trấn Philato ấy đặt ra hỏi Người "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" rằng: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng mà nước tôi không thuộc chốn này". Nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô là vương quốc của Thiên Chúa, vương quốc tối cao của lòng người, và bất diệt vượt trên mọi vương quốc hữu hạn trên trần gian này.
Thật ra, tự mình là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô đã là vua, nhưng nơi nhân tính của mình, Người cần phải chứng thực hay tỏ mình ra Người thực sự bẩm sinh là vua, (như khi mới sinh ra Người đã được 3 vương chiêm tinh gia đến bái thờ - Mathêu 2:1-12), một đức vua trên hết mọi vua chúa trên trần gian này, một đức vua muôn đời, đúng như Người đã trả lời cho câu chất vấn của Tổng Trấn Philatô: "Vậy ông là Vua ư?": "Chính quan là người đã nói tôi là vua - It is you who say I am a king. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi".
Trong câu khẳng định có tính cách gián tiếp này của Chúa Kitô Vua, Người không tự mình xưng là vua, và không bao giờ Người tự xưng mình như thế, vì đụng đến chính trị, tức đụng đến chính quyền đế quốc Rôma cũng như đến quận vương Hêrôđê ở Galilêa, cũng như Người đã không bao giờ tự xưng Người là Đấng Thiên Sai - Messiah, vì Người tránh đụng đến giáo quyền Do Thái, mà chỉ công nhận qua việc đáp ứng của Người mà thôi, như Người đã công nhận lời của phụ nữ Samaritanô ở Giếng Giacóp về tư cách của Người (xem Gioan 4:25-26), hay như Người đã công nhận lời truyền lệnh của giáo quyền Do Thái giáo hỏi Người xem Người có phải là Đấng Thiên Sai hay chăng (xem Mathêu 26:63-64): "Chính ngài là người nói thế... It is you who say it".
Cũng trong câu khẳng định gián tiếp với viên quan tổng trấn Philatô ấy, Chúa Kitô còn liên kết vai trò làm vua của Người với chân lý nữa: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi". Nếu Chúa Kitô chính "là chân lý" (Gioan 14:6) thì Người "sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về" chính bản thân Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), ai tin Người hay "chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12). Đó là lý do "Nước tôi không thuộc về thế gian này" mà một vương quốc của "sự sống", sự sống đời đời, sẽ vĩnh viễn tồn tại như chính "Chân Lý" bất biến.
Người quả thực là "một người quí tộc kia đi phương xa để được phong vương" như Người đã tiên báo cho các môn đệ và đám đông đi theo Người trong cuộc hành trình Giêrusalem của Người, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca Thứ Tư Tuần XXXIII Thường Niên tuần trước (19:12). Theo bài Phúc Âm này, cho dù dân Do Thái của Người không chấp nhận Người là vua của họ (xem Luca 19:14, Gioan 19:15,20-22), nhưng họ chẳng những vẫn không làm gì được Người mà còn bất ngờ làm cho Người trở thành vua của toàn thể nhân loại nữa: "Người đã được phong vương trở về" (Luca 19:15), theo chiều hướng của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật cuối cùng của Phụng Niên trọng kính Chúa Kitô Vua.
Tóm lại, ý nghĩa của Lễ Chúa Vua được Giáo Hội cố ý đặt vào Chúa Nhật cuối cùng của mỗi phụng niên là ở chỗ: Người là Đấng chẳng những có toàn quyền năng (all powerful) có thể giải thoát con người (kể cả các vua chúa và đế vương trong lịch sử loài người, bao gồm cả đại đế Roma Cesar) khỏi tội lỗi và sự chết, như bài Phúc Âm của Thánh ký Luca năm C cho thấy, liên quan đến phần rỗi của người trộm lành, mà còn có cả tối thẩm quyền (supreme/ultimate authority) để phán xét và thưởng phạt nhân loại (kể cả các vua chúa như vua Hêrôđê đã từng nhạo báng Chúa Giêsu và đế vương trong lịch sử loài người), như bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Năm A cho thấy, liên quan đến biến cố chung thẩm.
Quyền năng cứu độ và thẩm quyền phán xét này nơi Chúa Kitô là ở chỗ Người chính "là chân lý" (Gioan 16:4), Đấng "được sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho chân lý", như bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan Năm B cho thấy, một Chân Lý như "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) "chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5) và xua tan bóng tối tội lỗi và sự chết nơi loài người, một ánh sáng sự sống hoàn toàn được sáng tỏ khi Người tái giáng trong vinh quang như một thẩm quyền tối thượng "để phán xét kẻ sống và kẻ chết".
Và quyền năng cứu độ này được tỏ ra hơn bao giờ hết ở ngay trên thập tự giá, điển hình nhất đối với người trộm lành, một tên trộm sau cả một cuộc đời sống gian dối trộm cướp đã may mắn gặp được chính Đấng "là Vua Dân Do Thái" (như hàng chữ tuyên bố được tổng trấn Philato ra lệnh gắn trên thập giá của Chúa Giêsu), đã nhận biết Ngài và ngỏ lời cùng Ngài rằng: "Lạy Ngài, khi nào Ngài về nước của Ngài thì xin Ngài hãy nhớ đến tôi", và anh ta đã quả thật cướp được cả Nước Trời một cách tài tình đầy ngoạn mục: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta"..
Là Kitô hữu, chúng ta, qua Phép Rửa, đã được thông phần vào thiên chức vương đế, ngôn sứ và tư tế của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta đã sống thế nào với thiên chức vương đế bởi chúng là con Thiên Chúa này của mình: chúng ta có làm chủ mọi sự hay chăng với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa, hay vẫn sống đời nô lệ cho tội lỗi, cho thần dữ, cho thế gian, xác thịt... để Satan vẫn là vua của chúng ta?
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 1, 1-6. 8-20
"Không ai bằng Ðaniel, Anania, Misael và Azaria".
Khởi đầu sách Tiên tri Ðaniel.
Năm thứ ba triều đại vua Gioakim nước Giuđa, Nabukô-đônôsor, vua Babylon, tiến đến vây hãm Giêrusalem. Chúa trao vua Gioakim nước Giuđa và một phần đồ vật dùng trong đền thờ Chúa vào tay ông: Ông mang các đồ vật ấy về chùa thần minh của ông trong đất Sennaar và trong kho báu thần minh của ông.
Vua truyền cho quan thái giám Asphênez dẫn về hoàng cung các con cái Israel, các người thuộc hoàng tộc và gia đình quyền quý, các thiếu niên không tàn tật, tuấn tú, đầy khôn ngoan, thông minh, sáng trí, xứng đáng sống trong hoàng cung, để dạy văn chương và ngôn ngữ người Calđêa cho các cậu. Vua quy định mỗi ngày cho các cậu ăn đồ của vua ăn, và uống rượu vua uống, để sau ba năm nuôi dưỡng như vậy, các cậu có thể hầu cận trước mặt vua. Trong số các cậu thuộc dòng dõi Giuđa, có Ðaniel, Anania, Misael, và Azaria.
Ðaniel dốc lòng không để cho đồ vua ăn và rượu vua uống làm cậu ra ô uế, và xin quan thái giám đừng làm cho cậu ra ô uế. Thiên Chúa đã ban cho Ðaniel được ân huệ và lòng thương trước mặt vị tổng thái giám. Vị này bảo Ðaniel rằng: "Tôi sợ đức vua, Người đã quy định thức ăn và của uống cho các cậu rồi. Nếu Người xem thấy nét mặt các cậu xanh xao hơn đồng bạn, thế là các cậu nạp đầu tôi cho đức vua rồi". Ðaniel nói với Malasar, kẻ được vị tổng thái giám chỉ định coi sóc Ðaniel, Anania, Misael và Azaria: "Tôi xin ông thử cho chúng tôi, là các tôi tớ ông, ăn rau và uống nước lã, rồi ông ngắm xem nét mặt chúng tôi và nét mặt những đứa dùng lương thực của đức vua; ông thấy sao, thì hãy đối xử với các tôi tớ ông như vậy". Nghe nói thế, ông để thử chúng trong mười ngày. Sau mười ngày, nét mặt bốn cậu trở nên xinh tươi béo tốt hơn mọi thiếu niên dùng lương thực của nhà vua. Malasar cất đồ ăn và rượu uống của các cậu, rồi cho các cậu ăn rau.
Thiên Chúa ban cho các cậu này được thông minh, hiểu biết mọi sách vở và khôn ngoan; phần Ðaniel lại thông hiểu các thị kiến và chiêm bao. Ðến hết thời gian vua chỉ định, vị tổng thái giám dẫn các cậu đến trước mặt vua Nabukôđônôsor. Khi nói chuyện với các cậu, vua thấy mọi người không ai bằng Ðaniel, Anania, Misael và Azaria. Các cậu đứng trước mặt vua. Vua hỏi các cậu về sự khôn ngoan và thông minh, thì thấy các cậu giỏi hơn gấp mười lần các thuật sĩ, đồng bóng trong cả nước của vua.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 1-4
"Người thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền. Người cũng thấy một bà goá nghèo khó bỏ vào đó hai đồng tiền nhỏ, nên bảo rằng: "Thầy bảo thật các con, bà goá nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người. Vì mọi người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu, bà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình".
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm Lời Chúa
Nhỏ Bé Vĩ Đại
Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXIV Thường Niên, Thánh ký Luca, qua các bài Phúc Âm trong tuần cuối cùng của phụng niên này, tiếp tục thuật lại cho chúng ta biết những giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem sau khi trình thuật, qua các bài Phúc Âm tuần trước, về hành trình Giêrusalem của Chúa Giêsu đã đạt đến đích điểm của nó là chính Thành Thánh và Đền Thánh Giêrusalem.
Giáo huấn cuối cùng ở Giêrusalem tiếp tục bài giáo huấn đầu tiên trong Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước về sự sống lại, được Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay muốn dạy các môn đệ của Người liên quan đến gương sống đức tin của một bà góa, một sự kiện cũng đã được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXXII Thường Niên. Hai bài Phúc Âm về bà góa được đọc trong phụng vụ Lời Chúa này có nội dung giống nhau, tuy Phúc Âm Thánh Marco có vẻ chi tiết hơn và dài hơn.
Chẳng hạn Thánh ký Marco còn thêm những chi tiết sau đây: 1- "Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm", chứ không phải chỉ "nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền" như Thánh ký Luca thuật lại; 2- "hai đồng tiền là một phần tư xu", chứ không chỉ như Thánh ký Luca vắn tắt "hai đồng tiền nhỏ"; 3- "Người liền gọi các môn đệ và bảo", chứ không nói trống trống "nên bảo rằng" như Thánh Luca.
Ngoài ra, hai Thánh ký đều ghi lại nội dung giống nhau nơi lời nhận định và huấn dụ của Chúa Kitô về sự kiện bà góa bỏ tiền này: 1- bà góa này bỏ nhiều hơn hết trong những người bỏ tiền; 2- vì bà bỏ tất cả những gì bà có cho dù đang túng thiếu, trong khi các người khác chỉ bỏ những của dư thừa của họ.
Tuy nhiên, trong khi Phúc Âm theo Thánh ký Marco cho Chúa Nhật XXXII hình như nhấn mạnh đến bà góa nghèo, thì Phúc Âm theo Thánh ký Luca hôm nay lại liên quan đến người giầu hơn, căn cứ vào 2 chi tiết sau đây: 1- "Chúa Giêsu nhìn lên, thấy những người giàu có bỏ tiền dâng cúng vào hòm tiền"; 2- "lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa". Ở Phúc Âm Thánh Marco không có chi tiết "dâng cho Thiên Chúa" này.
Để tiếp tục chia sẻ bài Phúc Âm về bà góa ấy, bài đã được chia sẻ cho Chúa Nhật XXXII: Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXII Thường Niên Chu Kỳ B, hôm nay, chúng ta cần giải quyết vấn đề là tại sao bà góa nghèo này đã trở thành bài giáo huấn Giêrusalem thứ hai (sau bài đầu ở Phúc Âm Thứ 7 tuần trước) trong các bài giáo huấn cuối cùng công khai của Chúa Kitô? Xin thưa, có thể tại vì sự kiện này có liên hệ đến hai sự kiện khác sau đây:
Thứ nhất là vì, theo bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô cho Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm B, việc buôn bán lợi lộc trần gian của dân Chúa đã tục hóa Đền Thánh Giêrusalem vốn là nơi linh thiêng, là nhà cầu nguyện, và đã biến Đền Thánh này thành hang trộm cướp, và việc Chúa Giêsu thẳng tay thanh tẩy đền thờ trong trường hợp này nhắm đến mục đích dạy cho cộng đồng dân Chúa bấy giờ, bao gồm cả thành phần lãnh đạo, là phải kính mến Chúa là Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ hết mình và trên hết mọi sự. Cử chỉ và hành động bà góa tỏ ra tin tưởng tôn kính Thiên Chúa hết mình và trên hết mọi sự, bằng cách đã bỏ tất cả những gì mình có chính là tấm gương Chúa Kitô muốn nêu lên và nhấn mạnh để chung mọi người và riêng môn đệ của Người noi theo bắt chước.
Thứ hai là vì, cuộc hành trình Giêurusalem của Chúa Kitô liên quan đến biến cố Người đến lần thứ hai, với các dấu báo cùng biến động kinh hoàng khủng khiếp mà Người khuyên các môn đệ của Người hãy tỉnh thức, nhất là đừng quyến luyến một sự gì, như Người đã cảnh báo trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXII: "Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó". Gương bà góa bỏ tiền vào hòm tiền trong Đền Thờ mà chẳng hề lo đến việc bảo toàn mạng sống của bà không đáng là bài học Chúa muốn nhấn mạnh trong loạt bài giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem hay sao?
Nếu bà góa được Chúa Kitô khen tặng vì đã dâng cúng tất cả những gì mình có, dù chẳng bao nhiêu so với những người dâng cúng đồ dư thừa của họ, thì Chúa Kitô lại sử dụng chính việc bà thực hiện với tất cả lòng tin tưởng phi thường của bà để làm gương cho thành phần chứng nhân tiên khởi của Người là các vị tông đồ. Sách Tiên Tri Daniên ở Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy các cậu con trai Do Thái là "Ðaniel, Anania, Misael và Azaria", nhờ ăn uống kham khổ, chứ không dùng những thực phẩm sang trọng do nhà vua truyền dọn ra cho họ ăn, mà họ đã "được thông minh, hiểu biết mọi sách vở và khôn ngoan; phần Ðaniel lại thông hiểu các thị kiến và chiêm bao", đến độ "Các cậu đứng trước mặt vua. Vua hỏi các cậu về sự khôn ngoan và thông minh, thì thấy các cậu giỏi hơn gấp mười lần các thuật sĩ, đồng bóng trong cả nước của vua".
Bởi thế, nhóm thiếu niên Do Thái này, thành phần tiêu biểu cho những ai chỉ biết tin cậy vào một mình Thiên Chúa, như bà góa dâng cúng trong bài Phúc Âm hôm nay, mới có lý do chính đáng để tuyên tụng "Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời", như câu họa cùng với các câu xướng của bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
3) Chúc tụng Chúa ngự trên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 2, 31-45
"Thiên Chúa khiến một vương quốc dấy lên và tàn phá hết các vương quốc".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, Ðaniel tâu vua Nabukôđônôsor rằng: "Tâu đức vua, đức vua chiêm bao thấy một tượng to lớn; tượng ấy rất cao sang rực rỡ, đứng trước mặt vua, hình dung thật đáng sợ hãi. Ðầu tượng ấy bằng vàng ròng, ngực và cánh tay bằng bạc, bụng và đùi bằng đồng, ống chân bằng sắt, bàn chân nửa sắt nửa sành. Ðang lúc vua trông thấy thế, thì có tảng đá từ ngọn núi tách ra, không phải do tay người ta làm, tảng đá ấy rớt trúng chân tượng nửa sắt nửa sành, làm nó đổ nát tan tành: Bấy giờ sắt, sành, đồng, bạc, vàng, đều tan nát một trật, bị gió cuốn đi mất, không còn tìm thấy đâu nữa: như bụi mùa hè trên sân lúa; còn tảng đá làm vỡ bức tượng, đã trở thành núi lớn choán khắp địa cầu.
Chiêm bao là như thế: tâu đức vua, thần xin giải thích chiêm bao trước mặt đức vua. Hoàng thượng là vua các vua. Thiên Chúa trên trời đã ban cho hoàng thượng vương quốc, sức mạnh, quyền thế, và vinh quang. Người còn trao vào tay hoàng thượng nhân dân các nước, thú đồng và chim trời, để hoàng thượng cai quản mọi sự. Vậy chính đức vua là đầu bằng vàng. Sau đức vua, thì có một vương quốc khác bằng bạc, kém hơn đức vua, sẽ dấy lên. Sau đó, có một vương quốc thứ ba bằng đồng, sẽ cai trị khắp địa cầu. Kế đó là vương quốc thứ tư bằng sắt. Sắt tàn phá và chế ngự mọi vật thế nào, thì nước này cũng tàn phá và chế ngự mọi sự như vậy. Ðức vua trông thấy chân và ngón chân nửa sành nửa sắt, đó là nước sẽ phân rẽ; đức vua trông thấy sắt sành lẫn lộn với nhau, đó là nền tảng nước kiên cố như sắt. Ngón chân nửa sắt nửa sành, là vương quốc sẽ nửa mạnh nửa yếu. Ðức vua trông thấy sắt lộn với sành: (chúng sẽ pha loại lai giống người với nhau), nhưng không thể hoà hợp với nhau, như sắt chẳng hoà hợp với sành vậy.
Trong thời đại có những vương quốc ấy, Thiên Chúa trên trời sẽ khiến một nước dấy lên, đời đời sẽ không hề bị tàn phá và không bị trao cho dân tộc khác, sẽ tàn phá và huỷ hoại các nước này; nó sẽ đứng vững muôn đời. (Cũng như) Ðức vua trông thấy tảng đá từ ngọn núi tách ra, không phải (do) người ta làm, nó đã tàn phá sành, sắt, đồng, bạc và vàng. Ấy Thiên Chúa cao cả đã tỏ ra cho vua những sự sẽ xảy đến sau này: Ðây mới thật là chiêm bao, là lời giải thích rất chân thành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 57. 58. 59. 60. 61
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Hãy chúc tụng Chúa đi, mọi công cuộc của Chúa, hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, các thiên thần của Chúa. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, muôn cõi trời cao. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, ngàn nước trên cõi cao xanh. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, muôn đạo thiên binh của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 5-11
"Không còn hòn đá nào nằn trên hòn đá nào".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: "Chính ta đây và thời gian đã gần đến", các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu".
Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".
Ðó là lời Chúa.

Đá Tảng Đức Tin - Văn Hóa Tận Số
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXIV Thường Niên, tiếp tục những bài giáo huấn Giêrusalem của Chúa Kitô, lần này, trực tiếp liên quan đến số phận tàn canh tận số sau một thời lừng danh vang bóng của chính Thành Thánh Giêrusalem: "Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: 'Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá'".
Nếu tảng "đá - rock" tượng trưng cho nền tảng đức tin vững chắc (xem Mathêu 7:24;16:18) thì những viên "đá - stones" tượng trưng cho thành phần tín đồ Do Thái giáo trong Cựu Ước cũng như thành phần Kitô hữu trong Tân Ước: "Anh em là những viên đá sống được xây lên như là một lâu đài thiêng liêng..." (1Phêrô 2:5).
Vậy nếu tình trạng Thành Thánh Giêrusalem vào thời điểm tận số của mình tan tành đến độ "không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá", thì phải chăng đó là hình ảnh về Giáo Hội vào ngày cùng tháng tận, được Chúa Giêsu báo trước cho biết về tình trạng khủng hoảng đức tin nơi thành phần tín hữu trước khi Người tái giáng: "Không biết khi Con Người trở lại có còn thấy đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?" (Luca 18:8).
Về những dấu hiệu báo trước tình trạng tận số của Thành Giêrusalem ám chỉ dân Chúa này, để trả lời cho câu hỏi "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Chúa Giêsu đã cảnh báo như sau:
"Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối: vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và thời gian đã gần đến', các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ: vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu. Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể".
Căn cứ vào lời của Chúa Kitô trên đây thì có 2 dấu hiệu báo trước về tình trạng tận số của Thành Thánh Giêrusalem hay của cộng đồng dân Chúa: hiện tượng đầu tiên là giả dối lừa đảo ("sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và thời gian đã gần đến'"), và hiện tượng tiếp theo là xẩy ra nào là nhân tai ("chiến tranh loạn lạc... Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ"), và nào là thiên tai ("sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể").
Hai hiện tượng chính yếu báo trước về tình trạng tận số của Thành Giêrusalem ám chỉ dân Chúa này thật ra cũng liên quan đến chính đức tin. Có nghĩa là, trước khi cộng đồng dân Chúa đi tới chỗ tận số thì xẩy ra những hiện tượng cho thấy đức tin của họ bắt đầu bị khủng hoảng. Ở chỗ, về tinh thần, họ bị mù tối, qua việc tạo nên những Đức Kitô giả tạo theo ý nghĩ của họ, những Đức Kitô không có năm dấu thánh của thành phần cấp tiến phá giới buông thả, hay ngược lại những Đức Kitô chỉ biết luận phạt chém giết tội nhân của thành phần bảo thủ, hoặc một thứ ý hệ cứu độ giả tạo nào đó như các chủ nghĩa đã từng xuất phát từ Tây phương Kitô giáo như Tam điểm, cộng sản, hiện sinh hưởng thụ, duy nhân bản, tương đối hóa, duy thực dụng v.v.
Chính vì đức tin của thành phần dân Chúa bị lệch lạc như vậy, mà "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), nên cộng đồng dân Chúa, đặc biệt cộng đồng dân Chúa Tây phương nói chung và Âu Châu nói riêng, mới tiến tới chỗ ghen ghét, hận thù, đến độ sát hại nhau bằng các cuộc chiến tranh chưa từng có trong lịch sử loài người, như Thế Chiến I và II ở thế kỷ 20 với hậu quả phải chịu là 100 triệu nhân mạng, những thế chiến xuất phát từ Âu Châu, thế giới Kitô giáo! Và như các chế độ diệt chủng, chẳng hạn cộng sản và Đức quốc xã, đã tàn sát cả 100 triệu sinh mạng nữa trong thế kỷ 20, chưa kể đến con số phá thai sát hại không biết bao nhiêu mà kể hằng năm từ khi con người "ban phép" phá thai, cũng xuất phát từ Tây phương Kitô giáo!!!
Cũng chính vì đức tin đã càng ngày càng trở nên yếu kém và bị lạc loài như thế mà thế giới Tây phương Kitô giáo văn mình chưa từng có và kỹ nghệ tân tiến hóa, đã vô tình hay cố ý, nhúng tay vào việc gây ra tình trạng khủng hoảng cả về môi sinh, với những biến động bất thường trong thiên nhiên, mà hậu quả gây ra cho hệ sinh thái (ecololy system) nơi trái đất là ngôi nhà chung của mình là chính con người vừa là phạm nhân vừa là nạn nhân phải hứng chịu những hậu qua thiên tai liên tục không ngừng xẩy ra ở khắp nơi trên thế giới như vẫn thấy vô cùng thảm thương hiện nay.
Không phải là ngẫu nhiên mà lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội và thế giới xuất hiện một bức thông điệp hoàn toàn không phải về những vấn đề như từ trước đến nay thuần tín lý hay thuần luân lý hoặc về phụng vụ hay tu đức, mà là một thông điệp về môi sinh và nhân sinh, Thông Điệp "Laurato Sí", được Vị Giáo Hoàng muốn có một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo là Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành ngày 24/5/2015.
Căn cứ vào những lời Chúa Kitô tiết lộ cho biết về dấu hiệu liên quan đến ngày cùng tháng tận thì thời kỳ cuối thời này phải nói là thời kỳ chẳng những xẩy ra hiện tượng khủng hoảng đức tin và phá sản đức tin mà còn đồng thời cũng là một thời kỳ thử thách đức tin của các kẻ lành nữa, thành phần cần phải được thanh luyện trước khi được vinh quang, như chính Chúa Kitô phải chịu khổ giá rồi mới tới vinh quang. Sách Tiên Tri Daniên ở Bài Đọc 1 hôm nay đã diễn tả về một vương quốc trổi vượt trên hết mọi đế quốc trên trần gian này:
"Trong thời đại có những vương quốc ấy, Thiên Chúa trên trời sẽ khiến một nước dấy lên, đời đời sẽ không hề bị tàn phá và không bị trao cho dân tộc khác, sẽ tàn phá và huỷ hoại các nước này; nó sẽ đứng vững muôn đời. (Cũng như) Ðức vua trông thấy tảng đá từ ngọn núi tách ra, không phải (do) người ta làm, nó đã tàn phá sành, sắt, đồng, bạc và vàng. Ấy Thiên Chúa cao cả đã tỏ ra cho vua những sự sẽ xảy đến sau này: Ðây mới thật là chiêm bao, là lời giải thích rất chân thành".
Bài Đáp Ca hôm nay vẫn tiếp tục điệp khúc "ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời" ở câu họa cũng như ở các câu xướng sau đây::
1) Hãy chúc tụng Chúa đi, mọi công cuộc của Chúa, hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời.
2) Chúc tụng Chúa đi, các thiên thần của Chúa.
3) Chúc tụng Chúa đi, muôn cõi trời cao.
4) Chúc tụng Chúa đi, ngàn nước trên cõi cao xanh.
5) Chúc tụng Chúa đi, muôn đạo thiên binh của Chúa.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 5, 1-6, 13-14, 16-17, 23-28
"Có những ngón tay hiện ra như bàn tay một người".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, vua Baltassar dọn tiệc linh đình đãi một ngàn triều thần: ai nấy cứ theo tuổi mình mà uống rượu. Khi vua đã say rượu, liền truyền đem các bình, chén, bát bằng vàng bạc mà Nabukôđônôsor, phụ vương ông, đã lấy trong đền thờ Giêrusalem đem về, để cho vua, các triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng uống rượu. Bấy giờ, người ta mang ra các bình, chén, bát bằng vàng bạc đã lấy trong đền thờ Giêrusalem đem về. Vua, các triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng đồ đó mà uống rượu. Họ vừa uống rượu vừa ca tụng các thần minh bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, đá của họ.
Chính lúc ấy, có những ngón tay hiện ra như bàn tay một người viết chữ trên vách tường cung điện, đối diện ánh bạch lạp; vua nhìn thấy ngón tay viết chữ. Bấy giờ mặt vua đổi sắc, tư tưởng rối loạn, xương sống yếu sức, đầu gối va chạm lẫn nhau.
Lúc đó người ta dẫn Ðaniel đến trước mặt vua. Vua hỏi người rằng: "Nhà ngươi có phải là Ðaniel, con cái Giuđa, phải lưu đày mà phụ vương trẫm đã điệu từ Giuđa về đây chăng? Trẫm đã nghe rằng nhà ngươi được thần linh các vị thần phù giúp: ngươi được thông minh, trí tuệ và khôn ngoan phi thường. Trẫm đã nghe rằng nhà ngươi có thể cắt nghĩa những huyền bí và giải thích được những chuyện khúc mắc. Vậy nếu nhà ngươi đọc được hàng chữ này và cắt nghĩa cho trẫm, thì nhà ngươi sẽ được mặc áo đỏ, cổ đeo vòng vàng và trở nên vị tướng thứ ba trong vương quốc trẫm".
Ðaniel tâu lại trước mặt vua rằng: "Lễ vật của vua xin để lại cho vua, và ân huệ nhà vua, xin vua ban cho kẻ khác. Thần xin đọc hàng chữ này và cắt nghĩa cho đức vua. Ðức vua đã tự phụ chống đối Ðấng cai trị trên trời: đã đem bày trước mặt vua các bình, chén, bát lấy trong đền Chúa, rồi vua, triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng những đồ ấy mà uống rượu; vua còn ca tụng các thần vàng bạc, đồng, sắt, gỗ, đá, toàn là những thứ không thấy, không nghe và không cảm giác: vua không tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng cầm trong tay vận mệnh và đường lối của đức vua. Bởi đó, Chúa khiến ngón tay hiện ra viết hàng chữ đó.
"Ðây những chữ đã viết như sau: Manê, Thêqel, Phares. Xin giải nghĩa những chữ đó như sau: Manê: là Thiên Chúa đã đếm đủ số triều đại nhà vua rồi. Thêqel: là đã cân vua trên cán cân, và thấy vua hụt cân. Phares: là vương quốc của vua đã bị phân chia và trao cho dân Mêđia và Batư".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 62. 63. 64. 65. 66. 67
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Chúc tụng Chúa đi, mặt trời cùng với mặt trăng. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, trên trời cao, muôn tinh tú. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, mưa móc với sương sa. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, muôn ngàn ngọn gió. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, lửa đỏ với than hồng. - Ðáp.
6) Chúc tụng Chúa đi, rét mướt và lạnh lẽo. - Ðáp.
Alleluia: Mt 24, 41a và 44
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 12-19
"Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy, nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.
"Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con".
Ðó là lời Chúa.

Thành Phần Chứng Nhân Cuối Thời
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XXXIV Thường Niên tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua về số phận tận số của Thành Thánh Giêrusalem, nhưng Bài Phúc Âm hôm nay nhấn mạnh đến số phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối thời.
Thật vậy,
ngoài hai dấu hiệu cho thấy ngày cùng tháng tận đó là hiện tượng giả dối
lừa đảo hoành hành cùng với hiện
tượng nhân tai kèm theo thiên tai xẩy ra cho nhân loại, còn
một dấu hiệu nữa đó là sự kiện bách hại thành phần chứng nhân cuối thời: "Người
ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù,
điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có
dịp làm chứng".
Đúng thế, chính hiện tượng "sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12) mới xẩy ra tình trạng bách hại thành phần chứng nhân cuối thời. Không biết có đúng hay chăng khi mà vào chính thời điểm lịch sử hiện nay, thời đểm con người càng văn minh về vật chất lại càng băng hoại về luân lý và đạo lý, thì chính ở thế giới Tây phương Kitô giáo, (chứ không phải chỉ ở thế giới Hồi giáo cực đoan chỉ được theo Hồi giáo, hay ở thế giới cộng sản vô thần), lại là nơi đang bách hại thành phần chứng nhân Kitô giáo, bằng những luật lệ cấm đoán công khai Kitô hữu bày tỏ đức tin ở những nơi công cộng, dù bằng ngôn từ hay hình ảnh, hoặc Kitô hữu phải làm theo những điều khoản phản lại lương tâm Kitô giáo của mình, nhất là bằng việc cả một Khối Liên Âu trắng trợn và cương quyết dứt khoát chối bỏ căn tính Kitô giáo của mình trong Bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu, một châu lục hoàn toàn mang gốc gác Kitô giáo và là nơi xuất phát các vị thừa sai đã từng loan truyền Tin mừng Sự sống Phúc Âm trên khắp thế giới.
Phải chăng lời Chúa Giêsu cảnh báo trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy", cũng bao gồm cả và ám chỉ đến tình hình chính thế giới Tây phương Kitô giáo bách hại Kitô giáo của chính mình?
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ của Người là hãy lợi dụng tình trạng bị bách hại ấy mà làm chứng cho Người: "các con sẽ có dịp làm chứng". Đó là lý do, vào ngày cuối thời, chính vào lúc "sự dữ gia tăng mà lòng mến nơi hầu hết con người ta trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12) mới đồng thời xẩy ra một chiến dịch hay phong trào chứng nhân truyền giáo: "Tin mừng về Nước Trời này sẽ được loan truyền khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau đó mới tới tận cùng" (Mathêu 24:14).
Phải chăng ngay vào thời điểm thế giới Kitô giáo Tây phương đang băng hoại, đang trở thành trung tâm "văn hóa sự chết" (ĐTC Gioan Phaolô II), thành lò "văn hóa tận số" (ĐTC Phanxicô) mới càng cần đến một Hội Đồng Tòa Thánh về Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa được ĐTC Biển Đức XVI thiết lập năm 2012, và là Hội Đồng đặc trách tổ chức Năm Thánh tình Thương 2016 do ĐTC Phanxicô khởi xướng; nhất là mới càng có những chuyến tông du của các Đức Giáo Hoàng từ ngay trong Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), với chuyến tông du đầu tiên của ĐTC Phaolô VI vào đầu năm 1964 ở Thánh Địa (4-6/1), với 104 chuyến tông du của ĐTC Gioan Phaolô II trong vòng 26 năm rưỡi của ngài (16/10/1978 - 2/4/2005), trung bình mỗi năm 4 chuyến, với 24 chuyến tông du của ĐTC Biển Đức XVI trong 8 năm phục vụ Giáo Hội của ngài (19/4/2005 - 28/2/2013), trung bình 3 năm 1 chuyến, và với 47 chuyến tông du của ĐTC Phanxicô trong 12 năm Giáo hoàng của ngài, trung bình 4 chuyến 1 năm v.v.
Thế nhưng, công cuộc và sứ vụ chứng nhân không phải là việc làm và hành động của cá nhân Kitô hữu, cho bằng của chính Giáo Hội và nhất là của Chúa Kitô, Đấng ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế (xem Mathêu 28:20), Đấng luôn sống động trong Giáo Hội và tỏ mình ra nơi từng chi thể của Giáo Hội là thành phần chứng nhân của Người và cho Người như cành nho dính liền với Người là thân nho (xem Gioan 15:5).
Bởi thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã trấn an thành phần chứng nhân tiên khởi của Người là các môn đệ đang theo Người và nghe Người bấy giờ, cũng như khẳng định cùng thành phần chứng nhân ở mọi thời và nhất là ở vào cuối thời của Người rằng: "Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con".
Và sở dĩ "mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con" được, như một phó tế Staphanô vị tử đạo tiên khởi của Kitô giáo (xem Tông Vụ toàn đoạn 7), là vì chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:1) bất diệt tỏ mình ra qua họ như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5), nhất là khi Người tái xuất hiện trong vinh quang "để phán xét kẻ sống và kẻ chết", cho dù hiện tại dường như sự dữ đang thắng thế, đang làm chủ tình hình và đang hoành hành kinh hoàng khủng khiếp như thể cả thế gian này đã biến thành hỏa ngục trần gian vậy.
Quả thực, trong một giai đoạn sự dữ gia tăng tới tột độ quyền lực của nó vô cùng kinh hoàng khủng khiếp đến độ "nếu giai đoạn ấy không được rút ngắn lại thì không một con ngưòi trần gian nào được cứu độ" (Mathêu 24:22), thì kể cả kẻ lành cũng vẫn có thể gặp nguy hiểm và vẫn có thể bị đánh lừa (xem Mathêu 24:24), như trường hợp cả 5 cô trinh nữ khôn ngoan cũng thiếp ngủ (xem Mathêu 25:5); nhưng 5 trinh nữ khôn ngoan này hoàn toàn khác với 5 trinh nữ khờ dại, ở chỗ, các cô mang dầu đức cậy theo với đèn đức tin để có thể thắp sáng đức mến khi chàng rể bất ngờ xuất hiện, nhờ đó, cho dù các cô mắt có ngủ nhưng lòng vẫn thức (xem Diễm Tình ca 5:2), ở chỗ vẫn "thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28), Đấng quan phòng thần linh cứu độ, đến độ: "dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất" như chính lời Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Chính vì thời kỳ cuối thời là thời kỳ thử thách đức tin của kẻ lành, thành phần sẽ chịu gian nan khốn khó trên trần gian này, đặc biệt là bị kẻ dữ, kẻ có quyền lực ức hiếp, bách hại và sát hại, nhưng "Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con", mà Sách Tiên Tri Daniên ở Bài Đọc 1 hôm nay đã nhắc nhở đặc biệt thành phần quyền lực về một chân lý đức tin bất khả sai lầm là chỉ duy Thiên Chúa mới là chủ tể mọi sự và là Đấng làm chủ lịch sử của loài người mà thôi:
"Ðức vua đã tự phụ chống đối Ðấng cai trị trên trời: đã đem bày trước mặt vua các bình, chén, bát lấy trong đền Chúa, rồi vua, triều thần, hoàng hậu và cung phi dùng những đồ ấy mà uống rượu; vua còn ca tụng các thần vàng bạc, đồng, sắt, gỗ, đá, toàn là những thứ không thấy, không nghe và không cảm giác: vua không tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng cầm trong tay vận mệnh và đường lối của đức vua. Bởi đó, Chúa khiến ngón tay hiện ra viết hàng chữ đó. Ðây những chữ đã viết như sau: Manê, Thêqel, Phares. Xin giải nghĩa những chữ đó như sau: Manê: là Thiên Chúa đã đếm đủ số triều đại nhà vua rồi. Thêqel: là đã cân vua trên cán cân, và thấy vua hụt cân. Phares: là vương quốc của vua đã bị phân chia và trao cho dân Mêđia và Batư".
Bài Đáp Ca hôm nay, trích từ Sách Tiên Tri Daniên, là một lời chúc tụng Thiên Chúa là chủ tể của muôn loài, xuất phát từ chính thiên nhiên vạn vật được Ngài dựng nên và tỏ mình ra cho loài người qua chúng, những loài thụ tạo, nhờ loài người, qua loài người và với loài người cần phải nhận biết cùng "ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời" (câu đáp):
1) Chúc tụng Chúa đi, mặt trời cùng với mặt trăng.
2) Chúc tụng Chúa đi, trên trời cao, muôn tinh tú.
3) Chúc tụng Chúa đi, mưa móc với sương sa.
4) Chúc tụng Chúa đi, muôn ngàn ngọn gió.
5) Chúc tụng Chúa đi, lửa đỏ với than hồng.
6) Chúc tụng Chúa đi, rét mướt và lạnh lẽo.
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 6, 11-27
"Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, có những người tọc mạch dò xét, họ bắt gặp Ðaniel đang cầu nguyện kêu xin cùng Chúa mình. Họ liền đến tâu vua về điều lệ rằng: "Tâu đức vua, chớ thì đức vua đã chẳng quy định rằng: trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin cùng thần minh nào hay người nào ngoài đức vua, thì, lạy đức vua, nó sẽ bị ném vào hang sư tử đó sao?" Vua trả lời rằng: "Ðúng, cứ như sắc chỉ Mêđia và Batư, thì không được sai lỗi". Bấy giờ họ lại tâu vua rằng: "Ðaniel thuộc con cái Giuđa phải lưu đày, đã chẳng xem sao lề luật và chiếu chỉ vua đã quy định: mỗi ngày nó đọc kinh cầu nguyện ba lần". Khi nghe biết điều đó, nhà vua rất đỗi buồn rầu. Vua quyết tâm cứu chữa Ðaniel, và cố gắng cứu người cho đến khi mặt trời lặn. Những người ấy hiểu ý vua, liền tâu vua rằng: "Tâu đức vua, xin đức vua biết cho rằng dân Mêđia và Batư có lề luật này là bất cứ sắc chỉ nào đức vua ra, thì không được thay đổi". Bấy giờ vua truyền dẫn Ðaniel ra, và họ ném người xuống hang sư tử. Vua bảo Ðaniel rằng: "Xin Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy sẽ cứu thoát ngươi". Người ta liền lấy hòn đá chận cửa hang, vua lấy nhẫn mình và nhẫn các quan triều thần mà đóng ấn niêm phong, để bảo đảm vụ Ðaniel.
Vua trở về hoàng cung liền đi ngủ, không chịu ăn uống lương thực dâng trước mặt vua, nhưng vua không sao ngủ được. Trời vừa rạng đông, vua liền chỗi dậy, vội vã chạy ra hang sư tử. Khi đến gần cửa hang, vua liền lớn tiếng khóc thương Ðaniel rằng: "Hỡi Ðaniel tôi tớ Thiên Chúa hằng sống, không biết Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy có cứu chữa được ngươi thoát khỏi sư tử chăng?" Ðaniel trả lời rằng: "Tâu đức vua muôn tuổi, Thiên Chúa của thần đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại, nên chúng không làm hại được thần; vì trước mặt Thiên Chúa, thần là người công chính; vả lại tâu đức vua, trước mặt đức vua, thần cũng chẳng làm điều gì sai lỗi. Bấy giờ vua mừng rỡ, truyền kéo Ðaniel ra khỏi hang. Khi Ðaniel ra khỏi hang, người ta thấy người không bị hề hấn gì, vì người đã tin cậy vào Thiên Chúa của người. Vua liền truyền đem các người tố cáo Ðaniel, cùng vợ con của chúng, ném vào hang sư tử, chúng chưa kịp rơi xuống tới đáy hang, thì đã bị sư tử cắn xé nát thịt tan xương.
Bấy giờ vua Ðariô ra chiếu chỉ cho toàn dân, các chi họ, các thổ ngữ, những người đang cư ngụ trong toàn quốc rằng: "Nguyện cho các ngươi được thêm sự bình an. Ta đã ra chiếu chỉ cho các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ Thiên Chúa của Ðaniel. Vì chính Người mới là Thiên Chúa hằng sống, và hằng có đời đời; nước Người không hề tan rã, và quyền bính Người tồn tại đến muôn đời. Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc kỳ diệu trên trời dưới đất: Người đã cứu chữa Ðaniel khỏi hang sư tử".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 68. 69. 70. 71. 72. 73. 74
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Chúc tụng Chúa đi, mưa đổ với sương rơi. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, nước đông và băng giá. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, nước đọng với tuyết sa. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, ngày quang và đêm tối. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, sáng sủa với thâm u. - Ðáp.
6) Chúc tụng Chúa đi, mây trôi và chớp giật. - Ðáp.
7) Hãy chúc tụng Chúa đi, hỡi địa cầu, hãy ngợi khen tán tạ Chúa tới muôn thuở. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 28
Alleluia, alleluia! - Các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 20-28
"Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép.
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
Ðó là lời Chúa.

Ngẩng đầu thẳng đứng
Tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về số phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối thời, hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXIV Thường Niên, Bài Phúc Âm thuật lại thêm những lời cảnh báo kèm huấn dụ của Chúa Giêsu với các môn đệ về việc ứng phó với tình hình cuối thời, sau đó Người lại cho biết tiếp về hiện tượng cuối thời diễn tiến cho đến khi Người tái xuất hiện.
Về những lời huấn dụ kiêm cảnh báo của Chúa Giêsu với các môn đệ liên quan đến việc ứng phó tình hình cuối thời:
"Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép. Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt".
Về hiện tượng cuối thời diễn tiến cho đến khi Chúa Kitô xuất hiện:
"Sẽ có những điềm lạ
trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo
lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy
đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy
trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những
điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu
rỗi các con đã gần đến".
Để tiếp tục những cảm nhận và dẫn giải về mầu nhiệm cùng biến cố tái giáng của Chúa Kitô, như đã được trình bày và chia sẻ ở Thứ Sáu Tuần XXXII Thường Niên - Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXII Thường Niên Chu Kỳ B, và Chúa Nhật XXXIII Thường Niên: Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần XXXIII Thường Niên Chu Kỳ B - ở đây, hôm nay, chúng ta lưu ý thêm những chi tiết chưa có trong 2 bài Phúc Âm trên, thứ tự như sau:
Trước hết, "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây (có thể ám chỉ đạo binh gog và magog ở Khải Huyền 20:8-9), các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa (có thể ám chỉ cộng đồng dân Chúa trên thế giới, vì Giuđêa là miền nam nước Do Thái, miền đất chính yếu của Do Thái giáo, nơi có giáo đô và đền thờ Giêrusalem bị xâm chiếm và tàn phá), hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành".
Nghĩa là thành phần chứng nhân cuối thời phải làm sao để có thể thoát nạn khi đến thời điểm xẩy ra là "ngày báo oán" và ở ngoài địa điểm xẩy ra là "thành Giêrusalem". Việc họ có thể vượt thoát hoạn nạn kinh hoàng hầu như bất khả đối với khả năng tự nhiên của con người này chứng tỏ thành phần chứng nhân cuối thời thật sự tỉnh thức, nhận ra dấu chỉ thời đại và ứng biến một cách khôn ngoan, không giống như thành phần nạn nhân bị mắc kẹt ở lại không thể thoát thân, gây ra bởi chính tình trạng mù quáng và nặng nề chậm chạp của họ, như được nói đến ngay dưới đây.
Sau nữa, "khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ xẩy ra những khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân".
"Người đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ" đây có thể ám chỉ những ai lo toan bận bịu vướng mắc thế gian vào lúc bấy giờ, như thành phần buôn bán trong Đền Thờ Giêrusalem bị Chúa đánh đuổi trong bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXIII Thường Niên vừa rồi, sẽ chịu "khốn cực cả thể", ở chỗ họ "sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt".
"Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt": "Các dân ngoại" đây không phải là thành phần ngoài dân Do Thái thời Cựu Ước và là thành phần đã làm nên Giáo Hội Chúa Kitô thời Tân Ước, mà là tất cả những ai, dù là Kitô hữu, sống như không có đức tin, sống theo tinh thần và khuynh hướng của dân ngoại, theo trào lưu vô thần duy vật, hoàn toàn phản lại với Chúa Kitô và bất chấp lề luật Thiên Chúa, như tình trạng văn hóa Kitô giáo đang bị hủy hoại ở thế giới Tây phương Kitô giáo hiện nay... Nhưng tình trạng "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp" này chỉ kéo dài trong một thời gian giới hạn được phép, tức "cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt". Nghĩa là cho tới khi Chúa Kitô xuất hiện như Người đã xuất hiện để thanh tẩy đền thờ Giêrusalem trong Bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần XXXIII vừa rồi.
"Cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt" thì "lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả" . Bài Đọc 1 hôm nay, trích sách Tiên Tri Daniên, cũng cho thấy ý nghĩa "lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả" vào lúc "thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt", như đã xẩy ra trong Cựu Ước, được Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy "chấm dứt" có thể hiểu được là ở chỗ vị vua dân ngoại đã chẳng những nhận biết Thiên Chúa của dân Do Thái mà còn truyền cho các dân thuộc đế quốc của mình phải kính sợ Ngài nữa:
"Vua Ðariô ra chiếu chỉ cho toàn dân, các chi họ, các thổ ngữ, những người đang cư ngụ trong toàn quốc rằng: 'Nguyện cho các ngươi được thêm sự bình an. Ta đã ra chiếu chỉ cho các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ Thiên Chúa của Ðaniel. Vì chính Người mới là Thiên Chúa hằng sống, và hằng có đời đời; nước Người không hề tan rã, và quyền bính Người tồn tại đến muôn đời. Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc kỳ diệu trên trời dưới đất: Người đã cứu chữa Ðaniel khỏi hang sư tử'".
Và đó là lý do bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Sách Tiên Tri Daniên, thiên nhiên vạn vật tiếp tục bài ca chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là chủ tể tối cao của mình như sau:
1) Chúc tụng Chúa đi, mưa đổ với sương rơi.
2) Chúc tụng Chúa đi, nước đông và băng giá.
3) Chúc tụng Chúa đi, nước đọng với tuyết sa.
4) Chúc tụng Chúa đi, ngày quang và đêm tối.
5) Chúc tụng Chúa đi, sáng sủa với thâm u.
6) Chúc tụng Chúa đi, mây trôi và chớp giật.
7) Hãy chúc tụng Chúa đi, hỡi địa cầu, hãy ngợi khen tán tạ Chúa tới muôn thuở.
Sau hết, "Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến". Đúng thế, "Khi những điều đó bắt đầu xảy đến" nghĩa là lúc "Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp", thì đó là dấu báo cho biết "giờ cứu rỗi các con đã gần đến", nghĩa là lúc Chúa Kitô sắp sửa xuất hiện để thanh tẩy Đền Thánh của Người, thì thành phần chứng nhân cuối thời chẳng những không được sợ hãi hay chán nản bỏ cuộc, trái lại, còn phải hân hoan vui mừng "đứng dậy và ngẩng đầu lên" nữa, để sửa soạn tiến lên nghênh đón Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis (nhan đề của bức thông điệp đầu tay được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 4/3/1979), đúng như những gì đã được Thánh Phaolô Tông Đồ ngưỡng vọng:
"Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại
trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế,
chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi". (1Thessalonica 4:16-17).
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 7, 2-14
"Kìa có ai như con người ngự trên đám mây".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong một thị kiến ban đêm, tôi nhìn thấy có những ngọn gió từ bốn phương trời, làm dấy động biển cả. Có bốn con thú khổng lồ khác nhau từ biển đi lên. Con thứ nhất giống như con sư tử cái, mang hai cánh chim phượng: tôi nhìn nó mãi cho đến khi hai cánh nó bị nhổ đi, nó cất lên khỏi đất và đứng thẳng hai chân như con người, nó được ban tặng quả tim loài người.
Con thú thứ hai giống như con gấu đứng một bên: trong miệng nó có ba hàng răng và người ta bảo nó rằng: "Mi hãy chỗi dậy ăn cho thật nhiều thịt". Kế đó, tôi nhìn xem, và đây, con thú thứ ba giống như con beo, trên mình nó có bốn cánh như con chim, và nó có bốn đầu, nó được ban tặng một thứ quyền năng.
Sau đó, trong một thị kiến ban đêm, tôi thấy con thú thứ tư dữ tợn lạ lùng và mạnh mẽ: nó có nanh sắt to lớn, nó đang cắn nuốt nhai xé, và những gì còn sót lại thì nó lấy chân giày đạp; nó khác hẳn những con thú tôi đã trông thấy trước, nó có mười sừng. Tôi nhìn các sừng của nó, thì kìa một cái sừng nhỏ khác mọc lên giữa các sừng kia, ba trong số mười sừng trước bị nhổ ra trước mặt nó: trong chiếc sừng nhỏ có mắt như loài người và có miệng nói những lời trịnh trọng.
Tôi chăm chú nhìn mãi cho đến khi đặt xong các toà, và vị Bô Lão lên ngự trên toà: áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tinh tuyền như lông chiên, toà của Người như ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy. Trước mặt Người có con sông lửa cuộn chảy như thác. Có hằng ngàn kẻ phụng sự Người và muôn muôn vàn kẻ chầu chực Người. Người ngự toà xét xử và các quyển sách đã được mở ra. Tôi nhìn về phía có tiếng ầm ầm từ chiếc sừng ấy phát ra: Tôi thấy con thú đó bị giết, xác nó bị huỷ diệt và bị lửa đốt. Các con thú khác cũng bị tước đoạt hết quyền lực, và thời gian sinh sống của chúng đã được quy định từng thời kỳ này đến thời kỳ kia.
Trong một thị kiến ban đêm, tôi ngắm nhìn, và đây tôi nhìn thấy Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc. Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 75. 76. 77. 78. 79. 80. 81
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Chúc tụng Chúa đi, núi non và các ngọn đồi. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, cỏ hoa mọc cõi trần ai. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, những dòng suối nước. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, biển cả với sông ngòi. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, cá voi và muôn loài lội nước. - Ðáp.
6) Chúc tụng Chúa đi, hết mọi giống chim trời. - Ðáp.
7) Chúc tụng Chúa đi, mọi thú rừng và gia súc, hãy ngợi khen và tán tạ Chúa muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Kh 2, 10c
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 29-33
"Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm Lời Chúa
Một Cánh Chung Vượt
Qua
Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXIV Thường Niên, Bài Phúc Âm tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua về đường lối ứng phó của thành phần chứng nhân cuối thời, vào thời điểm Giêrusalem ám chỉ cộng đồng dân Chúa bị tàn phá (như được báo trước trong Bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này), cũng như về số phận bị bách hại của thành phần chứng nhân cuối thời (như được tiên báo trong Bài Phúc Âm Thứ Tư hôm sau), trong khi bài Phúc Âm hôm nay lại cho thấy lóe sáng niềm hy vọng như thế này:
"Các con hãy xem cây
vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa
hè đã gần đến. Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy
biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ
chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời
Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
Bài Phúc Âm vắn gọn chỉ có 5 câu ngắn này quả thực đã cho chúng ta thấy ánh sáng cuối đường hầm. Ở chỗ, trong khi mọi sự trước đó toàn là những gì tai ương, hoạn nạn, chết chóc, tang thương thì cuối cùng lại thấy sự sống ló dạng và bừng nở, như hình ảnh "cây vả và mọi thứ cây cối... đâm chồi nảy lộc" để báo hiệu "mùa hè đã gần đến" ở Lời Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Đây là một hình ảnh tuyệt vời tràn đầy hy vọng, liên quan chẳng những đến sự sống mà còn là một sự sống viên mãn nữa (xem Gioan 10:10). "Sự sống" ở đây được biểu hiệu nơi hình ảnh "cây vả và mọi thứ cây cối... đâm chồi nảy lộc", và "sự sống viên mãn" đây biểu hiệu nơi "mùa hè đã gần đến". Vì qua các mùa của một năm, trong khi mùa đông lạnh lẽo biểu hiệu cho chết chóc, mùa thu ảm đạm biểu hiệu cho u buồn yếm thế, và mùa xuân tươi mát biểu hiệu cho sự sống hồi sinh sau mùa đông chết chóc, thì mùa hè biểu hiệu cho sự sống phong phú, mạnh mẽ và tràn đầy, với ánh sáng cùng với nhiệt năng sinh động.
Cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô thật sự, về thời điểm, đã xẩy ra từ 12 giờ trưa đến 3 giờ chiều là thời điểm "mùa hè" chói chang ánh sáng và sức nóng nhất của một ngày, sau mùa xuân ban sáng và mùa đông ban đêm, và trước mùa thu ban chiều trong một ngày sống của con người trên thế gian này.
Và chính vào thời điểm lịch sử của loài người ấy, ở nước Do Thái xưa, mà Vương Quốc của Thiên Chúa đã thực sự được thiết lập và trị đến nơi "Vua Dân Do Thái" (Luca 23:38) trên ngai tòa thập giá ở đồi Canvê xưa, một vương quốc đang bất diệt qua sự tồn tại của Giáo Hội Chúa Kitô dù Giáo Hội của Ngài liên lỉ bị bách hại và sát hại trên trần gian này, cho tới khi vương quốc này hoàn toàn được tỏ hiện nơi mầu nhiệm cánh chung khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang, được nghênh đón bởi vị hôn thê diễm lệ của Người là một tân Giêrusalem từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống (xem Khải Huyền 21:2).
Việc nhận ra dấu chỉ thời đại để có thể đáp ứng một cách thích thời và kịp thời, như Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay về dấu báo "nước Thiên Chúa đã gần đến", ám chỉ Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Sách Tiên Tri Daniên ở Bài Đọc 1 hôm nay đã tiên báo như sau: "Trong một thị kiến ban đêm, tôi ngắm nhìn, và đây tôi nhìn thấy Con Người đến trong đám mây trên trời, Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc. Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất; vương quốc của Ngài không khi nào bị phá huỷ".
Bài Đáp Ca hôm nay, cũng được trích từ Sách Tiên Tri Daniên, về bài ca "ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời" của thiên nhiên tạo vật đối với Vị Thiên Chúa Hóa Công là chủ tể muôn loài của mình:
1) Chúc tụng Chúa đi, núi non và các ngọn đồi.
2) Chúc tụng Chúa đi, cỏ hoa mọc cõi trần ai.
3) Chúc tụng Chúa đi, những dòng suối nước.
4) Chúc tụng Chúa đi, biển cả với sông ngòi.
5) Chúc tụng Chúa đi, cá voi và muôn loài lội nước.
6) Chúc tụng Chúa đi, hết mọi giống chim trời.
7) Chúc tụng Chúa đi, mọi thú rừng và gia súc, hãy ngợi khen và tán tạ Chúa muôn đời.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Ðn 7, 15-27
"Sẽ trao quốc gia và quyền hành cho dân thánh của Ðấng Tối Cao".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Tôi là Ðaniel, lòng tôi kinh khiếp, tôi run sợ vì những sự đã thấy, các thị kiến trong đầu óc tôi khiến tôi bối rối. Tôi tiến lại gần một vị hầu cận, hỏi người ý nghĩa thật về những sự đó. Người liền giải thích cho tôi và bảo rằng: "Bốn con thú to lớn đó là bốn quốc gia sẽ dấy lên trên địa cầu. Nhưng các thánh của Thiên Chúa Tối Cao sẽ lên ngôi và sẽ nắm giữ quốc gia đến muôn muôn ngàn đời".
Sau đó, tôi muốn tìm hiểu cặn kẽ về con vật thứ tư, nó khác xa mọi con thú kia và rất dữ tợn: nanh móng nó bằng sắt, nó cắn nuốt nhai nghiến, và lấy chân giày đạp những gì còn sót lại. Tôi cũng muốn biết rõ về mười cái sừng trên đầu nó, và một cái sừng mới mọc lên, trước khi ba cái sừng kia bị nhổ đi: cái sừng mới mọc lên lại có mắt và miệng, nó nói lên những điều trọng đại, và nó lớn hơn các sừng khác. Tôi nhìn xem chiếc sừng ấy giao chiến với các thánh và nó toàn thắng, cho tới khi vị Bô Lão đến trao quyền xét xử cho các thánh của Ðấng Cao Cả, tức là tới thời kỳ các thánh chiếm đoạt quốc gia.
Người lại bảo như thế này: "Con vật thứ tư là quốc gia thứ tư trên địa cầu, nó rộng lớn hơn mọi quốc gia, thôn tính cả hoàn cầu và giày đạp phá huỷ địa cầu. Còn mười chiếc sừng là mười vua trong nước đó. Sau mười vua ấy, thì một vua khác dấy lên, có quyền thế hơn các vua trước, và đánh đổ được ba vua. Ông ta nói những lời phạm đến Ðấng Chí Tôn, tàn sát các thánh của Ðấng Tối Cao, ông tưởng mình có thể thay đổi cả thời gian và luật pháp, và người ta sẽ trao vào tay ông một thời kỳ, hai thời kỳ và nửa thời kỳ.
"Ðoạn sẽ có phán quyết để truất phế, tiêu diệt và huỷ hoại ông ta cho tận tuyệt. Còn quốc gia, quyền hành và sự cao sang dưới các tầng trời, sẽ trao cho dân thánh của Ðấng Tối Cao: nước Người là nước hằng hữu, mọi vua chúa sẽ suy phục vâng lời Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 82. 83. 84. 85. 86. 87
Ðáp: Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời (c. 57b).
Xướng: 1) Hãy chúc tụng Chúa đi, con người ta hỡi. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa đi, hỡi Israel. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa đi, các thầy tư tế của Chúa. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa đi, mọi người tôi tớ Chúa. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa đi, thần hồn các vị hiền nhân. - Ðáp.
6) Chúc tụng Chúa đi, người thánh và lòng khiêm nhượng. - Ðáp.
Alleluia: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia! - Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể xứng đáng đứng vững trước mặt Con Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 21, 34-36
"Các con hãy tỉnh thức, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
Ðó là lời Chúa.

Suy Nghiệm Lời Chúa
Thứ Bảy cuối Tuần XXXIV Thường Niên cũng là ngày cuối cùng của phụng niên nói chung và của chu kỳ phụng niên năm B nói riêng, Bài Phúc Âm hôm nay chỉ có 3 trong 5 câu cuối cùng ở đoạn 21 Phúc Âm Thánh Luca.
Đúng thế, 2 câu cuối cùng 37 và 38 của đoạn 21 được Thánh ký Luca cho biết về lịch trình cùng nơi chốn sinh hoạt hay giảng dạy của Chúa Giêsu vào những giây phút cuối cùng của Người ở Giêrusalem trước cuộc khổ nạn và tử giá của Người: "Ban ngày Người giảng dạy trong đền thờ, và ban đêm Người rời thành này mà về Núi Cây Dầu. Khi ngày tới thì tất cả mọi người đều đến nghe Người trong đền thờ".
Tuy nhiên, cho dù "Khi ngày tới thì tất cả mọi người đều đến nghe Người trong đền thờ", mà loạt bài giáo huấn cuối cùng ở Giêrusalem của Người, từ bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước cho đến nay, Chúa Giêsu chỉ nói với các môn đệ của Người mà thôi, chứ Người không nói với các vị một cách riêng tư như Người sẽ làm thế khi cử hành Lễ Vượt Qua với các vị trong Bữa Tiệc Ly ở căn thượng lầu riêng biệt giữa Người và các vị, và kể cả trong bài Phúc Âm hôm nay, Người vẫn nói với các vị một cách công khai trước mặt quần chúng và nơi đền thờ Giêrusalem.
Thật vậy, trước ngay 2 câu cuối cùng ở đoạn 24 này, Thánh ký Luca đã ghi lại lời Chúa Giêsu huấn dụ sau hết của Người trong loạt giáo huấn cuối cùng của Người ở Giêrusalem, cho riêng các môn đệ của Người cũng như cho chung dân chúng đang qui tụ lại với các môn đệ của Người để nghe Người bấy giờ. Và lời huấn dụ cuối cùng mà Người muốn nhắn nhủ cho cả hai thành phần nghe Người bấy giờ được thánh ký Luca ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay đó là:
"Các
con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo
lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp
xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện
luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con
Người!"
Trong lời huấn dụ cuối cùng ở Giêrusalem này, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ và toàn thể đám đông dân chúng đang lắng nghe Người bấy giờ 2 điều, một có tính cách tránh lánh tiêu cực: "hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất", và một có tính cách áp dụng thực hành tích cực: "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
Về lời khuyên tránh lánh những gì là tiêu cực "hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất" là lời khuyên được Người lập lại theo lời cảnh báo của Người trước kia liên quan đến việc ứng phó của thành phần chứng nhân cuối thời khi thấy thành Giêrusalem bị công hãm thì làm sao phải thoát thân chứ đừng bị kẹt lại mà khốn, như lời Người trong Bài Phúc Âm Thứ Năm tuần này:
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân".
Về lời khuyên áp dụng thực hành tích cực "hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" cũng được Người lập lại những gì Người đã trấn an và phấn khích thành phần chứng nhân cuối thời trong cùng Bài Phúc Âm Thứ Năm tuần này mới hôm kia: "Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
Vẫn biết vương quốc của ma quỉ, của thần dữ đã bị phá hủy bởi Chúa Kitô khi Người đến trần gian lần thứ nhất, đặc biệt là bằng cuộc Vượt Qua của Người (xem 1Gioan 3:8). Tuy nhiên, khi còn sống trên thế gian này, trong không gian và thời gian, con người dù đã được cứu độ khi lãnh nhận Phép Rửa tái sinh, vẫn sống với một bản tính bị nhiễm lây nguyên tội, nên vẫn phải chịu hậu quả của nguyên tội là khổ đau cùng chết đi, và vì thế vẫn sống với tất cả các mầm mống tội lỗi là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, và do đó vẫn có thể bị hư đi, nếu không tự "giữ mình" và "luôn tỉnh thức và cầu nguyện".
Kinh nghiệm tu đức cho thấy rõ đúng là như vậy, và chính Phúc Âm cũng đã ghi lại trường hợp điển hình nhất về ba vị tông đồ thân tín nhất của Chúa Kitô ở trong Vườn Cây Dầu vào Đêm Thứ Năm Tuần Thánh với Chúa Giêsu, cả 3 vị đã không thể nào mở mắt thức với Người được lấy 1 giờ đồng hồ trong lúc Người "buồn thảm đến chết đi được" (xem Mathêu 26:36-46), bởi thế mà ba vị tông đồ thân tín này đã cùng với những vị còn lại "tất cả đã bỏ Người mà thoát thân" (Marco 14:50), ngay chính lúc các vị cần phải tỏ ra hiên ngang cương quyết sống chết với Thày của mình!
Đó là lý do trong Phúc Âm Mathêu đoạn 25 mới có dụ ngôn 5 cô trinh nữ khôn ngoan cho dù có ngủ vẫn còn dầu hy vọng để có thể thắp sáng lên đức mến cho cây đèn đức tin của mình nhờ đó các cô mới mau chóng xứng đáng nghênh đón Chàng Rể đến vào lúc "nửa đêm" (Mathêu 25:6).
Chúa Kitô quang lâm không phải chỉ để tiêu diệt sự dữ và kẻ dữ mà là để canh tân lại tất cả mọi sự theo đúng như dự án thần linh vô cùng khôn ngoan của Vị Thiên Chúa toàn thiện, toàn ái và toàn năng. Sách Tiên Tri Đaniên ở Bài Đọc 1 hôm nay đã diễn tả về thành phần được gọi là "các thánh của Thiên Chúa Tối cao" hay "dân thánh của Đấng Tối Cao" như thế này: "Các thánh của Thiên Chúa Tối Cao sẽ lên ngôi và sẽ nắm giữ quốc gia đến muôn muôn ngàn đời... quốc gia, quyền hành và sự cao sang dưới các tầng trời, sẽ trao cho dân thánh của Ðấng Tối Cao: nước Người là nước hằng hữu, mọi vua chúa sẽ suy phục vâng lời Người".
Trước tất cả những gì Thiên Chúa thực hiện theo đúng dự án thần linh của Ngài, nơi Chúa Giêsu Kitô là Lời Nhập Thể của Ngài, qua cả 2 lần đến của Người, tất cả đều cho lợi ích thiêng liêng cho con người, và qua con người mà mọi loài cũng được thông hưởng (xem Roma 8:19), tâm hồn của những ai tin tưởng vào Ngài và trung kiên với Ngài không thể nào không hân hoan kêu gọi chúc tụng ngợi khen Ngài, như câu họa của bài Đáp Ca hôm nay: "Hãy ngợi khen và tán tạ Chúa tới muôn đời" cũng như các câu xướng của bài Đáp Ca hôm nay liên quan đến chính loài người, (hơn là chỉ liên quan đến thiên nhiên vạn vật như các bài Đáp Ca suốt tuần này), như sau:
1) Hãy chúc tụng Chúa đi, con người ta hỡi.
2) Chúc tụng Chúa đi, hỡi Israel.
3) Chúc tụng Chúa đi, các thầy tư tế của Chúa.
4) Chúc tụng Chúa đi, mọi người tôi tớ Chúa.
5) Chúc tụng Chúa đi, thần hồn các vị hiền nhân.
6) Chúc tụng Chúa đi, người thánh và lòng khiêm nhượng.
Hạnh Thánh trong Tuần
23/11 - Chúa Nhật
Thánh Clêmentê ở Rôma

Người ta biết được về thánh Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong 10 năm chỉ
nhờ bức "thư gởi giáo hữu Côrintô" thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những
chứng thư đầy huyền thoại. Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc dòng dõi
Giacop. Sinh tại Roma, được nuôi dưỡng trong Do thái giáo.
Thánh Clêmentê đã nghe theo những diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành
môn đệ các Ngài. Ngài đã theo thánh Phaolô trong các hành trình đi truyền
giáo và đã trở thành đấng kế vị thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang
bách hại các Kitô hữu biết được rằng: vị giáo hoàng đã đem được nhiều người
trở lại đạo. Ông kết án Ngài phải làm việc khổ sai tại các hầm mỏ bên kia
Bắc Hải, trong các miền hoang vắng. Hai ngàn Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu
cảnh khát nước thảm khốc.
Tương truyền rằng thánh Clêmentê cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một
con chiên ghi dấu chân đúng vào chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên làm giảm
khát cho người mang án. Các bức tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu tượng
một con chiên đứng trên ngọn núi xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh
Clêmentê đã dùng lời nói và phép lạ để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ
giả tới cột cổ Ngài vào một cái neo rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành.
Nhưng trong khi các tín hữu cầu nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một
cách lạ lùng và có thể đưa xác vị tử đạo lên đất liền.
Điều chắc chắn chính là bức thư của thánh Clêmentê đã thành một trong các
tài liệu quí giá của Kitô giáo thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến
Đức giáo hoàng để tìm hoà giải những cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp
thư của Ngài. Những thư này được đọc cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của
thánh Clêmentê chứng thực việc thánh Phêrô đến và chịu chết ở Roma, việc
Nêrô bắt các Kitô hữu làm trò mua vui. Thư cũng gợi ý cho chúng ta việc tổ
chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao khác, thánh Clêmentê đã nói:
- "Ai mạnh hãy lo cho người yếu. Người giầu hãy giúp đỡ người nghèo và người
nghèo hãy chúc tụng Chúa và điều Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ.
Người khôn ngoan hãy tỏ ra khôn ngoan không phải chỉ trong lời nói mà còn
trong các việc lành. Người khiêm tốn đùng nói gì về mình và đừng tìm phô
diễn hành động của mình. Người lớn không thể tồn tại mà không có người nhỏ
và người nhỏ cũng không thể tồn tại mà không có người lớn... Thân thể không
thể bỏ qua sự phục vụ của những chi thể nhỏ bé hơn.
Các tín hữu còn học biết bằng qua những âu lo vô ích và sống đời sám hối,
mỗi người phải biết vâng phục để trở nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên
Chúa. Đức Kitô đã không đến trong kiêu sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực.
Vậy phải nên thánh và tín thác cho Chúa.
Chỉ một bức thư này còn quan trọng trong sự thật vượt xa mọi truyện thần thoại.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 28/2/2007 –
Bài Giáo Lý 32 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Trong mấy tháng qua, chúng ta đã suy niệm về những hình ảnh của từng vị tông đồ và là những vị chứng nhân tiên khởi của đức tin Kitô Giáo, những vị được đề cập tới trong các bản văn Tân Ước. Giờ đây, chúng ta quay sang các vị Tông Giáo Phụ , tức đến thế hệ thứ nhất và thứ hai của Giáo Hội sau các tông đồ. Nhờ đó chún g ta có thể thấy được cách thức Giáo Hội bắt đầu tiến bước trong lịch sử.
Thánh Clêmentê, Giám Mục Rôma trong những năm cuối cùng của thế kỷ thứ nhất, là vị thừa kế thứ ba của Thánh Phêrô, sau Đức Linus và Đức Anacletus. Chứng từ quan trọng nhất về đời sống của ngài được Thánh Irênê là giám mục Lyon viết mãi vào năm 202. Vị giám mục này cho rằng Thánh Clêmentê ‘đã từng thấy các vị tông đồ… đã được gặp gỡ các vị ấy’, và ‘vẫn còn văng vẳng bên tai giáo huấn của các vị, và vẫn còn thấy trước mắt truyền thống của các vị’ (Adv. Haer. 3,3,3). Những chứng từ sau này, giữa thế kỷ thứ bốn và thứ sáu, thì qui tước hiệu tử đạo cho Thánh Clêmentê.
Thẩm quyền và thế giá của vị Giám Mục Rôma này như vậy nên có một số bản văn được qui về cho ngài, thế nhưng chỉ có một bản văn chắc chắn là Bức Thư gửi cho Giáo Đoàn Côrintô.
Giáo phụ Eusebius thành Caesarea, một đại ‘lưu trữ viên’ của những gốc tích Kitô Giáo, đã trình bày về bức thư này bằng những lời lẽ như sau: ‘Một bức thư duy nhất của Đức Clêmentê đã được gửi xuống cho chúng ta được công nhận là chân thực, trọng đại và tuyệt vời. Bức thư này được ngài viết nhân danh Giáo Hội Rôma gửi cho Giáo Hội ở Côrintô… Chúng ta biết rằng qua một thời gian dài, và cho tới cả ngày nay nữa, bức thư n ày được công khai đọc trong những cuộc tái hợp của tín hữu’ (Hist. Eccl. 3,16).
Một đặc tính hầu như có tính cách giáo luật được qui cho bức thư này. Ở đầu bản văn ấy, được viết bằng tiếng Hy Lạp, Đức Clêmentê xin lỗi nếu ‘những biến cố phức tạp và tai hại’ (1:1) đã xẩy ra vì một cuộc can thiệp chậm chạp. Những ‘biến cố’ ấy có thể được đồng hóa với cuộc bách hại của Domitian; bởi thế, ngày tháng của bức thư này được viết vào thời điểm ngay sau cái chết của vị hoàng đế ấy và trước khi chấm dứt cuộc bách hại, tức là ngay sau năm 96.
Việc can thiệp của Đức Clêmentê – chúng ta vẫn còn ở thế kỷ thứ nhất – được kêu gọi thực hiện vì những vấn đề trầm trọng Giáo Hội Côrintô đang trải qua; thật vậy, các vị linh mục của cộng đồng này đã bị loại trừ bởi một số thành phần trẻ trung mới tạo được uy thế. Biến cố đau thương này một lần nữa được ghi nhớ bởi Thánh Irênê, vị đã viết rằng: ‘Dưới thời Đức Clêmentê, xẩy ra một cuộc xung khắc trầm trọng giữa các người anh em ở Corintô, Giáo Hội Rôma đã gửi cho giáo đoàn Côrintô một bức thư rất quan trọng để hòa giải họ trong an bình, để canh tân đức tin của họ và để loan báo một truyền thống họ đã lãnh nhận còn rất mới mẻ từ các vị tông đồ’ (Adv. Haer. 3,3,3).
Bởi thế, chúng ta có thể nói rằng bức thư này là việc hành sử lần đầu tiên của một Vị Giáo Chủ ở Rôma sau cái chết của Thánh Phêrô. Bức thư của Thánh Clêmentê đã đụng chạm tới những đề tài thân thương với Thánh Phaolô, vị đã viết hai bức thư quan trọng cho giáo đoàn Côrintô, nhất là về vấn đề biện chứng thần học, bao giờ cũng thích hợp, giữa biểu thị của việc cứu độ và trách nhiệm dấn thân về luân lý.
Trước hết là việc công bố ơn cứu độ. Chúa thấy được là chúng ta cần gì và ban ơn tha thứ cho chúng ta, ban cho chúng ta tình yêu của Người, ban cho chúng ta ơn được làm người Kitô hữu, làm anh chị em của Người. Đó là điều rao giảng làm cho cuộc đời chúng ta hân hoan và giúp cho các hoạt động của chúng ta được vững chắc. Chúa Kitô luôn thấy được là các hành động của chúng ta cần đến sự thiện hảo của Người và sự thiện hảo của Chúa bao giờ cũng lớn hơn tất cả mọi tội lỗi của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải quyết tâm một cách gắn bó với tặng ân chúng ta được lãnh nhận ấy và đáp lại việc loan truyền ơn cứu độ bằng một đường lối quảng đại và can trường hướng tới việc hoán cải. So sánh với mô thức của Thánh Phaolô, thì cái mới mẻ là ở chỗ, tiếp theo sau phần tín lý và phần thực hành Thánh Clêmentê, có ‘một lời nguyện cầu long trọng’ để kết thúc bức thư một cách cụ thể.
Dịp trực tiếp của bức thư này đã tạo cơ hội cho vị Giám Mục Rôma để can thiệp một cách sâu rộng vào vấn đề căn tính của Giáo Hội và sứ vụ của Giáo Hội. Thánh Clêmen tê ghi nhận là nếu có những c huyện lạm dụng xẩy ra ở Côrintô thì lý do cần phải lưu ý tới đó là ở tình trạng yếu kém về đức ái và những nhân đức cần thiết của Kitô Giáo. Đó là lý do tại sao ngài đã kêu gọi tất cả mọi tín hữu hãy sống khiêm nhượng và yêu thương huynh đệ, hai nhân đức thật sự là căn bản để làm phần tử của Giáo Hội. Ngài nói: ‘Chúng ta là phần thể của Đấng Thánh, nên chúng ta hãy làm tất cả những gì liên quan tới thánh thiện’ (30:1).
Đặc biệt vị Giám Mục Rôma này còn nhắc lại rằng chính Chúa Kitô, ‘Người muốn những điều ấy được thực hiện ở đâu và bởi ai, thì chính Người đã ấn định theo ý muốn tối cao của Người, để tất cả mọi sự, được thực hiện một cách đạo hạnh theo sở thích tốt lành của Người, đáng được Người chấp nhận…. Vì những việc phục vụ đặc biệt của Người là những gì được bổ nhiệm cho vị thượng tế, và nơi chốn thích hợp của những việc phục vụ ấy được qui định cho các vị linh mục, và những thừa tác vụ đặc biệt của những việc ấy được trao cho thành phần Lêvi. Thành phần giáo dân, theo luật, có trách nhiệm đối với những gì thuộc giáo dân’ (40:1-5: xin lưu ý là ở đây, trong bức thư từ cuối thế kỷ thứ nhất này, lần đầu tiên văn chương Kitô Giáo có chữ Hy Lạp ‘laikós’, mang ý nghĩa là ‘phần tử của vương quốc’, tức là thành phần ‘dân Chúa’).
Như thế, khi qui chiếu về phụng vụ của dân Yến Duyên, Thánh Clêmentê cho thấy lý tưởng của ngài về Giáo Hội. Đó là một cuộc qui tụ bởi ‘một thần linh ân sủng được đổ xuống trên chúng ta’, cho thấy, qua các phần tử khác nhau của Thân Mình Chúa Kitô, tất cả được liên kết bất phân đều là ‘phần tử của nhau’ (46:6-7).
Việc phân biệt rõ ràng giữa thành phần ‘giáo dân’ và phẩm trật dù sao cũng không có nghĩa là một cái gì đó tương phản mà chỉ là một liên hệ theo cơ cấu của một thân thể, của một tổ chức có những phần hành khác nhau. Thật vậy, Giáo Hội không phải là một nơi hỗn độn và vô chủ, nơi mà ai muốn làm gì thì làm vào bất cứ lúc nào, mỗi người trong cơ cấu có lớp lang này thực hành thừa tác vụ của mình theo ơn gọi được nhận lãnh.
Liên quan tới thành phần lãnh đạo của các cộng đồng, Thánh Clêmentê xác định rõ về tín lý của việc kế thừa tông đồ. Những luật lệ chi phối điều này đều xuất phát từ chính Thiên Chúa một cách tối hậu. Chúa C ha sai Chúa Giêsu Kitô, Đấng đến phiên mình thì sai các vị tông đồ. Rồi những vị này sai thành phần thủ lãnh đầu tiên của các cộng đồng, và đã ấn định rằng họ cần phải được những con người xứng đáng tuân theo. Bởi thế, tất cả mọi sự được tiến triển ‘một cách lớp lang, theo ý muốn của lời Chúa’ (42).
Với những lời này, với những câu ấy, Thánh Clêmentê muốn nhấn mạnh rằng Giáo Hội có một cấu trúc bí tích, chứ không phải là một cấu trúc chính trị. Các tác động của Thiên Chúa vươn tới chúng ta trong phụng vụ là những gì đi trước các quyết định và các ý nghĩ của chúng ta. Giáo Hội trước hết là một tặng ân của Thiên Chúa chứ không phải là một sản phẩm của chúng ta, bởi thế cấu trúc bí tích này chẳng những bảo đảm được trật tự chung mà còn là những gì tiền dẫn đến tặng ân của Thiên Chúa tất cả chúng ta cần đến.
Sau hết, ‘lời nguyện long trọng’ cống hiến một thứ hít thở vũ trụ cho việc bàn luận trước đó. Thánh Clêmentê ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa về sự quan phòng yêu thương cao cả của Ngài, Đấng đã tạo dựng nên thế giới và tiếp tục cứu thế giới và chúc lành cho thế giới. Lời kêu cầu cho cơ cấu cai quản cũng được đặc biệt chú trọng. Sau các bản văn Tân Ước thì đây là lời cầu nguyện cổ kính nhất cho các tổ chức chính trị. Bởi thế, khi mới có việc bách hại, Kitô hữu, quá rõ là các cuộc bắt bớ sẽ tiếp tục xẩy ra, đã không thôi nguyện cầu cho chính những vị thẩm quyền đã lên án họ một cách bất chính.
Động lực ấy trước hết có tính cách Kitô học, đó là con người cần phải nguyện cầu cho thành phần bách hại mình, như Chúa Giêsu đã làm trên cây thập giá. Thế nhưng, lời cầu nguyện ấy cũng chất chứa một giáo huấn, qua giòng lịch sử, hướng dẫn thái độ của Kitô hữu trước các hoạt động chính trị và quốc gia.
Trong việc nguyện cầu cho các vị thẩm quyền, Thánh Clêmentê nhìn nhận tín h cách hợp lý của các cơ cấu chính trị theo trật tự được Thiên Chúa ấn định. Đồng thời ngài cũng bày tỏ mối quan tâm của ngài về việc những thẩm quyền này phải làm sao để dễ dạy đối với Thiên Chúa và ‘hành sử quyền hành được Chúa ban trong an bình và nhân ái xót thương’ (61:2).
Cêsa không phải là tất cả. Còn có một chủ quyền khác, mà nguồn gốc và yếu tính của nó không thuộc về thế giới này, mà là ‘từ trên cao’: đó là thẩm quyền của Sự Thật, một sự thật có quyền được lắng nghe cũng như có quyền đối chất với quốc gia.
Như thế, bức thư của Thánh Clêmentê nêu lên nhiều đề tài vẫn còn thực hữu. Điều này càng có ý nghĩa hơn, vì nó tiêu biểu, từ thế kỷ thứ nhất, mối quan tâm của Giáo Hội Rôma, một Giáo Hội chủ sự trong đức ái đối với tất cả mọi giáo hội khác.
Theo cùng tinh thần ấy, chúng ta thực hiện những lời cầu khẩn của chúng ta như ‘lời nguyện trọng đại’ này, nơi vị Giám Mục Rôma trở thành tiếng nói cho toàn thế giới, ‘vâng, lạy Chúa, xin chiếu tỏa dung nhan Chúa trên chúng con cho thiện ích trong an bình, để chúng con được bàn tay quyền năng của Chúa bao che… chúng con ca ngợi Chúa qua vị thượng tế và là vị bảo hộ linh hồn của chúng con là Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà vinh quang và uy nghi được qui về Chúa bay giờ và qua mọi thế hệ cho tới muôn đời. Amen’ (60-61).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ
biến ngày 7/3/2007
Ngày 24 tháng 11 - Thứ Hai
THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC VÀ CÁC BẠN, TỬ ĐẠO
Lễ trọng ở Việt Nam
Hôm nay, phụng vụ kính nhớ 117 chứng nhân tử đạo Việt Nam. Các vị đã được tôn phong chân phước trong bốn đợt : Năm 1900, đức giáo hoàng Lê-ô XIII tôn phong 64 vị ; đức giáo hoàng Pi-ô X tôn phong 8 vị năm 1906 và 20 vị năm 1909. Năm 1951, đức giáo hoàng Pi-ô XII tôn phong 25 vị. Tất cả 117 vị đều được đức giáo hoàng Gio-an Phao-lô II tôn phong hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988.
Trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, kể từ lúc Tin Mừng bắt đầu được loan báo tại Việt Nam, thế kỷ XVI, cho đến cuộc bách hại khốc liệt thế kỷ XIX, đã có nhiều chứng nhân anh dũng cả người Âu lẫn người Việt hy sinh thân mình vì Chúa Ki-tô.
Hồ sơ phong thánh và Các Giờ Kinh Phụng Vụ đặc biệt chú ý đến các tên tuổi sau : Người Việt Nam : thánh An-rê Dũng Lạc, linh mục (+ 1839), thánh Tô-ma Trần Văn Thiện, chủng sinh (+ 1838), thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh, linh mục (+ 1857), thánh Em-ma-nu-en Lê Văn Phụng, giáo lý viên và người cha trong gia đình (+ 1859). Các tu sĩ Đa-minh người Tây Ban Nha, thuộc Tỉnh Dòng Mân Côi : thánh Giê-rô-ni-mô Héc-mô-xi-la Liêm, giám quản tông toà địa phận Đông đàng ngoài (+ 1861), thánh Va-len-ti-nô Be-ri-ô Ô-choa, giám mục (+ 1861) và một vị người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Pa-ri, thánh Tê-ô-phan Vê-na (+ 1861).


Các vị tử đạo được thông phần
cuộc chiến thắng của Đầu là Đức Ki-tô
Trích thư của thánh Phao-lô Lê Bảo Tịnh gửi các chủng sinh chủng viện Kẻ Vĩnh năm 1843.
Tôi là Phao-lô, đang bị xiềng xích vì Đức Ki-tô. Tôi muốn nói cho anh em biết những gian truân tôi đang chịu hằng ngày, để anh em được cháy lửa yêu mến Chúa mà hợp với tôi dâng lời ca ngợi Thiên Chúa : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Ngục thất này quả là một hình ảnh sống động của hoả ngục đời đời : ngoài gông cùm, xiềng xích, dây thừng, lại còn thêm sự nóng giận, oán thù, nguyền rủa, những lời tục tĩu, những sự gây gỗ, những hành vi xấu xa, những lời thề gian, nói hành, và cả nỗi chán nản, buồn phiền, cả ruồi muỗi rận rệp.
Nhưng Đấng đã giải thoát ba người thanh niên khỏi ngọn lửa bừng bừng vẫn luôn ở cùng tôi ; Người cũng đã giải thoát tôi khỏi những sự khốn khó này bằng cách làm cho trở nên ngọt ngào : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan, bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức Ki-tô ở cùng tôi. Người là Thầy của chúng ta, Người mang tất cả sức nặng của thập giá, chỉ để cho tôi đỡ phần nhẹ nhất. Người không chỉ nhìn tôi chiến đấu, mà chính Người đang chiến đấu và chiến thắng. Vì thế, triều thiên vinh quang đã được đặt trên đầu Người, nhưng chi thể cũng được hân hoan vì vinh quang của đầu.
Lạy Chúa, làm sao con sống nổi khi hằng ngày con thấy quan quyền và thuộc hạ nói phạm đến thánh danh Chúa, Đấng ngự trên các thần kê-ru-bim và xê-ra-phim ? Kìa thập giá của Chúa bị kẻ ngoại chà đạp dưới chân ! Còn đâu là vinh quang Chúa ? Chứng kiến tất cả cảnh này, vì cháy lửa yêu mến Chúa, con thà chịu chết và chịu phân thây để chứng tỏ lòng con yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin tỏ cho con thấy quyền năng của Chúa, xin cứu giúp con, để trong sự yếu đuối của con, sức mạnh của Chúa được biểu lộ và tôn vinh trước mặt thế gian, kẻo những thù địch của Chúa lên mặt vì thấy con bị lung lạc.
Khi nghe biết những điều này, anh em hãy vui mừng dâng những lời tạ ơn bất tận lên Thiên Chúa là Đấng ban mọi ơn lành, và hãy cùng tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa yêu thương ta đến muôn đời. Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tôi tớ ; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi có phúc : Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa ; ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người, vì Thiên Chúa đã chọn cái yếu đuối để hạ nhục cái mạnh mẽ, chọn cái hèn mạt để triệt phá cái cao sang. Thần Khí Chúa đã dùng miệng lưỡi tôi để hạ nhục những người khôn ngoan của thế gian, vì Chúa yêu thương ta đến muôn đời.
Tôi viết cho anh em những điều này để chúng ta hợp nhất với nhau trong đức tin. Giữa cơn bão táp này, tôi đã thả một cái neo vào tận ngai Thiên Chúa : đó là niềm hy vọng luôn sống động trong lòng tôi.
Anh em thân mến, hãy chạy đua thế nào để đạt được triều thiên ; hãy cầm khí giới của Thiên Chúa bên phải và bên trái, hãy mặc áo giáp là đức tin, như thánh Phao-lô quan thầy của tôi đã dạy. Thà chột mắt cụt chân mà được vào Nước Trời, còn hơn lành lặn mà bị ném ra ngoài.
Anh em hãy giúp đỡ tôi bằng lời cầu nguyện, để tôi chiến đấu hợp lệ, để tôi chiến đấu đến cùng trong cuộc chiến đấu cao cả, và kết thúc tốt đẹp cuộc chạy đua.
Nếu chúng ta không còn được gặp nhau ở đời này, thì ở đời sau chúng ta sẽ được hạnh phúc gặp nhau mãi mãi : Chúng ta sẽ đứng trước ngai của Con Chiên tinh tuyền, và hân hoan ca tụng tôn vinh Người muôn đời. A-men.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhậm lời các ngài chuyển cầu mà cho chúng con biết noi gương các ngài để lại : luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin
Ngày 25/11 - Thứ Ba
Thánh nữ Catarina thành Alexandria, Đồng trinh Tử đạo

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ.
Thánh Catarina Alexandria là một trong những vị thánh được nhiều người sùng bái.Theo truyền tụng thì ngài thuộc dòng dõi quí tộc, sinh tại Alexandria, xứ Ai cập, dưới thời quân Roma cai trị xứ này.
Thánh nữ Catarina sống vào thời Giáo hội sơ khai. Ngài là con gái của một gia đình dân ngoại giàu có ở thành Alêxanđria, nước Ai Cập. Thánh nữ là một cô gái rất xinh đẹp và rất ham thích việc học hành. Catarina Alêxanđria say mê nghiên cứu những vấn nạn sâu xa của triết học và tôn giáo. Một ngày kia, thánh nữ Catarina Alêxanđria bắt đầu đọc các sách viết về Kitô giáo. Và chẳng bao lâu, Catarina Alêxanđria trở thành Kitô hữu.
Khi Catarina Alêxanđria được 18 tuổi thì hoàng đế Maxentiô bắt đầu bách hại các Kitô hữu. Catarina rất mực can đảm, đã đến nói cho nhà vua biết về sự độc ác của ông. Khi ông vua này bàn về các tà thần, Catarina đã minh nhiên chỉ cho ông thấy các thần ấy là giả tạo. Maxentiô không thể lý giải được các vấn nạn của Catarina; và vì thế, ông đã triệu vời 50 triết gia ngoại giáo tài giỏi nhất trong nước đến để đối phó với Catarina. Một lần nữa, Catarina lại làm sáng tỏ chân lý của đạo Công giáo. Tất cả 50 triết gia này đều phải công nhận rằng Catarina có lý. Vua Maxentiô hết sức tức giận, đã cho lính giết chết từng người trong họ. Sau đó, ông cố gắng chinh phục Catarina bằng cách tặng cho Catarina chiếc vương miện hoàng hậu. Khi biết Catarina nhất mực từ chối, ông liền sai quân lính đánh đòn và tống giam Catarina vào ngục.
Đang lúc Maxentiô cắm trại ở nơi xa, vợ ông và một viên sĩ quan đã tò mò đến nghe cô bé Kitô hữu lạ lùng này thuyết giảng. Họ đã tới bên phòng giam của Catarina. Kết quả là họ cùng 200 lính canh khác đã được ơn trở lại. Khi biết chuyện này, Maxentiô tức giận và lên án tử tất cả. Bản thân Catarina thì bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình. Thế nhưng khi bánh xe bắt đầu quay, thì lạ lùng thay, nó cứ bị bật ra. Sau cùng, Catarina Alêxanđria bị trảm quyết. Thánh nữ được tôn tặng danh hiệu là Thánh bổn mạng của các triết gia Công giáo.
Thánh nữ Catarina Alêxanđria đã yêu quí niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do thánh nữ có thể thuyết phục cách hiệu quả những người khác tôn giáo cùng tin theo đạo. Chúng ta hãy nài xin Thánh nữ Catarina Alêxanđria giúp chúng ta tăng triển lòng yêu mến đối với các chân lý đức tin như ngài.(Theo tinmung.net)
II. BÀI HỌC.
Bài học chúng ta họ được ở đây là Catarina đã chọn Chúa và khi đã chọn Chúa rồi thì mọi sự ở trần gian đều không còn giá trị .
Catarina được Chúa ban cho một sắc đẹp hiếm có trên đời. Chính sắc đẹp ấy đã làm cho vua Maxentiô khi nhìn vào đã đem lòng say đắm. Vua đã hứa bỏ ngay người vợ đang chung sống với ông như một hoàng hậu nếu Catarina bằng lòng lấy ông. Ông cũng hứa sẵn sàng tôn vinh Catarina lên ngôi hoàng hậu để cùng ông chung sống. Thế nhưng Catarina đã can đảm khước từ. Lý do vì ngài đã thuộc trọn về Chúa.
Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới ngày 07-03-2012 : Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Hollywood, tiến bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012. Vì mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is bigger Elvis). Năm nay mẹ Dolores đã 73 tuổi, tu Dòng Kín Đan Viện Biển Đức Regina Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.
Vào năm 1957, minh tinh Dolores ở tuổi 21,đã đóng nhiều phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở đỉnh cao danh vọng, vì Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời ký hợp đồng đóng phim lên tới hàng triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng bạc triệu, và từ bỏ hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald John Robinson đã hết lòng yêu Dolores. ông Donald là một trong những người thắc mắc nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phới một cách dễ dàng không vương vấn, không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald cũng không thể lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay sau khi họ vừa làm lễ đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu! Ông Donald đã không thể tin ở tai của mình, vì thấy Dolores vân tiếp tục đi đóng phim bình thường, ông không hề ngờ rằng ơn kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi 21, và sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores kể lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô yêu quý. Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu, là những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực !
Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có thể thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại di chúc hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài lực mà phục vụ công ích,
Ai cũng phải khâm phục mối tình của Dolores và Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất cho Chúa: một người thì trung thành với lời khấn độc thân trọn đời trong bậc tu trì; một người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta được ơn trung thành với Chúa suốt cả cuộc đời mình đồng thời cũng biết dùng cuộc đời mình mà rao giảng về tình yêu thương của Chúa cho tất cả mọi người. Amen.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-25-11-thanh-catarina-alexandria-43943
