SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 

Mùa Vọng Năm A Tuần III 

Hạnh Thánh Trong Tuần
(Sau phần PVLC)
 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 35, 1-6a. 10

"Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ chúng tôi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta.

Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.

Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10

Ðáp: Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con (x. Is 35, 4).

Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục. Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gc 5, 7-10

"Hãy vững lòng, vì Chúa gần đến".

Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.

Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa. Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Is 61, 1 (x. Lc 4, 12)

Alleluia, alleluia! - Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 11, 2-11

"Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".

Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: "Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: "Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con". Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông".

Ðó là lời Chúa.

 

 


Suy niệm

 

Chính Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng trông đợi được Chúa Kitô cứu độ


Chủ đề chung Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" lại càng hiện tỏ hơn vào Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay là thời điểm Chúa gần đến, như phụng vụ hôm nay của Giáo Hội mang một mầu hồng tươi vui chứ không còn mầu tím xám hối nữa.

Đúng thế, ngay trong Tuần Ba Mùa Vọng này, Giáo Hội sẽ bắt đầu tuần bát nhật trước Giáng Sinh, từ ngày 17 đến hết 24 tháng 12, một thời điểm với những bài Phúc Âm trực tiếp liên quan đến mầu nhiệm nhập thể thần linh và sự kiện giáng sinh lịch sử của Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế.

Bởi vậy, Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng hôm nay đây chẳng khác gì như một dạo khúc về mầu nhiệm thần linh và sự kiện giáng sinh lịch sử "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng sắp đến với dân của Chúa là thành phần đang trông đợi (thậm chí cho đến bây giờ) Người đến như một Vị Thiên Sai Cứu Độ.

Đó là lý do chúng ta thấy Bài Đọc 1 và 2, kể cả bài Đáp Ca đều có nội dung hân hoan vui mừng và đều kêu gọi dân Chúa hãy vui lên. 

Bài Đọc 1 hôm nay Tiên Tri Isaia đã cho thấy một bầu khí hãy vui lên tràn đầy hy vọng như sau:  

"Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta.... Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa".

Bài Đáp Ca hôm nay Thánh Vịnh gia cũng đã vang lên niềm hân hoan bằng lòng xác tín tin tưởng của mình về một Vị Thiên Chúa cứu độ như thế này: 

 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.

2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục. Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.

3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.  

Bài Đọc II Thánh Giacôbê Tông Đồ, theo chiều hướng của Bài Đáp Ca, đồng thanh kêu gọi dân Do Thái hãy tin tưởng chờ đợi Vị Thiên Chúa cứu độ đã đến nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng "sẽ xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28): "Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến". 

Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến chính bản thân của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đang ngồi trong tù sai các môn đệ hỏi Chúa Giêsu là Đấng ngài đã loan báo đến sau ngài nhưng cao trọng hơn ngài, rằng "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?" Qua câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của vị tiền hô này rằng "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó", Người chẳng những chứng tỏ rằng Người quả thật đúng như những gì vị tiền hô đã làm chứng, là Đấng đúng như Thánh Vịnh gia và các vị tiên tri đã nói đến, như được thấy ngay trong Bài Đọc I và Bài Đáp Ca hôm nay, mà còn củng cố đức tin cho chính vị tiền hô này nữa, khi ngài "ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô", nhưng cảm thấy hình như cũng chẳng cao trọng hay quyền năng hơn ngài gì hết. Đó là lý do ở cuối câu trả lời của mình, Chúa Giêsu đã cảnh giác như thế này: "phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".

Chắc là nhờ lời chứng của Chúa Kitô này mà Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã kiên trung cho đến cùng, đã tiếp tục làm chứng cho Chúa Kitô là "chân lý" (Gioan 14:6) bằng chính cái đầu của mình, và cái chết mất đầu của ngài đã ám chỉ cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đầu của ngài, Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn ngài, nhờ đó ngài được nên giống Chúa Kitô hơn ai hết.

Thật vậy, nếu ngay từ ban đầu, khi vừa mới được cưu mang trong lòng thai mẫu 6 tháng, vị tiền hô này đã được Chúa Kitô mang ơn cứu độ đến cho ngài, nên ngài đã hân hoan nhẩy mừng trong lòng mẹ thế nào (xem Luca 1:41), thì trước khi chết, ngài cũng được Chúa Kitô mang ơn cứu độ đến cho ngài như vậy, bằng chính chứng từ của Người, giúp ngài thêm tin tưởng vào Đấng đến sau.

Không biết Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả có nghĩ rằng nếu nhân vật Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến sau cao trọng và quyền năng hơn mình mà tại sao không ra tay cứu ngài khỏi bị ngục tù hay chăng, nhưng quả thực Chúa Kitô đã cứu ngài thoát khỏi ngục tù ngờ vực bằng chính lời của Người trong bài Phúc Âm hôm nay. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã đóng vai trò "quan toà đã đứng trước cửa" ngục thất của vị tiền hô, như Tông Đồ Giacôbê đã đề cập đến trong Bài Đọc II hôm nay.

 Việc Chúa Kitô củng cố niềm tin cho Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đang cảm thấy bối rối về chính Đấng đến sau ngài cũng nên trọn những lời tiên tri Isaia trong Bài Đọc I hôm nay về chung dân Do Thái, trong đó bao gồm cả chính bản thân của vị tiền hô này, như trong Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi".

Nhờ được Chúa Kitô củng cố đức tin cho Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chẳng những tiếp tục sứ vụ làm chứng cho Đấng đến sau ngài bằng mạng sống của ngài mà còn nhờ đó ngài củng cố đức tin cho chung những ai đã đến lãnh nhận phép rửa của ngài ở Sông Jordan cũng như cho riêng thành phần môn đệ của ngài, nhờ đó, với tư cách là một vị tiên tri, vị tiên tri đệ nhất trong các tiên tri, ngài mới xứng đáng trở thành gương mẫu như Tông Đồ Giacôbê đã nêu lên trong Bài Đọc II hôm nay: "Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa".

Như thế, chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước Chúa Kitô để dọn đường của Người và cho Người cũng sống trong niềm tin tưởng của Mùa Vọng đợi trông. Tuy ngài đã được tận mắt thấy Đấng đến sau ngài, đã làm chứng về Đấng ấy, và đã làm phép rửa cho Người, theo ơn gọi và sứ vụ tiền hô của mình, nhưng tự bản thân của mình, ngài vẫn phải sống đức tin, bất khả châm chước, như chính Đức Maria Mẹ Chúa Kitô đầy ơn phúc đã phải trải qua cuộc sống đức tin, hay như các tông đồ được sống ngay bên cạnh Chúa Kitô cũng bị thử thách đức tin, một đức tin liên quan đến chính thực tại thần linh nơi nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, tức đến chính sự thật về con người Giêsu Nazarét này, một sự thật đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở trong tù đặt lại vấn đề: "Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?", một sự thật đã được vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô tuyên xưng vô cùng chính xác: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nhưng vị này vẫn chối bỏ Người 3 lần, một sự thật cuối cùng đã được Tông Đồ Toma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh từ trong cõi chết "là Chúa và là Thiên Chúa" (Gioan 20:28), nhưng là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta - Emmanuel.

 

 

 

 

Thứ Hai


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ds 24, 2-7. 15-17a

"Ngôi sao từ nhà Giacóp mọc lên".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, Balaam ngước mắt lên nhìn Israel cắm trại theo từng bộ lạc, và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên ông, ông liền tuyên sấm và nói: "Lời sấm của Balaam, con ông Beor, lời sấm của người đang mở mắt; lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người chiêm ngắm Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Hỡi nhà Giacóp, doanh trại của ngươi đẹp biết bao! Hỡi Israel, chỗ cư ngụ của ngươi tốt dường nào! Nó rộng lớn như thung lũng, như những vườn bên dòng sông, như cây trầm hương mà Thiên Chúa đã trồng, như cây hương nam bên suối nước. Nước tràn ra khỏi thùng chứa, và hạt giống của ngươi được tưới dư dật. Vua ngươi sẽ trổi vượt Agag, và vương quốc ngươi sẽ uy hùng".

Balaam lại tuyên sấm và nói: "Lời sấm của Balaam, con của Beor, lời sấm của người đang mở mắt, lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người biết ý nghĩ Ðấng Tối Cao, của người xem thấy hình ảnh Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Tôi thấy Người, chưa phải bây giờ. Tôi thấy Người không phải gần. Một ngôi sao từ Giacóp mọc lên. Một phủ việt từ Israel xuất hiện".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa (c. 4b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Chúa đến, hãy ra đón Người; chính Người là Hoàng tử Bình an. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 21, 23-27

"Phép rửa của Gioan bởi đâu mà có?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: "Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?" Chúa Giêsu trả lời: "Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?" Họ bàn tính với nhau rằng: "Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri". Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không được biết". Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó".

Ðó là lời Chúa.

 

 

RESONAR DE LA PALABRA Evangelio según San Mateo 21,23-27.

 

 

Suy niệm

 

nhập thể chứng từ


   

Hôm nay, Thứ Hai Mùa Vọng Tuần Thứ Ba, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại lời đối đáp giữa "các trưởng tế và kỳ lão trong dân" hỏi Chúa Giêsu trong "đền thờ" về thẩm quyền của Chúa Kitô, Đấng vừa ra tay đánh đuổi thành phần dân chúng buôn bán trong đền thờ, và cả câu Người trả lời họ.

 

"Khi ấy Chúa Giêsu vào Ðền thờ. Lúc Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đến hỏi Người rằng: 'Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?' Chúa Giêsu trả lời: 'Tôi cũng hỏi các ông một điều. Nếu các ông trả lời cho tôi, thì tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó. - Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?' Họ bàn tính với nhau rằng: 'Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri'. Bấy giờ họ trả lời Chúa Giêsu rằng: 'Chúng tôi không được biết'. Chúa Giêsu nói với họ: 'Tôi cũng không nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều đó'".

 

Ở đây, chúng ta không bàn đến những chi tiết nào khác ngoài chi tiết liên quan đến Mùa Vọng cũng là chi tiết liên quan tới chính bản thân của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng như đến phép rửa của ngài được Chúa Giêsu nhắc đến trong câu vừa trả lời vừa chất vấn của Người.

 

Tại sao Chúa Giêsu lại nhắc đến Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người ở đây, trong trường hợp này, liên quan đến thẩm quyền thanh tẩy đền thờ của Người, và vào thời điểm sắp sửa xẩy ra biến cố Vượt Qua của Người? Vẫn biết, để chứng tỏ mình là ai và từ đâu đến, Chúa Giêsu chỉ cần chứng từ bởi trời là Cha của Người qua những việc Người làm cũng đủ và mới chính xác, chứ không cần đến chứng từ của loài người là Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này, như Người đã khẳng định cùng dân Do Thái như thế:


"Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian. Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi".


Đúng vậy, chỉ vì lợi ích của chính thành phần lãnh đạo trong dân chất vấn Người mà Chúa Giêsu đã lấy chính chứng từ loài người để nhắc nhở họ, vì chính họ biết rằng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả không phải là "
Đức Kitô" mà là Đấng đến sau ngài, như chính vị tiền hô này
 đã chẳng những minh định mà còn chỉ cho dân chúng (bao gồm cả họ trong đó) thấy: "Kìa, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29). 

Chúa Giêsu còn nhắc nhở họ về việc họ đã từng tìm đến tận nơi ở và gặp tận mặt Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này: "Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật", như chính Thánh ký Gioan ghi lại về sự kiện không thể chối cãi này như sau: 

"Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: 'Ông là ai?' Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: 'Tôi không phải là Đấng Ki-tô'. Họ lại hỏi ông: 'Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?' Ông nói: 'Không phải'. - 'Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?' Ông đáp: 'Không'. Họ liền nói với ông: 'Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?' Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. Họ hỏi ông: 'Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?' Ông Gio-an trả lời: 'Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người'. Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa".

Qua câu vấn đáp giữa họ và vị mà họ tưởng là Đức Kitô, họ đã nghe chính miệng của vị này tuyên bố về tính chất trần gian nơi phép rửa của mình - "phép rửa trong nước", so với Đấng thẩm quyền hơn ngài nhưng đến sau ngài là Đấng "đang ở giữa các ông mà các ông không biết". 

Lời của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi thành phần lãnh đạo dân Do Thái này, ngay lúc bấy giờ, lúc Chúa Kitô vừa trả lời vừa chất vấn họ và gợi ý cho họ về bản thân Người, về Đấng được Tiền Hô Gioan Tẩy Giả nói đến, có thẩm quyền hơn cả ngài mà họ không biết, cho dù ngay lúc ấy Người đã tỏ uy quyền của Người ra trước mắt họ bằng việc đánh đuổi dân chúng bán buôn trong đền thờ linh thiêng, một hành động có tính cách thanh tẩy, như Người vừa làm phép rửa để tẩy sạch tất cả những gì là trần tục nhơ nhớp nơi dân của Người nói chung cũng như nơi đền thờ bị họ làm ô uế nói riêng, một hành động như thể báo trước về chính phép rửa Người sắp phải lãnh nhận nơi cuộc Vượt Qua của Người. 

Tuy nhiên, dầu sao thì họ vẫn có thiện chí tìm kiếm chân lý, cho dù chưa nhận ra chân lý, bởi thành kiến trần gian và khả năng thiển cận của họ. Bởi thế, Chúa Giêsu mới tiếp tục dùng hết cách để tỏ mình ra cho họ, và bởi thế họ mới cần được Người cứu độ. 

Câu hỏi của thành phần lãnh đạo trong dân về thẩm quyền của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay, ở một khía cạnh nào đó và một nghĩa nào đó, cũng cho thấy họ đang tìm kiếm chân lý và mong đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đã được mạc khải Cựu Ước tiên báo qua nhiều hình thức, bao gồm cả "lời sấm của Balaam" là một tiên tri dân ngoại, được sai đến để nguyền rủa dân Do Thái nhưng lại nói tiên tri ám chỉ về Đức Kitô

"Lời sấm của Balaam, con ông Beor, lời sấm của người đang mở mắt, lời sấm của người nghe lời Thiên Chúa, của người biết ý nghĩ Ðấng Tối Cao, của người xem thấy hình ảnh Ðấng Toàn Năng, của người ngã mà mắt vẫn mở. Tôi thấy Người, chưa phải bây giờ. Tôi thấy Người không phải gần. Một ngôi sao từ Giacóp mọc lên. Một phủ việt từ Israel xuất hiện".

Bài Đáp Ca hôm nay thật sự là phản ảnh những gì Chúa Giêsu làm với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay, một Đấng Cứu Độ nhân từ và nhẫn nại trong việc thông cảm và dẫn dắt con người mù tối và lầm lạc về với chân lý và theo chân lý của Người:

 

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. 

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. 

 

 


 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Xp 3, 1-2. 9-13

"Chúa hứa ban ơn cứu độ cho những người nghèo khó".

Trích sách tiên tri Xôphônia.

Chúa phán: Khốn cho thành phản nghịch và ô uế, cho thành làm sự hung bạo. Nó không nghe lời, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình.

Bấy giờ Ta sẽ cho dân Ta môi miệng thanh sạch để mọi người kêu cầu danh Chúa và nhất tâm phụng sự Người. Từ phía bên kia các sông xứ Ethiôpi, con cái những kẻ tha hương kêu cầu Ta, đem lễ vật đến dâng cho Ta.

Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 6-7. 17-18. 19 và 23

Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Ngài. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện. Bạn nghèo hãy nghe và hãy vui mừng. - Ðáp.

2) Hãy nhìn về Chúa, để các bạn sẽ vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Ngài đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

3) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Ðáp.

4) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương tan nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, alleluia! - Này đây Chúa đến để cứu dân Người; hạnh phúc thay những ai sẵn sàng đón rước Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 21, 28-32

"Gioan đến và những kẻ tội lỗi tin ngài".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!" Nó thưa lại rằng: "Con không đi". Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con đi". Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất". Chúa Giêsu bảo họ: "Quả thật, Ta bảo các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài".

Ðó là lời Chúa.

 

 


Suy niệm


 

nhập thể nhận thức    


Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Mùa Vọng trong Tuần Thứ Ba hôm nay, tiếp theo ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua, vẫn liên quan đến Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả và vẫn với thành phần lãnh đạo dân do Thái.

 

Nếu trong Bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu mới đặt vấn đề với thành phần lãnh đạo trong dân này, như để gợi ý cho họ suy nghĩ, một thành phần trả lời lập lửng nửa vời như chối từ sự thật được Người gợi lên trong câu trả lời mang tính cách chất vấn của Người, và chính câu trả lời "chúng tôi không biết" của họ đã cho thấy niềm tin của họ tới đâu và ra sao.

 

Bởi thế không lạ gị Chúa Giêsu đã phải sử dụng đến một dụ ngôn nữa ám chỉ về chính họ, hy vọng họ sẽ không còn chạy quanh chối cãi về tình trạng quanh quéo giả hình của họ nữa, đó là dụ ngôn 2 người con trước ý muốn của người cha mong đứa nào của ông cũng đi làm vườn nho cho ông. 

 

"Các ông nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: 'Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn cho cha!' Nó thưa lại rằng: 'Con không đi'. Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: 'Thưa cha, vâng, con đi'. Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?'" 

 

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua câu vừa trả lời vừa chất vấn của Chúa Giêsu với thành phần lãnh đạo trong dân chúng này liên quan đến phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã gián tiếp trả lời cho họ về thẩm quyền của Người được họ hạch hỏi Người họ không muốn trả lời, thì trong bài Phúc Âm hôm nay họ đã mắc bẫy Người khi lắng nghe dụ ngôn về 2 người con được cha sai đi làm vườn nho cho cha mình: "Họ đáp: 'Người con thứ nhất'". 

 

   Thấy họ đã rơi vào bẫy sự thật để nhờ đó sự thật mới có thể giải phóng họ (xem Gioan 8:32), "Chúa Giêsu bảo họ: 'Quả thật, Tôi bảo các ông hay, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài'".

 

   Ở đây, Chúa Giêsu như nhắc nhở thành phần lãnh đạo dân Do Thái này về hiện tượng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã được chính Thánh ký Mathêu của bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ở phần đầu Phúc Âm của ngài, liên quan đến chung dân chúng, trong đó bao gồm cả "những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài" cũng như chính thành phần lãnh đạo này như sau:

 

   "Hồi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: 'Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần'. Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối...".


Căn cứ vào câu trả lời của thành phần lãnh đạo dân 
Do Thái cũng như vào câu xác nhận của Chúa Giêsu về câu trả lời đúng thật của họ, thì người con thứ nhất trong dụ ngôn hai người con được cha sai đi làm vườn nho cho ông là "những người thu thuế và gái điếm" (còn có thể bao gồm cả dân ngoại vốn bị chung dân Do Thái cho là tội lỗi - đồ bỏ), và người con thứ ám chỉ thành phần lãnh đạo dân Do Thái (bao gồm cả đa số thành phần biệt phái và luật sĩ giả hình đã bị Chúa Giêsu thậm tệ quở trách cho mà mở mắt ra - xem Mathêu nguyên đoạn 23)

Tuy Th
ánh ký Mathêu trong bài Phúc Âm hôm nay không cho biết phản ứng của thành phần lãnh đạo dân Do Thái khi bị Chúa Giêsu ghép cho họ là hạng người con thứ có vẻ làm theo ý cha của mình nơi việc giữ kỹ lề luật nhưng thật ra chỉ là giả hình, không theo tinh thần của lề luật, không đúng như ý cha mong muốn, nhưng khi họ nghe xong dụ ngôn thứ hai về thành phần tá điền gian ác bất trung ngay sau đó (xem Mathêu 21:33-44), họ mới thật sự có thái độ về cả 2 dụ ngôn như thế này: "Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ" (câu 45-46). Có nghĩa là họ vẫn mù quáng và cứng lòng!

Trong Bài Đọc 1 hôm nay, 
Thiên Chúa cũng đã dùng miệng Tiên Tri Xôphônia để nói trước về dụ ngôn 2 người con được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay. 

Trước hết, về người con thứ mù quáng bất tuân: "
Khốn cho thành phản nghịch và ô uế, cho thành làm sự hung bạo. Nó không nghe lời, không chịu sửa dạy, không tin tưởng vào Thiên Chúa, không đến gần Chúa mình". Sau đó về người con trưởng: "Bấy giờ Ta sẽ cho dân Ta môi miệng thanh sạch để mọi người kêu cầu danh Chúa và nhất tâm phụng sự Người. Từ phía bên kia các sông xứ Ethiôpi, con cái những kẻ tha hương kêu cầu Ta, đem lễ vật đến dâng cho Ta".

B
ài Đọc 1 hôm nay còn cho thấy một Vị Thiên Chúa cứu độ qua Chúa Kitô là "Con Người đến để tìm kiếm và cứu với những gì hư hoại" (Luca 19:10)  những ai thuộc thành phần người con trưởng hoang đàng nhưng biết thống hối trở về với Ngài, "một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại" như sau:

 

"Ngày đó, ngươi sẽ không còn phải xấu hổ vì các lỗi lầm của ngươi đã phạm đến Ta. Vì Ta sẽ cất xa khỏi ngươi những kẻ chiến thắng kiêu căng và từ đây, ngươi sẽ mãi mãi được vinh quang trên núi thánh Ta. Ta sẽ để lại giữa ngươi một dân tộc nghèo khó và thiếu thốn và họ sẽ tin tưởng vào danh Chúa. Những người Israel còn sót lại sẽ không làm điều gian ác, không nói dối, người ta không thấy chúng nói lời phỉnh gạt. Chúng sẽ như đàn chiên ăn cỏ và nghỉ ngơi, và sẽ không ai làm phiền chúng".

 

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa tâm tình hân hoan vui sướng của những con người cảm nghiệm thần linh về một Vị Thiên Chúa cứu độ của mình như sau:

 

1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Ngài. Trong Chúa, linh hồn tôi hãnh diện. Bạn nghèo hãy nghe và hãy vui mừng.

2) Hãy nhìn về Chúa, để các bạn sẽ vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Ngài đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. 

3) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. 

4) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương tan nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. 

 

  

 

Thứ Tư trong Tuần 3 Mùa Vọng Năm A (cuối năm 2025) là Ngày 17/12,

ngày thứ 1 trong Tuần Bát Nhật (17-24/12) trước Đại Lễ Giáng Sinh

xin theo dõi ở đường kết nối sau đây:

 

 

 




 

 

HẠNH THÁNH TRONG TUẦN

 

 

 

Ngày 14 tháng 12

Thánh Gio-an Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

 

Thánh Gio-an Thánh Giá chào đời năm 1542 ở Phon-ti-vê-rốt, nước Tây Ban Nha. Sau một ít năm sống trong dòng Các-men, và được thánh nữ Tê-rê-xa thành A-vi-la khuyến khích, thánh Gio-an đã muốn thực hiện việc cải cách trong dòng. Điều này khiến thánh nhân phải chịu đựng muôn vàn đau khổ, thử thách. Người qua đời tại U-bê-đa, nổi tiếng là một bậc khôn ngoan, thánh thiện, như chúng ta có thể nhận thấy qua các tác phẩm của người.

 

Nhận biết mầu nhiệm được ẩn giấu nơi Chúa Ki-tô Giê-su

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2

Trích bài ca thiêng liêng của thánh Gio-an Thánh Giá, linh mục.

 

Dù các bậc thánh sư đã khám phá ra bao điều mầu nhiệm, lạ lùng, đồng thời nhiều tâm hồn đạo đức ngay ở đời này đã được cảm nghiệm những điều ấy, thế nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần phải nói ra, cần được hiểu biết.

 

Chính vì vậy, ta phải đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Người như thể một hầm mỏ phong phú, chứa nhiều tầng kho tàng quý giá ở bên trong. Có hết sức đào, cũng chẳng bao giờ hết. Hơn thế nữa, ở mỗi tầng, chỗ này hay chỗ nọ, người ta còn khám phá ra những lớp kho tàng mới.

 

Vì thế, thánh Phao-lô đã nói về Chúa Ki-tô : Trong Người, có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa. Các kho tàng đó, linh hồn không thể vào, cũng không thể tới được, nếu trước đó không chịu những đau khổ thấm thía bên trong lẫn bên ngoài, không được Thiên Chúa ban cho ơn hiểu biết và nhạy cảm, không kiên trì tập luyện về đời sống thiêng liêng.

 

Thật vậy, tất cả những điều này còn ở cấp độ thấp và mới chỉ là những điều kiện giúp ta vươn tới thâm cung cao thẳm là hiểu biết các mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Đó mới là đỉnh cao của sự khôn ngoan ta có thể đạt tới khi còn ở đời này.

 

Ôi ! Ước chi sau cùng con người hiểu được rằng mình không thể nào đạt tới các kho tàng cũng như sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, nếu trước đó không chịu đau khổ thấm thía và nhiều cách đến độ coi đó là niềm vui và ước muốn của mình ! Linh hồn nào thật sự khao khát sự khôn ngoan của Thiên Chúa, thì trước tiên phải ao ước đi vào mầu nhiệm thẳm sâu của thập giá.

 

Vì thế, thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Ê-phê-xô kẻo họ nản chí khi gặp gian truân, ngõ hầu họ được mạnh mẽ và nhờ được bén rễ sâu, được xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể các thánh, họ đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài, rộng, cao, sâu và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy họ sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.

 

Thánh giá chính là cửa ngõ phải qua để rồi vào kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Đó là cửa hẹp. Có nhiều người muốn hưởng những hoan lạc xuất phát từ thánh giá, nhưng lại ít có người chịu đi qua cửa này.

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Gio-an linh mục lòng nhiệt thành yêu mến thánh giá và hoàn toàn từ bỏ chính mình, xin ban cho chúng con hằng biết noi gương sáng của người, để mai sau được chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin

 

 

 

 

Tiểu Sử

Gioan de Yepes sinh tại Phontiveros, gần Avila. Tây Ban Nha ngày 24-6-1542. Cha ngài làm thợ dệt, bị gia đình giàu có làm nghề buôn bán loại trừ vì đã cưới một người vợ kém hơn. Mẹ ngài là một người đàn bà thánh thiện, trở thành goá phụ sau khi sinh Gioan. Không nguồn lợi, với 3 đứa con, bà đã làm thuê cho một thợ dệt. Bé Gioan dần dần đã học nghề thợ mộc, may vá, điêu khắc, hội hoạ trong tình yêu mến Chúa Giêsu Kitô.

Trong mọi việc, ngài có thói quen tự hỏi: “Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ làm gì?”

Ngài không trốn tránh một hy sinh nào. Lúc 12 tuổi, Gioan được học đọc, học viết với các nữ tu ở Medina del Campo. Đức bác ái của ngài bao la: tư hồi còn niên thiếu, ngài đã dùng giờ rảnh để phục vụ các bệnh nhân ở nhà thương, dầu vẫn theo học văm phạm và triết học nơi các cha dòng Tên.

Năm1563, Gioan gia nhập dòng Carmêlô và năm sau được gửi học tại Đại học Salamanca. Năm 1567, ngài thụ phong linh mục ở Medina và đã gặp thánh nữ Avila. Thánh nữ đã khuyên ngài thực hiện việc cải tổ dòng Camêlô như thánh nữ đang làm. Thánh nữ nói với ngài: “Đây là công trình đòi hy sinh và máu. Tôi không biết cha sẽ phải chịu khổ tới đâu nhưng chắc chắn cha phải chịu khổ”.

Gioan trở thành người con thiêng liêng của người nữ tu Carmêlô này. Cha 25 tuổi và chị 52 tuổi. Chị gửi cha đến với hai người bạn ở Duruelô trong cảnh cô tịch và đây là nguồn gốc của dòng Carmêlô canh tân đi chân không, ngài lấy tên là Gioan Thánh Giá. Sự nghèo túng thật khủng khiếp, ngài chỉ sống bằng cỏ, nhưng vẫn dùng những khúc ca tạ ơn Chúa vì đã chỉ cho biết phải sống và cư xử cách nào. Ngài hành động cách khác thường trên những người chung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng, tạo cho họ một lòng yêu thích hy sinh.

Sau khi chống lại đoàn thể các tu sĩ Carmêlô ở Alcala de Hélenrés, Ngài trở thành tuyên uý của tu viện Avila trong 5 năm, thánh nữ Têrêxa giới thiệu với con cái mình: “Cha là vị thánh”.

Sự thánh thiện của Gioan vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, sự canh tân khiến ngài bị tố cáo là nổi loạn. Các thầy dòng Carmêlô chước giảm chống lại các thầy dòng Carmêlô đi chân không. Cuối cùng, sau những nhục mạ dữ dội, ngài bị cầm tù ở Tolêđô. Người ta đối xử cứng rắn với ngài, 3 lần mỗi tuần họ đưa ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng ngài cảm thấy đang đi đúng đường Chúa muốn và tạ ơn Chúa vì đã chịu được hạ nhục và chịu khổ cực. Những bắt bớ tăng thêm đức tin và lý tưởng của ngài. Đáp lại, ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, ngài trước tác những vần thơ bí nhiệm làm thành cuốn “Thánh ca thiêng liêng” (cantiques spirituelles).

Được 9 tháng, thánh nhân vượt ngục. Trước khi đến tu viện định tới, ngài dừng lại trong một dòng nữ. Ngài nghe một nữ tu ca hát về “hạnh phúc của đau khổ” và bỗng ngài phải bám chặt vào cửa sắt nhà khách. Ngài đã xuất thần. Ý tưởng được chịu khổ vì Chúa đã làm cho ngài cả thấy dư tràn hạnh phúc. Phép lạ này trong tâm hồn, như muốn lôi kéo cả thân xác đổi mới theo... thánh Têrêxa nói: “Không có cách gì để nói về Thiên Chúa với cha Gioan Thánh Giá. Ngài xuất thần ngay và lôi kéo người khác theo”.

Một ngày kia quỳ bên song sắt, thánh nữ nghe cha nói về Chúa Ba Ngôi, thì thánh linh như muốn nâng ngài lên. Khiêm tốn, ngài nắm lấy tay vào thành ghế. Nhưng hoạt động thần linh đã nâng ngài lên tới trần nhà. Têrêxa ở trước mặt ngài cũng xuất thần và bay bổng. Một nữ tu tiến vào, cảm kích và cảnh tượng vội đi gọi các nữ tu khác đến chiêm ngưỡng cả hai vị thánh được Chúa chúc phúc.

Đức Thánh Cha và vua Philipphe II ủng hộ những cuộc cải cách và bây giờ Gioan phải nhận nhiều trọng trách. Ngài làm bề trên dòng Calvariô. Ngài lập cộng đoàn Carmêlô Baeza và 3 năm sau được chọn làm tu viện trưởng ở Grenade. Đi đường qua các thành Tây Ban Nha, ngài chinh phục các linh hồn về cho Chúa Kitô, chính ngài đã xây dựng một thuỷ lộ, một tu viện. Trong 15 ngày, ngài đã viết cuốn “Ngọn lửa tình yêu sống động” (La vive flamme d'amour). Cuối cùng ngài trở thành Tổng Đại diện Andalousia.

Sự trong trắng của thánh nhân đã tạo cho ngài một quyền năng trên quỷ thần. Ngài đã giải thoát nhiều bị quỷ ám. Người ta nói rằng, bằng những dấu thánh giá ngài dẹp tan cơn bão, bằng lời nguyện, ngài dập tắt một hoả hoạn. Các thú vật quý mến ngài. Để giữ mình trong sạch, thánh nhân tự nhận lấy đau khổ nhưng lại rất thương cảm những đau khổ của người khác, ngài còn tế nhị hơn nữa đối với những đau khổ tinh thần mà ngài gọi là “đêm tối của tâm hồn”. Nhưng ngài hiểu rằng, những đau khổ này thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Không kết hợp với Chúa được nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn.

Thường nhà dòng nghèo khó đến độ có ngày không có bánh ăn. Tập họp ở nhà ăn, thánh nhân nói với các tu sĩ về hạnh phúc được chịu khổ vì Chúa Giêsu Kitô. Họ khóc vì nhiệt tâm và lui ra. Bỗng chuông reo, một người vô danh đã đem bánh cho nhà dòng. Các tu sĩ trở lại phòng ăn. Lần này, thánh nhân khóc và nói: “Ôi, vậy là Chúa đã thấy sự yếu đuối của chúng con không chịu thử thách được lâu. Ngài đã sớm thương hại chúng ta”.

Lần kia, ngài đã trả lời Chúa Giêsu khi ngài hỏi về phần thưởng ngài muốn rằng: “Lạy Chúa, xin cho con được chịu khổ và bị khinh miệt vì Chúa”.

Và Ngài đã xin 3 ơn này là: đừng có ngày nào mà không được chịu đau khổ, đừng là bề trên vào lúc chết và được chết trong khiêm hạ. Thiên Chúa đã nhận lời Ngài.

Những tháng bị giam cầm, với bao đau khổ dữ dằn người ta đối xử, đã huỷ hoại thân thể ngài. Mệt nhọc vì du hành tới Andalousia, làm thánh nhân bị thiêu đốt ở chân, các vết thương mở rộng. Ngài chịu đau đớn kinh khủng đến nỗi lần kia ngài nói với người đối thoại:

- Xin lỗi, tôi không trả lời nổi. Tôi bị đay nghiến và đau nhức.

Thánh nhân được chọn một trong hai nơi để chữa bệnh, hoặc ở Baeza, nơi người ta quý mến, hoặc ở Ubeda, nơi tu viện trưởng có ác cảm với ngài. Ngài đã chọn tu viện Ubeda. Những cư xử nghiêm nhặt làm cho ngài đau đớn thêm. Nhưng ngài càng ôm chặt Thánh Giá vào lòng. Vị tu viện trưởng cảm động vì sự dịu dàng không mệt mỏi, vì lòng bác ái sâu xa của bệnh nhân, cuối cùng đã hiểu và xin ngài tha thứ.

Gioan báo trước mình sẽ chết đêm 14-12 (năm 1591). Các tu sĩ đọc kinh phó linh hồn, ngài xin đọc sách Diễn tình ca. Các cơn đau không ngừng gia tăng khi chuông reo giờ kinh sáng, ngài cầm thánh giá nói: “Lạy Chúa, con phó linh hồn trong tay Chúa”.

Ngài còn nhìn các tu sĩ, hôn Chúa Kitô và tắt thở. Ngài đã viết: “Vào xế chiều cuộc sống này, bạn được phán xét về tình yêu”.

Gioan Thánh Giá để lại nhiều sách luôn được suy gẫm như: Đường lên Carmêlô, Đêm tối tâm hồn, Ngọn lửa tình yêu sống động, Thánh ca thiêng liêng. Ngài được phong thánh năm 1726. Và Đức Piô XI đã đăt ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh năm 1962.
 
 Trích trong Theo Vết Chân Người (Chân dung các thánh nhân)

 

http://truyen-tin.net/BiographyOfSaints.aspx?SID=240

 

Gương Sống

“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8, 34).
Câu Kinh thánh này được thể hiện rõ nét trong cuộc đời của Thánh Gioan Thánh Giá, con người của đam mê, bí ẩn và tin tưởng cùng phương châm sống của Ngài là “tình yêu và hy sinh” dệt nên con người sống hoàn toàn vì tình yêu trong tâm tình tạ ơn suốt cả cuộc sống ngài. Ngài sống trọn cuộc sống trong đau đớn nhưng vẫn hằng cảm tạ Chúa như trong Thánh vịnh 41 “Con ngâm nga bài thánh nhạc thâu đêm, Thành kinh nguyện dâng Chúa Trời hằng sống” (Tv 41,9). Thật khó để có thể tìm được một con người như ngài, dù cuộc sống có là chi, có bị đối xử bất công thế nào, bị đánh đập dã man, hay bị ngưỡi đãi vì sự ghét ghen của anh em mình,… thì ngài vẫn không ngừng cất lên lời ca tạ ơn vì Thiên Chúa đã ban cho ngài được như vậy, ngài đem tình yêu thương đến tận mọi nơi trong cộng đoàn, trong mọi người và trong chính sâu thẩm của tâm hồn ngài. Chính vì lẽ đó, ngài đã thốt lên “Có ai thấy Thiên Chúa bởi sự tàn nhẫn đâu ?” hay “Ở đâu không có tình yêu, hãy đem lại tình yêu và bạn sẽ tìm thấy tình yêu.” .

Đối với ngài, Thiên Chúa không bao giờ có sự tàn nhẫn, không bao giờ có bất công nhiều người trong chúng ta chúng ta chắc hẳn, khi gặp một biến cố, một khó khăn nào đó có thể sẽ thốt lên những lời than trách, những câu thở dài, nhưng với Gioan đó không phải là những hình phạt hay nói một cách tế nhị hơn “thánh giá Chúa gửi đến”. Những đau khổ mà ngài chịu là những kinh nghiệm sống, những lời tạ ơn cho thế hệ chúng ta hôm nay đang từng bước theo ngài, theo lại lối xưa ngài đã từng dấn thân và bước đi, để hôm nay ngài đã được ở lại trong Thiên Chúa của tình yêu. Ngài cũng muốn mời gọi chúng ta gieo rắc tình yêu của chính mình, tình yêu phát xuất tự trong tâm hồn sâu thẳm để dành cho mọi người xung quanh, để tất cả mọi nơi là tình yêu, và hy sinh cho nhau cách khiêm nhu trọn vẹn.

Khi suy niệm về cuộc đời của ngài, chúng ta có thể tìm thấy nhiều tâm tình tạ ơn của Thánh nhân để lại trong những tác phẩm của ngài, những tâm tình đó có thể được thốt lên bằng những vần thơ du dương, hay những hy sinh thường ngày của cuộc sống. Trong tất cả mọi hoàn cảnh của cuộc sống ngài luôn sống với sự tạ ơn và niềm vui đến từ Thiên Chúa, có lẽ vì điều này mà con người của ngài toát lên được vẻ đẹp của thánh thiện và lòng trắc ẩn mà ngài cảm nghiệm được từ nơi Thiên Chúa đã dành cho nhân loại và chính ngài đã sống điều này suốt cả chặng đường theo Đức Kitô. Ngài dạy rằng, chỉ khi nào chúng ta dám cắt bỏ sợ dây dục vọng thì chúng ta mới có thể bay lên cùng Thiên Chúa. “Sợi dây dục vọng” mà Gioan muốn nhắc tới thiết nghĩ không đơn thuần chỉ là những thú vui xác thịt, xa hoa trần thế chóng qua, mà còn là những ước mơ danh vọng, những suy tính trong tương lai của một con người đang dấn thân, đang tìm kiếm. Có thể thấy rằng, chính ngài đã sống điều này trước khi dạy chúng ta sống, ngài đã sống điều ngài muốn nói và ngài tìm gặp được Chúa ngay trong cuộc sống trần thế.

“Vào trường hợp tôi, Chúa Giêsu sẽ là gì?” Thói quen đặt câu hỏi trong tất cả mọi công việc của mình làm đã khiến ngài không tránh né một hy sinh nào, vì ngài biết rõ việc mình đang làm và tâm tình mà Thiên Chúa muốn trao gửi vào công việc ấy qua bàn tay thánh thiện của ngài. Ngài yêu thương các bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh nhân nghèo cách đặc biệt, yêu như Chúa đã yêu họ vậy. Gioan như gắn cuộc sống của mình với họ, họ đau mình cũng đau, họ thiếu vắng tình yêu, mình phải đem tình yêu đến và trao cho họ như là điều Thiên Chúa muốn và đã làm vậy. Sống mật thiết với Thiên Chúa trong tất cả con người của ngài đã tạo nên nơi ngài một đức ái bao la ngay từ lúc còn trẻ, thể hiện trong các công việc phục vụ bệnh nhân với tâm tình yêu thương và hy sinh mà rất nhiều người cảm phục và mến mộ.

Gioan Thánh Giá rất thích cuộc sống khó nghèo, và sự nghèo túng khủng khiếp không bao giờ lay chuyển được tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa. Ngài luôn dùng những khúc ca tạ ơn Chúa vì đã cho ngài biết ngài phải sống và cư xử cách nào. Vì vậy, ngài hành động khác thường trên những người xung quanh, giải thoát họ khỏi những việc hư hỏng tạo cho họ một lòng yêu thích hy sinh. Sự thánh thiện của ngài vượt quá nhiều người và trở nên khó hiểu, công cuộc canh tân cải tổ nhà dòng của ngài (cùng với Thánh nữ Têrêxa Avila) bị người khác cho là nổi loạn và đã trừng phạt ngài. Người ta đối xử cứng rắn với ngài, ba lần mỗi tuần họ đưa ngài tới nhà cơm và đánh đập không nương tay. Nhưng ngài cảm thấy đang đi đúng con đường của Chúa muốn, và tạ ơn Chúa vì đã chịu được hạ nhục và chịu được khổ cực. Những bắt bớ làm tăng thêm đức tin và lý tưởng của ngài. Đáp lại, ngài yêu mến nhiều hơn và trong hầm tối thiếu khí trời, ngài dệt nên những vần thơ từ đau khổ tạo thành cuốn “thánh ca thiêng liêng” mang phong thái riêng của ngài, tác phẩm của tình yêu và tạ ơn ngài dâng lên Thiên Chúa.

Thánh nhân đã nhận lấy đau khổ để đổi lấy sự trong sạch cho bản thân, thế nhưng ngài lại thương cảm cho những đau khổ của người khác, ngài còn tế nhị hơn với những đau khổ tình thần mà ngài diễn tả đó là “đêm tối của tâm hồn”.Nhưng ngài hiểu rằng, những đau khổ kia thanh tẩy tâm hồn rất nhiều. Ngài từng chia sẻ, chúng ta không thể kết hợp được với Thiên Chúa nếu không có khổ hạnh trong tâm hồn. Khi con người chúng ta đang lo nghĩ, đang suy tư về những danh vọng, những vinh hoa hay vinh quanh cho bản thân, là khi chúng ta chưa có thể kết hợp được với Thiên Chúa, chưa đi vào con đường mà tình yêu phải bước đi. Những đố kị, ghen ghét nhau trong cộng đoàn, trong anh em là những lệch lạc của con đường tình yêu mà ngài dạy. Sự trong sạch phải luôn đi kèm với tình yêu trao ban, cho dù chính bản thân bị thiệt thòi, bị đau khổ, chỉ có thế, chúng ta mới tìm thấy sự trong sạch cho tâm hồn được. Phải luôn đồng cảm với những con người khổ hạnh vì bệnh tật và trao gửi tình yêu của mình cho họ, để giúp họ ngày một nhận ra Tình Yêu Thiên Chúa ngày đêm đang dành cho họ và không bao giờ ngưng.

“Lạy Chúa, xin cho con chịu khổ hạnh và khinh miệt vì Chúa”. Lời cầu nguyện ấy đã được Thiên Chúa nhậm lời khi mà Thiên Chúa đã ban cho ngài ngày nào cũng được chịu khổ hình, đau khổ, chết trong khiêm hạ và tâm nguyện của ngài đừng là bề trên trong giờ lâm chung. Có bao giờ chúng ta giống thánh nhân chưa? Cầu nguyện xin được đau khổ… điều đó không có nghĩa, ngày hôm nay chúng ta cứ xin cho được chịu đau khổ, chịu khinh miệt, nhưng ngài muốn qua cuộc sống của ngài, chúng ta hãy bắt chước noi theo, luôn tạ ơn Thiên Chúa trong tất cả các hoàn cảnh của cuộc sống, không cầu mong danh vọng, vinh quang cho bản thân, sống khiêm nhu và ngợi khen Chúa mỗi ngày.

Cuộc đời của ngài là một nổ lực quả cảm, dám sống trọn vẹn với tên gọi của ngài : “Gioan Thánh Giá”. Sự điên rồ của thập giá xưa thể hiện nơi Đức Kitô thế nào để nhân loại hứng lấy được tình yêu mà Thiên Chúa ban tặng, thì nay cũng tái diễn lại nơi cuộc sống của ngài như vậy dành cho hết thảy mọi người. Thánh giá, chỉ có những người có đức tin mới có thể chấp nhận được hình hài ô nhục của nó, chẳng phải người Do Thái từng cho đó là sự bỉ ổi, sự xấu xa đó sao? Chỉ có những người trộm cướp, những tên giết người mới bị dùng đến hình phạt này, nhưng Chúa Giêsu đã phải mang lấy hình phạt nhục nhã này, để chúng ta được giải thoát, được trở về với Chúa Cha và để minh chứng cho tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Gioan đã không sợ khi nhận lấy cái tên mới của mình, cái tên của “sự điên rồ thế gian” – Gioan Thánh Giá, để cũng mang vào mình bao sự bất công, dò xét, đánh đập mà những người khác dành cho mình. Thế nhưng, hoàn cảnh nào đi nữa, ngài luôn sống với một tâm tình của Tình yêu – Tạ ơn – Hy sinh. Thánh Gioan Thánh Giá cũng mời gọi chúng ta mỗi ngày cùng bước vào những chặng đường của hành trình tìm kiếm Đức Kitô, từ bỏ bản thân hay những ảo tưởng của mình bằng cách sống nhiệm nhặt và thật lòng khiêm nhường, cam chịu đau khổ thiệt thòi. Cuộc đời của ngài đã chứng minh cho chúng ta rằng đau khổ làm cho linh hồn chúng ta tinh khiết, ví tựa như thanh củi được đốt trong lò sưởi, lửa cháy thiêu đốt là làm tan nát thanh củi nhưng tạo nên được ngọn lửa hồng rực sáng.

Không am tường được hết ý nghĩa và tâm tình của ngài nơi cuộc đời cũng như những tác phẩm của ngài để lại nếu chúng ta không đi sâu vào cuộc đời tu hành của Gioan. Suốt cuộc đời tu hành bị anh em đày đọa nhưng không bao giờ oán hận, có lẽ trong thâm tâm Gioan vẫn im lặng chấp nhận với nụ cười nhân ái và tha thứ mà họ không thể nào hiểu được. Chính những hành hạ bất công đó đã làm cho Gioan ngày càng thêm gần gũi với Chúa Tình Yêu hơn. Có bao giờ, chúng ta đã im lặng để suy nghĩ, để học hỏi ngài về những nhân đức mà ngài đã sống chưa?

Lạy Thánh Gioan Thánh Giá, xin giúp chúng con từ bỏ con người, từ bỏ cái tôi tội lỗi thấp hèn của chúng con để sống cuộc sống vì Thiên Chúa, vì cộng đoàn và vì anh em xung quanh chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn biết chấp nhận hy sinh, đau khổ vì tình yêu, vì lòng yêu mến như ngài đã từng sống và dạy chúng con. Trên Thiên quốc, xin hãy ngày đêm để mắt đến những công việc chúng con đang làm cũng như những gì chúng con đang suy nghĩ… Xin cho chúng con biết học đòi được nhân đức bác ái của ngài, để qua cuộc sống hôm nay của chúng con, nhiều người cũng nhìn ra Thiên Chúa là tình yêu nữa.
Francis John Mary MG

https://dongcatminh.org/gioan-thanh-gia-tinh-yeu-va-hy-sinh/

 

Thánh Gioan Thánh Giá

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI – Huấn Từ Triều Kiến Chung Thứ Tư 16/2/2011

Bài 132 Giáo Lý Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền 138 bài

  

 

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hai tuần trước tôi đã trình bày về vị đại thần bí gia Tây Ban Nha Teresa of Jesus. Hôm nay, tôi muốn nói về một vị thánh quan trọng khác của mảnh đất này, một người bạn thiêng liêng của Thánh Teresa, một cải cách nhân, và như Thánh Teresa, cũng là phần tử của gia đình Dòng Carmelo, đó là Thánh Gioan Thánh Giá, vị thánh được Đức Giáo Hoàng Piô XI vào năm 1926 công bố là một trong những vị tiến sĩ của Hội Thánh, và là vị theo truyền thống được nói đến như là “Vị Tiến Sĩ Thần Bí – Doctor Mysticus”.

 

Thánh Gioan Thánh Giá được sinh ra vào năm 1542 tại một khu làng nhỏ Fontiveros, gần Avila, ở Castilla la Vieja, con của ông bà Gonzalo de Yepes và Catalina Álvarez. Gia đình của ngài rất nghèo vì người cha, thuộc giòng quí tộc Toledo, bị tẩy chay khỏi gia đình và không cho hưởng gia tài bởi đã ông đã lập gia đình với Catalina, một thợ dệt tơ thường hèn. Cha của Thánh Gioan chết khi ngài còn rất trẻ, và vào năm lên 9 tuổi, Thánh Gioan đã cùng với mẹ và người anh em Phanxicô của mình đến Medina del Campo, gần Valladolid, một trung tâm thương mại và văn hóa.  đây ngài đã theo học "Colegio de los Doctrinos", đồng thời cũng thi hành các việc làm thấp hèn cho các nữ tu thuộc tu viện nhà thờ Magdalen.

 

Về sau, nhờ phẩm chất nhân bản và thành quả học vấn của mình, đầu tiên ngài được nhận làm y tá ở  Hospital of the Conception rồi  Học Viện các Cha Dòng tên vừa được thiết lập  Medina del Campo. Thánh Gioan vào nay name 18 tuổi và học các khoa về xã hội, hùng biện và các ngôn ngữ cổ điển trong vòng 3 năm. Vào cuối những ngày đào luyện của mình, ngài đã cảm thấy ơn gọi của mình rất rõ ràng, đó là sống đời tu sĩ, và trong số nhiều dòng tu hiện hữu  Medina bay giờ, ngài cảm thấy ơn gọi vào Dòng Carmelo.

 

Vào mùa thu name 1563, ngài bắt đầu thời gian tập sinh của mình giữa các tu sĩ Dòng Carmelo của thành phố ấy, với tên tu sĩ là Mathêu. Năm sau ngài được gửi đến Đại Học Salamanca danh tiếng, nơi ngài học Triết Lý và Nghệ Thuật 3 năm. Vào name 1567, ngài thụ phong linh mục và trở về Medina del Campo để cử hành Thánh Lễ mở tay với đầy những thong mean của gia đình ngài.


Chính ở nơi nay đã xẩy ra cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Thánh Gioan và Teresa of Jesus. Cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ quan trọng cho cả hai vị: Thánh Teresa phác họa dự án của mình để canh tân Dòng Carmelo cho cả ngành nam nữa, và đề nghị Thánh Gioan cộng tác thực hiện “cho Thiên Chúa được vinh quang hơn”. Vị linh mục trẻ này cảm thấy được thu hút theo các ý nghĩ của Thánh Teresa cho đến độ trở thành một đại trợ tá viên của dự án này. Cả hai đã làm việc với nhau mấy tháng trời, chia sẻ với nhau các tư tưởng và dự thảo để sớm bao nhiêu có thể mở nhà đầu tiên cho các Đan Sĩ Carmelo Đi Chân Không (Discalced Carmelites). Việc khai trương này xẩy ra vào ngày 28/12/1568, ở Duruelo, một địa điểm hiu quạnh ở địa hạt Avila.

 

Nhờ Thánh Gioan, cộng đồng nam giới đầu tiên được hình thành với 3 đồng bạn khác. Khi tái khan dòng theo Luật Primitive, cả 4 vị đã nhận những tên mới: Thánh Gioan bay giờ gọi mình là Gioan “Thánh Giá”, một danh xưng sau này ngài được oàn vũ biết đến. Vào cuối name 1572, theo yêu cầu của Thánh Teresa, ngài trở thành vị giải tội và đại diện của Đan Viện Nhập Thể ở Avila là nơi Thánh Teresa là đan viện mẫu. Các vị có những năm tháng hợp tác chặt chẽ và thân hữu thiêng liêng giúp cho nhau trở nên phong phú hơn. Trong giai đoạn này các tác phẩm quan trọng nhất của Thánh Teresa và những bản văn đầu tiên của Thánh Gioan được viết ra.

 

Việc thiết tha canh tân Dòng Carmelo không trôi chảy xuôi may dễ dàng, thậm chí nó còn gây đau khổ trầm trọng cho Thánh Gioan nữa. Sự vụ thê thảm nhất đó là việc ngài bị bắt và giam giữ vào năm 1577 ở tu viện của các tu sĩ Dòng Carmelo Giữ Luật Cũ ở Toledo, gây ra bởi một cáo buộc bất chính. Vị thánh ở trong tù 6 tháng trời, chịu đựng thiếu thốn và kiềm chế về thể lý cũng như luân lý. Ở nay ngài đã sáng tác, trong số các bài thơ, thi phẩm nổi tiếng “Ca Khúc Linh Thiêng - Spiritual Canticle”. Sau heat, vào đêm 16 rạng 17 tháng 4 năm 1578, ngài đã có thể thoát thân một cách mạo hiểm liều lĩnh, trú ẩn ở đan viện các Đan Sĩ Carmelo Đi Chân Không của thành phố này. Thánh Teresa và các đồng bạn của Thánh Gioan đã heat sức vui mừng cử hành việc thoát thân này của Thánh Gioan, và sau một thời gian ngắn để lấy lại sức khỏe, Thánh Gioan được sai đến Andalucia, nơi ngài đã sống 10 năm ở mấy tu viện, nhất là ở Granada. Ngài đã càng ngày càng nắm giữ các chức vụ quan trọng trong hội dòng, từ từ trở thành vị đại diện tỉnh dòng, và hoàn thành việc biên soạn các luận đề về đời sống thiêng liêng.

 
Sau đó ngài trở về quê quán của mình, như một phần tử của việc tổng quản trị gia đình tu trì Thánh Teresa, một gia đình bấy giờ đã được toàn quyền tự lập. Ngài đã sống tại Đan Viện Carmelo ở Segovia, thi hành vai trò làm bề trên của cộng đồng này. Vào năm 1591, ngài đã được thôi hết tất cả mọi trách nhiệm để nhắm tới một Tỉnh Dòng tu trì mới ở Mễ Tây Cơ. Trong khi sửa soạn cho cuộc hành trình dài này với 19 đồng bạn, ngài đã rút về một tu viện quạnh hiu gần Jean, nơi ngài trở bệnh nặng.

 

Ngài đã phải đương đầu những khổ đau khủng khiếp một cách thanh thản và nhẫn nại đầy gương sáng. Ngài đã chết vào đêm ngày 13 rạng 14 Tháng 12 năm 1591, trong khi các an hem của ngài đang nguyện Kinh Ban Mai. Ngài đã giã từ họ khi nói rằng: “Hôm nay tôi về Trời hát Kinh Phụng Vụ”. Di hài của ngài được đưa về Segovia. Ngài được Đức Clemente X phong chân phước vào năm 1675 và được Đức Benedict XIII phong thánh năm 1726.

 

Thánh Gioan được coi như là một trong những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Tây Ban Nha. Những tác phẩm quan trọng nhất của ngài gồm có 4 cuốn sau đây: “Lên Núi Cát Minh - Ascent of Mount Carmel”, “Đêm Tối Linh Hồn - Dark Night of the Soul”, Ca Khúc Linh Thiêng - Spiritual Canticle”, và “Lửa Sống Yêu Thương - Living Flame of Love".

 

Trong cuốn “Ca Khúc Linh Thiêng”, Thánh Gioan trình bày con đường thanh tẩy của linh hồn, tức là việc gia tăng hoan hỉ chiếm hữu Thiên Chúa cho tới khi linh hồn cảm thấy rằng nó kính mến Thiên Chúa bằng chính tình yêu nó được Ngài yêu thương.

 


Cuốn “Lửa Sống Yêu Thương” tiếp tục chiều hướng này, diễn tả chi tiết hơn cuộc hiệp nhất biến đổi với Thiên Chúa. Thí dụ được Thánh Gioan sử dụng là thí dụ về ngọn lửa: khi lửa cháy và đốt củi tì nó trở thành ngọn lửa rực sáng thế nào thì Thánh Linh cũng vậy, Đấng trong thời gian đêm tăm tối thanh tẩy và “rửa sạch” linh hồn, sau đó, qua thời gian, soi chiếu và sưởi ấm linh hồn như một ngọn lửa. Sự sống của linh hồn là việc liên tục cử hành của Thánh Linh, để con người có thể thấy được vinh quang của mối hiệp nhất với Thiên Chúa trong cõi vĩnh hằng.

 

 

Cuốn “Lên Núi Cát Minh” trình bày cuộc hành trình thiêng liêng theo chiều hướng của cuộc thanh tẩy tiến triển của linh hồn, cần thiết để tiến lên đỉnh trọn lành Kitô giáo, được biểu hiệu bằng đỉnh Núi Cát Minh. Việc thanh tẩy này được nêu lên như một cuộc hành trình con người trải qua, hợp tác với tác động thần linh trong việc giải thoát linh hồn khỏi tất cả mọi thứ dính bén hay quyến luyến ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Cuộc thanh tẩy này, một cuộc thanh tẩy tiến đến chỗ hiệp nhất với Thiên Chúa, cần phải là một cuộc thanh tẩy toàn diện, bắt đầu với đường lối của các giác quan và tiếp tục với cuộc thanh tẩy chiếm được nhờ ba thần đức - tin cậy mến – đó là cuộc thanh tẩy về ý hướng, ký ức và ý muốn.

 

 

Cuốn “Đêm Tối” diễn tả khía cạnh “thụ động”, tức là khía cạnh Thiên Chúa nhúng tay can thiệp vào tiến trình “thanh tẩy” của linh hồn. Thật vậy, tự mình, nỗ lực của loài người không thể vào tận căn gốc sâu xa của những xu hướng và thói quen xấu xa: Nó có thể kềm chế chúng nhưng không thể làm cho cúng hoàn toàn bật gốc. Để làm điều ấy cần đến tác động đặc biệt của Thiên Chúa, tác động thanh tẩy tâm linh  một cách toàn diện và sửa soạn nó cho xứng với cuộc hiệp nhất yêu thương với Ngài. Thánh Gioan diễn tả việc thanh tẩy này là ‘thụ động” chính là vì, mặc dù được linh hồn chấp nhận, nó được hiện thực bởi tác động mầu nhiệm của Thánh Linh, Đấng là một ngọn lửa, thiêu đốt hết mọi ô nhơ. Trong tình trạng ấy, linh hồn phải trải qua tất cả mọi thứ thử thách, như thể nó ở trong đêm tăm tối vậy.

 


Những nhận định này về các tác phẩm cính của vị thánh này giúp chúng ta tiến đến những điểm nổi bật trong giáo huấn về thần bí bao rộng và sâu xa của ngài, một giáo huấn có mục tiêu bày tỏ cho thấy con đường vững chắc để đạt tới sự thánh thiện, đến tình trạng trọn lành Thiên Cúa kêu gọi tất cả mọi người chúng ta. Theo Thánh Gioan Thánh Giá, hết mọi sự hiện hữu, được Thiên Chúa dựng nên đều tốt lành. Nhờ các tạo vật, chúng ta có thể khám phá ra Đấng đã lưu lại dấu vết của Ngài nơi chúng. Tuy nhiên, đức tin là nguồn duy nhất được ban cho con người để họ nhận biết Thiên Chúa chính xác như Ngài là, như Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi. Tất cả những gì Thiên Chúa muốn truyền đạt cho con người Ngài đều nói nơi Chúa Giêsu Kitô, Lời hóa thành nhục thể của Ngài. Chúa Giêsu Kitô, Đấng là đường lối duy nhất và tối hậu đến cùng Cha (cf. John 14:6). Bất cứ một sự gì khác được tạo dựng nên chẳng là gì so với Thiên Chúa, và không một sự gì chân thực ngoài Ngài ra. Bởi thế, để có được một tình yêu Thiên Chúa trọn hảo, hết mọi tình yêu khác cần phải nên giống như tình yêu thần linh trong Chúa Kitô.

 

Đó là điểm xuất phát ra việc nhấn mạnh của Thánh Gioan Thánh Giá về nhu cầu cần phải được thanh tẩy và trống rỗng nội tâm để được biến đổi trong Thiên Chúa, Đấng là cùng đích duy nhất của sự trọn lành. Cuộc “thanh tẩy” này không phải là ở chỗ chỉ thiếu thốn về thể lý các sự vật hay việc sử dụng chúng. Trái lại, những gì linh hồn tinh tuyền và tự do làm đó là loại trừ đi hết mọi sự lệ thuộc lệch lạc vào các sự vật. Hết mọi sự cần phải được đặt trong Thiên Chúa như là tâm điểm và là cùng đích của đời sống. Tiến trình thanh tẩy dài lâu và khó khăn này đòi hỏi sự cố gắng của con người, nhưng vai chính thực sự vẫn là Thiên Chúa: tất cả những gì con người có thể làm đó là “phó mình”, là cởi mở trước tác động thần linh và đừng gây trở ngại cho tác động thần linh này.

 

Khi sống các thần đức, con người được thăng hoa và cống hiến giá trị cho nỗ lực của mình. Nhịp điệu gia tăng của đức tin, đức cậy và đức mến là những gì song hành với việc thanh tẩy cũng như với một hiệp nhất gia tăng với Thiên Chúa cho tới khi họ được biến đổi trong Ngài. Khi người ta tiến đến đích điểm ấy, thì linh hồn được chìm ngập vào chính sự sống của Ba Ngôi, tới độ Thánh Gioan khẳng định rằng linh hồn có thể yêu mến Thiên Chúa bằng chính tình yêu Thiên Chúa yêu thương linh hồn, vì Ngài yêu thương nó trong Thánh Linh. Đó là lý do tại sao Vị Tiến Sĩ Thần Bí này chủ trương rằng không có vấn đề hiệp nhất yêu đương với Thiên Chúa nếu không đạt đến tột đỉnh nơi cuộc hiệp nhất Ba Ngôi. Ở trong tình trạng cao cả này, linh hồn thánh hảo biết hết mọi sự trong Thiên Chúa và không còn phải qua tạo vật để đến với Ngài nữa. Bấy giờ linh hồn cảm thấy tràn ngập tình yêu thần linh và hoàn toàn hoan lạc trong tình yêu này.

 

Anh chị em thân mến, cuối cùng vấn nạn còn lại là: Vị thánh giảng dạy về thần bí cao cả này, về đường lối gian khổ để đạt đến đỉnh trọn lành này, phải chăng muốn nói với chúng ta một điều gì đó, nói với thành phần Kitô hữu bình thường sống trong các oàn cảnh của cuộc đời ngày nay, hay ngài chỉ là một mẫu gương, một mô phạm cho một ít linh hồn được tuyển chọn có thể thực sự thực hiện đường lối thanh tẩy này, đường lối tiến lên huyền nhiệm ấy? Để có thể thấy được câu trả lời, trước hết chúng ta cần phải nhớ rằng đời sống của Thánh Gioan Thánh Giá không phải là một “chuyến bay ngang qua các đám mây huyền nhiệm”, mà là một cuộc đời rất khó nhọc, rất thực tế và cụ thể, vừa là một con người cải cách hội dòng đến gặp phải nhiều chống đối, và vừa là bề trên tỉnh dòng, bị giam giữ bởi anh em dòng ngài, bị những xỉ nhục không thể nào tưởng tượng nổi cũng như việc đối xử tàn tệ về thể lý. Nó là một đời sống khó nhọc, thế nhưng, chính trong những tháng ngày ở trong tù ngục ấy, ngài đã viết một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất của mình. Nhờ đó chúng ta mới có thể hiểu được rằng đường lối với Chúa Kitô, bước đi với Chúa Kitô là “Đường Lối” không phải là một đè nén chồng chất lên trên gánh nặng vốn đã đủ, mà là một cái gì hoàn toàn khác hẳn, nó là một thứ ánh sáng, là một thứ sức mạnh giúp chúng ta có thể mang vác gánh nặng ấy.

 

Nếu một người có tình yêu cao cả trong Ngài thì tình yêu này như cống hiến cho họ đôi cánh, và họ chịu đựng những trục trặc trong đời sống một cách dễ dàng hơn, vì họ có trong chính mình một thứ ánh sáng là đức tin: được Thiên Chúa yêu thương và để mình được yêu thương bởi Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Tác động để mình được yêu thương này là ánh sáng giúp chúng ta mang vác gánh nặng hằng ngày của mình. Thánh thiện không phải là công việc của chúng ta, là công việc khó khăn của chúng ta, mà đúng ra nó chính là “sự cởi mở”, ở chỗ mở ra các cánh cửa sổ của linh hồn để ánh sáng của Thiên Chúa có thể lọt vào bên trong, đừng lãng quên Thiên Chúa, vì chính lúc cởi mở trước ánh sáng của ngài linh hồn có được sức mạnh cũng như niềm vui của kẻ được cứu chuộc. Chúng ta hãy cầu cùng Chúa để Ngài giúp chúng ta tìm thấy sự thánh thiện ấy, đó là việc hãy để mình được Thiên Chúa yêu thương, một ơn gọi của tất cả mọi người chúng ta cũng là việc cứu chuộc thực sự vậy. Cám ơn anh chị em.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/2/2011