ĐTC với tân lãnh sự các nước

 

 

ĐTC với tân lãnh sự Cyprus về việc xây dựng Khối Hiệp Nhất Âu Châu

Trong bài diễn từ của mình, trước hết ĐTC bày tỏ việc Ngài “sung sướng ghi nhận rằng ông là vị lãnh sự đầu tiên của xứ sở ông với Tòa Thánh”.

Sau đó, Ngài nhận định về những gì ông tân lãnh sự này trình bày với Ngài: “Ông đã đề cập tới việc ký kết mới đây về Bản Thỏa Ước Gia Nhập của Cộng Hòa Cyprus với Khối Hiệp Nhất Âu Châu. Chắc chắn đây là một bước tiến quan trọng đối với một quốc gia để bắt đầu những việc sửa soạn quan trọng cho vị thế chính thức của mình trong cộng đồng kính tế và chính trị Âu Châu. Với gia sản Kitô giáo lâu đời và sâu xa của xứ sở ông có được ngay từ ban đầu của chính Kitô giáo, Cyprus sẽ đóng một vai trò thuận lợi trong việc làm cho Âu Châu nhận biết hơn nữa những cội nguồn Kitô giáo riêng của nó”.

Lập lại những gì Ngài đã chia sẻ với phái đoàn ngoại giao với Tòa Thánh dịp đầu năm, ĐTC nói: “Âu Châu là tác nhân truyền bá các thứ giá trị mang lại hoa trái cả hai ngàn năm về một thứ ‘nghệ thuật’ suy tư và sinh động đã làm lợi cho cả thế giới. Kitô giáo giữ một vị thế nổi bật đối với những giá trị ấy… Một Âu Châu ruồng bỏ quá khứ của mình, chối bỏ sự kiện về tôn giáo và thiếu chiều kích thiêng liêng sẽ bị suy kiệt trước dự án đầy tham vọng cần đến tất cả nghị lực của nó, đó là dự án kiến trúc một Âu Châu cho tất cả mọi người. Trong thế giới hiện đại của chúng ta, cần phải tỏ ra hoàn toàn tôn trọng một cách xứng hợp những gì hợp lý nơi các ước vọng, truyền thống và niềm tin của dân chúng thuộc các lịch sử khác nhau. Chỉ bao giờ biết chấp nhận nhau và chân thành đối thoại với nhau nơi các dâ tộc và các phái nhóm mới có thể bảo tồn hoạt động duy trì những mối liên hệ hòa hợp. Nền hòa bình chân thực đòi con người phải thực sự nhìn nhận và bảo toàn phẩm giá cùng các thứ quyền lợi của tất cả mọi phần tử thuộc gia đình nhân loại, như là một tiêu chuẩn căn bản nơi qui chế và hành động, đặc biệt hướng về và nâng đỡ thành phần cần thiết nhất, như những người nghèo khổ, bệnh tật, giới trẻ, giới già, lao nhân, di dân”.

ĐTC nhắc đến tình hình tại Cyprus như sau: “Một trong những vấn đề khẩn trương nhất đối với Cyprus hiện nay đó là tình trạng liên tục chia rẽ của hải đảo này. Tòa Thánh, cùng với cộng đồng quốc tế, cảm thấy rất buồn khi thấy rằng dự án hòa bình và tái hiệp nhất đã được vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc trình bày năm vừa qua… không đạt được việc thỏa thuận cần thiết giữa các nhóm trong cuộc nên không được chấp thuận… Tôi hân hoan nghe thấy ông nói về việc chính phủ của ông sẵn sàng ngồi xuống một lần nữa để đối thoại và thương thảo theo chiều hướng thuận lợi của Liên Hiệp Quốc. Việc thương thảo chân tình đòi phải ổn định những khác biệt bằng một đường lối mang lại thiện ích thực sự cho tất cả mọi người… Dĩ nhiên, trong tất cả mọi vấn đề này, các phần tử của cộng đồng Công giáo bao giờ cũng nhiệt tình đóng góp phần của mình cùng vơí đồng bào Cyprus”.

 

ĐTC với vị tân lãnh sự Đại Hàn về tình đoàn kết giữa Nam Bắc và tình hình luân lý xã hội Đại Hàn

Hôm nay, ngày Lễ mừng Độc Lập ở Hoa Kỳ 4/7/2003, tại Rôma, ĐTC đã tiếp nhận vị tân lãnh sự Đại Hàn, Seong Youm. Trong bài diễn từ của mình, ĐTC đã nhắc đến biến cố: “Hôm nay là ngày đánh dấu 40 năm kỷ niệm bắt đầu công việc lãnh sự của Cộng Hòa Đại Hàn với Tòa Thánh Vatican”. Sau đó Ngài nói đến vấn đề tình hình sống đạo của nước này: “Phúc Âm đã được phát triển và sinh hoa trái trên mảnh đất Đại Hàn. Một so lớn những con người Đại Hàn được tuyên tôn trên bàn thờ cho thấy sự thánh thiện đã cắm rễ sâu nơi nhân dân này và làm rạng ngời Giáo Hội hoàn vũ”.

ĐTC tiếp tục chia sẻ về kinh nghiệm 2 chuyến tông du của Ngài ở Đại Hàn, những lần Ngài thấy “mức tiến bộ và những vinh thắng của tự do và phúc hạnh của một xã hội trẻ trung năng động. Tôi cũng thấy được cả nỗi cay đắng của nhiều con người cảm thấy ở một hải đảo chỉ có một dân tộc duy nhất cư ngụ mà lại bị sống trong cảnh chia rẽ đau thương. Những cảm giác hận thù và chống đối giữa hai quốc gia là lý do thực sự đáng quan tâm, nhưng cũng có lý do khác để hy vọng vì thấy rằng có một ý muốn cụ thể trong việc làm giảm bớt những căng thẳng bằng việc đối thoại và gặp gỡ. Đường lối chính trị này có thể sẽ tìm thấy được nguồn sức mạnh hơn và khả tín hơn nếu miền phát triển hơn ở hải đảo này, trong khả năng của mình, biết đáp ứng những nhu cầu khẩn trương của miền khác. Tòa Thánh thích thấy được hết mọi nỗ lực đối thoại và hợp tác, cũng như việc liên tục chú trọng đến các phần tử yếu kém trong dân chúng. Hiện tại và tương lai cần phải được xây dựng trên những nền tảng tôn trọng con người và việc liên tục tìm kiếm công lý và hòa bình. Để đạt được mục đích này, trong hoàn cảnh hiện nay, cần phải liên lỉ theo đuổi những nỗ lực nhắm đến việc loại trừ đi … những thứ vũ khí đại công phá, nhất là những thứ vũ khí nguyên tử”.

Về cộng đồng Công Giáo ở Đại Hàn, ĐTC nhận thấy rằng: “Đó là một thực tại hứa hẹn đáng được cảm mến và tôn trọng. Cộng đồng này đang thực hiện sứ vụ của mình do Phúc Âm tác động và cống hiến chứng từ tôn giáo cụ thể bằng những cơ cấu tổ chức giáo dục, an sinh và bác ái của mình, những công cuộc được nhiều người cảm phục”. Tuy nhiên, Ngài còn nói Giáo Hội Công Giáo “không thể che giấu mối quan tâm của mình về hiện tượng phá thai buồn thảm là một vết thương kinh khiếp của xã hội. Việc ngừa thai nhân tạo cũng lan tràn cùng với việc phát triển ý hệ thực tiễn cho rằng hợp lý và khuyến khích những lạm dụng về vấn đề di giống… cũng như án tử hình. Trước những đe dọa trầm trọng cho sự sống này, Giáo Hội cảm thấy có nhiệm vụ nhắc lại những giá trị Giáo Hội tin tưởng, những giá trị là gia sản của nhân loại, vì lề luật tự nhiên được Thiên Chúa ghi khắc nơi tâm can của hết mọi con người. Chỉ có dự án lấy mục tiêu ưu tiên của mình là việc bênh vực sự sống và gia đình mới có thể làm lợi cho tình đoàn kêt và tình trạng vững mạnh của xã hội Đại Hàn mà thôi”.

 

ĐTC với vị tân Lãnh Đạo Sứ Vụ Libyan Arab Jamahiriya của Nhân Dân Xã Hội Chủ Nghĩa về vấn đề đối thoại hiệp thông huynh đệ

Thứ Ba 1/7/2003, ĐTC đã nhận Uỷ Nhiệm Thư của vị tân lãnh đạo làm việc với Tòa Thánh về phương diện ngoại giao này. Trong bài diễn văn bằng tiếng Ý, ĐTC đã khẳng định rằng “đặc biệt cần phải can đảm và kiên trì đối thoại để đương đầu với những căng thẳng trên thế giới liên quan đến chúng ta và đòi phải chủ động hợp tác với nhau từ mọi phía để giải quyết vấn đề, căn cứ vào những nguyên tắc căn bản về sự thật, công lý, yêu thương và tự do”.

ĐTC đề cập đến “tình hình Trung Đông làm Tôi hết sức quan tâm; nạn khủng bố tấn công bừa bãi bất cứ phần đất nào trên thế giới, làm cho các thành phố, dân tộc và thậm chí tất cả loài người sống trong bất an; những cuộc xung đột làm cản trở các dân cư ở nhiều miền đất thuộc Phi Châu không thể phát triển nổi; việc phân phối bất cân đối những thứ sản vật về đất đai cũng như về các thành quả nghiên cứu kỹ thuật, nhân bản và tinh thần. Việc đối thoại được căn cứ vào lề luật luân lý lành mạnh là việc làm dễ dàng trong vấn đề giải quyết các thứ xung khắc cũng như vấn đề phát triển việc tôn trọng sự sống và tất cả mọi con người”.

ĐTC nhấn mạnh rằng “Giáo Hội, ý thức được vai trò tôn giáo cần phải đóng trong việc liên kết thứ văn hóa sống chung, tương kiến và chủ động hợp tác, muốn phát triển sứ vụ hòa bình, bằng cách kêu gọi mọi người hãy lãnh nhận trách nhiệm lo cho kẻ khác để xây dựng một thế giới công bằng hơn, hiệp nhất hơn và tự do hơn. Chứng từ này đã được bày tỏ bởi một cộng đồng Công Giáo tuy nhỏ song sinh động ở Libya, một cộng đồng muốn tiếp tục hoạt động của mình, bằng việc vun trồng tinh thần hiệp thông huynh đệ, phục vụ tha nhân, qua sự hiện diện chuyên biệt và yêu thương”.

Sau khi đã ngỏ lời cám ơn thẩm quyền và toàn dân Libyan đã tỏ ra tôn trọng việc truyền giáo của Giáo Hội, ĐTC đã nói: “Ý muốn chân tình hợp tác làm nên nền tảng của việc cộng tác tốt đẹp giữa các tín hữu cũng như giữa tất cả loài người. Điều này đặc biệt cần thiết cho các tín đồ Hồi giáo và Kitô giáo. Khi đương đầu với những nỗ lực làm méo mó sai lệch tôn giáo cũng như những nỗ lực sử dụng bất hợp pháp những truyền thống linh thánh, thì cần phải nhớ rằng những việc đưa đến bạo lực và thiếu tôn trọng sự sống con người là những việc làm chống lại Thiên Chúa và con người”.

 

ĐTC với vị tân lãnh sự Nhật Bản về vai trò quốc tế của nước này

Sáng nay, Thứ Sáu 30/5/2003, ĐTC đã tiếp nhận ông tân lãnh sự Nhật Bản là Gunkatsu Kano. Qua bài diễn từ của mình, ĐTC ngỏ lời chào hoàng gia, các vị lãnh đạo trong chính quyền cùng nhân dân Nhật Bản, đặc biệt với những ai bị nạn trong cuộc động đất vừa qua. ĐTC cũng nhận định là Nhật Bản đã tha thiết ra sao với “việc phục vụ nền hòa bình. Tình hình thế giới hiện nay vẫn còn đang ở trong tình trạng đáng lo ngại, một tình hình được đánh dấu bằng việc tái diễn những thứ căng thẳng ở nhiều nơi khác nhau trên mặt đất này cũng như bằng việc tái phát những hoạt động khủng bố. Tuy nhiên, tình hình vừa căng thẳng lẫn khủng bố này không được làm nhụt nhuệ khí của những ai dấn thân tìm kiếm những giải pháp ôn hòa cho những xung khắc ấy. Cần phải theo đuổi thực hiện những nỗ lực liên quan một cách đặc biệt đến việc tiến triển, cân bằng và kiểm soát vấn đề loại trừ các thứ vũ khí đại công phá, cũng như việc giải giới và thôi leo thang vũ khí nguyên tử. Vấn đề là cộng đồng quốc tế phải thường xuyên vận động để, ở cả lãnh vực địa phương lẫn thế giới, thực hiện các biện pháp thích hợp hầu ngăn ngừa xẩy ra những cuộc tấn công khả dĩ, những cuộc tấn công mà không có những biện pháp ấy tác hại đến nhưnõng nhu cầu nền tảng của thành phần dân chúng trong cuộc, đưa họ đến chỗ thê thảm và thất vọng”.

ĐTC còn nhấn mạnh đến một quốc gia Nhật Bản có “những truyền thống về đạo giáo và triết lý phong phú là những gì chất chứa những nguồn mạch thiêng liêng có khả năng phấn khích một cách hiệu nghiệm nỗi ước mong thiết tha trong việc hoạt động cho hòa bình cũng như trong việc hòa giải giữa các cộng đồng và giữa các ngôi vị con người với nhau”. Ngài còn nhắc lại là “hình ảnh đau thương về hai thành phố Hiroshima và Nagasaki nhắc nhở chúng ta nhớ lại những lời của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói là: ‘Đừng bao giờ đánh nhau nữa!’”.

Thế rồi Ngài cũng đề cập đến vai trò của Nhật Bản trong việc hợp tác về kinh tế với các quốc gia khác ở Á Châu, và vai trò chủ động của Nhật Bản cùng với các nước này nơi “vấn đề cổ võ các dân tộc”, nhất là vấn đề “bảo vệ môi trường và chăm sóc các tài nguyên thiên nhiên”, một vấn đề sẽ được Nhật Bản đứng ra tổ chức trong một cuộc triển lãm quốc tế vào năm 2005.

Ở phần kết của bài diễn từ của mình, ĐTC cũng không quên đề cập tới một cộng đồng Công Giáo ở Nhật tuy nhỏ nhưng chủ động, ở chỗ, ngoài việc giúp cho nhiều người di dân đến Nhật để tìm kiếm “việc làm, phẩm giá và niềm hy vọng” chống lại “hiện tượng kỳ thị” và bất lợi cho “thành phần yếu kém nhất” trong xã hội…, Giáo Hội cũng muốn dạy giúp cho các thế hệ trẻ, “đặc biệt qua việc giáo dục toàn diện ở học đường cũng như ở các đại học đường”, để họ có thể “phát triển về nhân bản, tinh thần, luân lý và dân sự, nhờ đó họ có thể đóng vai trò tích cực trong đời sống của quốc gia họ”.

 

ĐTC với 12 vị lãnh sự mới về đường lối xây dựng hòa bình

Sáng Thứ Năm 15/5, tại Sảnh Đường Clementine, Đức Thánh Cha đã tiếp nhận 12 tân lãnh sự của các quốc gia được liệt kê như sau: Ông Joseph Herron nước Úc Đại Lợi; Kelebert Nkomani nước Zimbabwe; Siba Nasser nước Syria; Leari Edgar Rousseau nước Trinidad và Tobago; Negash Kebret nước Ethiopia; Alberts Sarkanis nước Latvia; Emitai Lausiki Boladuadua nước Fiji Islands; Terence Nsanze nước Burundi; Alexander Chikvaidze nước Georgia; Michel Rittie nước Vanuatu; Mihail Laur nước Moldova và Fauzia Abbas nước Pakistan. Ngài đã gửi cho mỗi vị một văn bản riêng liên quan đến quốc gia của họ. Tuy nhiên, ĐTC cũng đã dùng Pháp ngữ để ngỏ lời chung với các vị này. Đức Thánh Cha đã mở lời bằng nhận định:

“Thế giới của chúng ta đang trải qua một thời điểm khốn khó, được đánh dấu bằng nhiều cuộc xung đột mà quí vị là những quan sát viên theo dõi. Thời điểm này đang làm phiền đau nhiều người nên Tôi xin các vị lãnh đạo quốc gia hãy dấn thân hơn nữa cho hòa bình. Về khía cạnh này việc ngoại giao cần phải tái nhận thức được mục đích cao quí của nó. Thật vậy, việc chú trọng tới con người và các dân tộc cũng như việc lưu ý đến vấn đề đối thoại, huynh đệ và đoàn kết là nền tảng của sinh hoạt ngoại giao cũng như của các tổ chức lãnh trách nhiệm cổ võ đặc biệt vấn đề hòa bình, một trong những sự thiện quí giá nhất đối với cá nhân, dân tộc, và đối với cả các Quốc Gia hoàn toàn lệ thuộc việc phát triển bền vững vào sự an ninh và hòa hợp”.

Đức Thánh Cha nhắc lại việc kỷ niệm mừng 40 năm Thông Điệp Pacem in Terris” của Đức Gioan XXIII đã từng là một nhà ngoại giao của Tòa Thánh, vị đã qua văn kiện này kêu gọi các nhà lãnh đạo hãy xây dựng xã hội “trên ‘bốn cột trụ’ là sự thật, công lý, yêu thương và tự do. Hòa bình không thể hiện thực ở chỗ khinh dể con người và các dân tộc; nó được xây dựng khi mà hết mọi người trở thành đồng bạn và những vai chính trong việc xây dựng một xã hội quốc gia.

“Từ giai đoạn của những cuộc đại xung đột trên thế giới mà cộng đồng quốc tế đã dấn thân bằng những tổ chức và pháp luật đặc biệt để chiến tranh không bao giờ còn xẩy ra nữa, thứ chiến tranh sát hại thành phần dân sự vô tội, tàn phá các miền đất và gây ra những vết thương cần phải một thời gian lâu mới chữa lành được. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc hơn bao giờ hết được kêu gọi giữ vai trò chính yếu đối với những quyết định liên quan đến việc tái thiết các quốc gia, và các tổ chức nhân đạo cũng được mời gọi để tái thực hiện việc dấn thân của mình. Vấn đề này sẽ giúp cho những người bị hoạn nạn nhanh chóng đảm trách định mệnh của mình, từ chỗ bất ổn đến chỗ dấn thân xây đắp tương lai của họ. Ngoài ra để tin tưởng thì điều kiện bất khả thiếu là hãy quay về với cốt lõi của xứ sở.

“Sau hết, Tôi kêu gọi tất cả mọi con người tin theo đạo giáo làm sao để vấn đề thiêng liêng và tôn giáo thành nguồn mạch hiệp nhất và bình an, và để chúng không bao giờ khiến con người đi đến chỗ chống đối nhau. Tôi không thể quên được thành phần trẻ em và giới trẻ, thành phần thường bị ảnh hưởng nặng nhất bởi những trường hợp xung đột. Vì rất khó lòng quên được những gì chúng cảm nghiệm thấy, chúng có thể bị lôi cuốn vào bạo lực. Nhiệm vụ của chúng ta là sửa soạn cho chúng một tương lai hòa bình và một mảnh đất của tình đoàn kết huynh đệ”. Trong việc bày tỏ “những mối quan tâm này của Giáo Hội Công Giáo”, ĐTC đã cho biết Giáo Hội “tham gia vào sinh hoạt quốc tế, vào những mối liên hệ giữa dân chúng cũng như vào những quan tâm về nhân đạo, là những gì thể hiện sứ vụ nguyên thủy của Giáo Hội, để bày tỏ việc Thiên Chúa gần gũi với mỗi một người và hết mọi người”.

Với vị tân lãnh sự nước Úc về nhãn quan hy vọng

……….. “Những lý tưởng chung và những giá trị nhân bản mà cả Tòa Thánh lẫn Úc Đại Lợi đang tìm cách đối đầu với các vấn đề tấn công nhân loại ngày nay cần phải tiếp tục làm vang vọng ngay ở nơi những xã hội sặc mùi cá nhân chủ nghĩa và tục hóa. Về vấn đề này, sứ vụ ngoại giao của Tòa Thánh tìm cách trình bày một nhãn quan hy vọng trước một thế giới càng ngày càng bị phân ly chia rẽ. Việc Tòa Thánh dấn thân cho mục đích này, được thể hiện qua việc Giáo Hội bênh vực phẩm giá sự sống con người và cổ võ nhân quyền, công bằng xã hội và tình đoàn kết, phát xuất từ việc nhận thức nguồn gốc chung của tất cả mọi dân tộc và hướng đến định mệnh chung của họ. Về khía cạnh này thì chiều kích siêu việt của đời sống đang hoạt động để đối đầu với các khuynh hướng đưa đến tình trạng phân mảnh xã hội và bị cô lập quá buồn thảm đang thịnh hành ở nhiều xã hội ngày nay……..

“Những hành động đoàn kết không phải chỉ là những hành động nhân đạo đơn phương theo chủ ý tốt lành. Chủ nghĩa nhân đạo thực sự là chủ nghĩa nhìn nhận và thể hiện dự án đại đồng của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chỉ khi nào có nhãn quan về tình đoàn kết đại đồng này thì những thách đố phức tạp về công lý, về quyền tự do của dân chúng và về nền hòa bình của nhân loại mới có thể thực hiện một cách hiệu nghiệm (x Familiaris Consortio, 48). Ở tâm điểm của nhãn quan này là niềm tin tưởng rằng tất cả mọi con người nam nữ được Thiên Chúa ban cho phẩm vị thiết yếu và chung nhau cũng như ban cho khả năng trổi vượt trên hết mọi lãnh vực xã hội để tiến đến sự thật và sự thiện (x Centesimus Annus, 38). Chính trong ý nghĩa này mà những cuộc trao đổi và tình bằng hữu của quí vị với những quốc gia ở phía bắc không có cùng một gia sản Kitô giáo mới có được một nền tảng xứng hợp và vững chắc. Cũng thế, chỉ có quan điểm về niềm hiệp nhất thiết yếu này của nhân loại mà những khó khăn thử thách liên quan đến việc tiếp nhận những người tị nạn cũng như đến vấn đề lòng thòng về quyền lợi đất đai của dân bản xứ mới tìm thấy những giải quyết cảm thương và thực sự nhân đạo.

“Ngài đã nhận thấy là tính cách dung nhượng là một đặc tính khác của nhân dân Úc Đại Lợi. Thật vậy, đặc tính này đã làm cho nhiều người quí mến quê hương của quí vị và phản ảnh nơi việc hội nhập của những cộng đồng đa chủng hiện nay đang có ở đó. Tuy nhiên, việc tôn trọng xứng hợp với tất cả mọi ngươiụi không chỉ bắt nguồn từ sự kiện khác nhau giữa các dân tộc. Việc hiểu biết bản chất đích thực của sự sống như là một quà tặng đòi hỏi con người nam nữ phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý do Thiên Chúa trang bị cho họ (x Centesimus Annus, 38). Trong khi việc chính trị chú trọng đến chủ thể tính của con người tập trung vào các thứ quyền lợi của con người thì đôi khi xẩy ra là khuynh hướng về ‘cái đúng đắn chính trị’ dường như không lưu ý tới vấn đề ‘con người nam nữ được kêu gọi hướng bước tiến của mình về một sự thật trổi vượt hơn họ’ (Fides et Ratio, 5). Tách khỏi sự thật này, một sự thật là bảo đảm duy nhất cho tự do và hạnh phúc, con người sẽ gặp khốn đốn với sự xoay vần cũng như với chiều hướng đa tạp, dần dần mất đi khả năng hướng mắt về những đỉnh cao ý nghĩa của đời sống con người.

“Ở Úc Đại Lợi, cũng như ở nhiều xứ sở khác, cuộc đối chọi trong việc làm sao để chọn lựa một lối sống liên quan tới dự án của Thiên Chúa đối với loài người đang bị khuynh đảo nơi đời sống hôn nhân và gia đình. Tính cách thánh hảo của hôn nhân phải được cả cơ cấu tôn giáo và dân sự nâng đỡ. Những thứ lệch lạc về trần tục và thực nghiệm nơi thực tại về hôn nhân không bao giờ có thể làm lu mờ đi ánh quang rạng ngời của một thứ giao ước trọn đời phát xuất từ tình yêu quảng đại hiến thân và vô tư. Nhãn quan sáng ngời về hôn nhân và đời sống gia đình vững chắc cống hiến cho toàn khối xã hội một nền tảng mà các ước vọng của một quốc gia cần phải bám víu lấy.

“Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo ở Úc Đại Lợi sẽ tiếp tục nâng đỡ đời sống gia đình, một cơ cấu là đường lối cho nhân loại tiến đến tương lai (x Familiaris Consortio, 86). Giáo Hội đã hết sức dấn thân vào việc đào luyện về tinh thần cũng như kiến thức cho giới trẻ, nhất là qua các học đường của mình. Ngoài ra, việc tông đồ xã hội của Giáo Hội còn vươn tới cả những ai đang phải đối diện với một số những vấn đề trầm trọng của xã hội tân tiến như rượu chè, hút sách, nghiện ngập, và Tôi tin rằng Giáo Hội sẽ tiếp tục hăng say đáp ứng với những thách đố mới phát xuất trong xã hội”…….

Với vị tân lãnh sự nước Zimbabwe về toàn cầu hóa giá trị

…….. “Trong việc hoạt động với các phần tử khác của cộng đồng quốc tế, Tòa Thánh nỗ lực hỗ trợ hòa bình và hòa hợp nơi các dân tộc, bao giờ cũng nhắm đến công ích cũng như đến việc phát triển toàn diện cá nhân và các quốc gia. Công việc ngoại giao hiện nay càng ngày càng phải đương đầu với những khó khăn của vấn đề toàn cầu hóa và theo đó là những đe dọa mới cho nền hòa bình thế giới. Những vấn đề chính không còn là vấn đề chủ quyền về lãnh thổ nữa, tức về ranh giới và pháp giới nơi một số miền đất, cho du ụ ở một số nơi vẫn còn gặp rắc rối trục trặc. Nói chung, những đe dọa cho sự bền vững cũng như cho nền hòa bình trên thế giới ngày nay đó là tình trạng quá bần cùng, tình trạng chênh lệch về xã hội, tình trạng băng hoại về chính trị và lạm dụng quyền bính, những căng thẳng về sắc tộc, tình trạng thiếu dân chủ, tình trạng không biết tôn trọng nhân quyền. Đây là một số trường hợp cần phải được hoạt động ngoại giao đề cập tới.

“Không có một quốc gia nào trên thế giới mà lại không phải đối đầu với một hay nhiều vấn đề này. Đó là lý do mà những giá trị về dân chủ, về việc cai trị tốt đẹp, về nhân quyền, về đối thoại và về hòa bình cần phải được các vị lãnh đạo và các dân tộc ôm ấp. Các thứ giá trị này càng làm nên căn bản cho cái tinh túy của một quốc gia thì quốc gia ấy càng có khả năng xây dựng một tương lai xứng đáng cho phẩm giá con người công dân của mình. Ngoài ra, vấn đề toàn cầu hóa cho những thứ giá trị này cho thấy một thứ toàn cầu hóa tình đoàn kết là thứ toàn cầu hóa nhắm đến việc bảo đảm là tất cả mọi người trên hoàn vũ đều được hoan hưởng những thiện ích về kinh tế và xã hội. Đây là đường lối vững chắc để hoạt động cho hòa bình trên thế giới ngày nay. Ngược lại, một khi những thứ giá trị ấy bị loại trừ, hay tệ hơn nữa, bị vi phạm, thì không có một chương trình cải tiến nào về kinh tế hay xã hội sẽ đạt được hoa trái lâu bền. Thay vào đó, tình trạng bạo động về xã hội và chính trị sẽ từ từ tăng phát, khoảng cách giữa giầu nghèo sẽ càng lan rộng hơn, và chính vai trò lãnh đạo chính quyền sẽ không thể nào tạo nên được một môi trường thuận lợi cho sự thật, công lý, yêu thương và tự do.

“Bởi thế, cần phải hết sức khôn ngoan tỉnh táo trong việc bảo toàn các thứ quyền lợi và bảo vệ tình trạng phúc hạnh cho tất cả mọi người công dân. Các thẩm quyền dân sự cần phải tránh hành sử một cách thiên vị, tránh đối xử theo ý thích hay theo công lý tùy nghi thiên về một số cá nhân hay phái nhóm nào đó; điều này hết sức tác hại đến uy tín của những ai có trách nhiệm cai trị. Trong Bức Thông Điệp nổi tiếng của mình là Bình An Dưới Thế, Chân Phước Giáo Hoàng XXIII, vị tiền nhiệm của Tôi, khi trích lời Đức Lêô XIII, đã tóm tắt tình trạng ấy thế này: ‘Quyền lực dân sự không được phục vụ cho lợi lộc của bất cứ cá nhân nào hay của một số người nào, vì nó được thiết lập cho công ích của tất cả mọi người” (đoạn 56). Thật vậy, khi hết mọi người được đối xử bằng nhau thì giá trị, các tặng ân và tài năng của mỗi một phần tử càng dễ được nhìn nhận và càng góp phần hiệu nghiệm vào việc xây dựng cộng đồng. Sự khôn ngoan cổ kính được lưu truyền nơi một câu cách ngôn Phi Châu đã nói rằng: Gunwe rimwe haritswanyi inda ‘chung vai sát cánh thì việc nhẹ nhàng’”……….

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của VIS và Zenit ngày 15/5/2003

Với vị tân lãnh sự nước Latvia về các giá trị nhân bản

……..”Giáo huấn xã hội của Công Giáo, căn cứ vào những nguyên tắc phổ quát trong việc bảo đảm công lý và hòa bình giữa các cá nhân cũng như giữa các phái nhóm, nhìn nhận vai trò tích cực của các lực lượng chính trị và kinh tế nơi sinh hoạt của một quốc gia. Thế nhưng, để thực hiện việc thực sự tiến bộ, những lực lượng này cần phải hết sức lệ thuộc vào những đòi hỏi quan trọng hơn của vấn đề công lý xã hội, nhân quyền và công ích. Có thế, phẩm giá của con người mới được bênh vực, tình đoàn kết giữa các cá nhân cũng như giữa các phái nhóm mới được khuyến khích, sự hòa hợp và thịnh vượng xã hội mới được duy trì. Tóm lại, ‘tình trạng phúc hạnh về vật chất cũng như tinh thần của nhân loại, việc bảo vệ tự do và quyền lợi của con người, việc phục vụ vô tư cho cộng đồng, việc lưu ý tới những điều kiện cụ thể: tất cả đều là những gì cần phải có trước mọi dự án chính trị và là những gì tạo nên một nhu cầu luân lý tự bản chất của nó bảo đảm cho nền hòa bình ở các quốc gia cũng như nền hòa bình giữa các quốc gia” (Speech to the Diplomatic Corps accredited to the Holy See, 13 January 2003, 6).

“Các thứ giá trị chúng ta đang nói đến ở đây không có gì là xa lạ đối với quốc gia của ngài, bởi vì ngay từ thế kỷ 12, khi Thánh Meinhard, vị Tông Đồ nước Latvia, rao giảng Phúc Âm ở đất nước của ngài thì những lý tưởng này đã được đan kết thành chính tấm vải đời sống quốc gia của ngài. Chúng cần phải được củng cố và phát triển hơn nữa để nước Latvia tiếp tục cuộc hành trình của mình vào Ngàn Năm Thứ Ba cũng như để đất nước của ngài sửa soạn trở thành một phần tử thực thụ của một Khối Hiệp Nhất Âu Châu vươn rộng. Về vấn đề này, Tôi cảm thấy hài lòng trước việc nhận định của ngài về ảnh hưởng sâu xa Kitô giáo đã tác dụng nơi văn hóa và lịch sử Âu Châu. Thật vậy, Kitô giáo đặc biệt hãnh diện về việc đóng góp những giá trị sẽ khuôn đúc và gắn bó cho một tân Âu Châu: vì “một Âu Châu ruồng bỏ quá khứ của mình, một Âu Châu phủ nhận sự kiện về tôn giáo, và một Âu Châu không có chiều kích linh thiêng sẽ hoàn toàn trở thành nghèo nàn đối với dự án tham lam cần vận dụng tất cả nghị lực của nó trong việc kiến tạo nên một thứ Âu Châu cho tất cả mọi người” (cùng nguồn vừa dẫn).

“Chính vì thế mà Tòa Thánh tha thiết xin là Bản Hiệp Định Hiến Chế của Khối Hiệp Nhất Âu Châu phải chất chứa nơi Lời Mở Đầu của nó chi tiết rõ ràng về tôn giáo cũng như về gia sản Kitô giáo của Âu Châu. Thật vậy, điều đáng mong ước là, với hết lòng tôn trọng chính quyền trần thế, bản Hiến Pháp này phải công nhận ba yếu tố bổ túc sau đây: thứ nhất là tầm quan trọng của quyền tự do tôn giáo, chẳng những nơi các khía cạnh cá nhân cũng như tập thể của nó, mà còn nơi chiều kích cơ cấu của nó nữa; thứ hai là nhu cầu trao đổi và tham vấn giữa Khối Hiệp Nhất Âu Châu và các cộng đồng tín hữu; thứ ba là việc tôn trọng tình trạng pháp lý đã được thừa hưởng bởi các Giáo Hội và các cơ cấu tôn giáo ở các Quốc Gia hội viên trong Khối Hiệp Nhất này. Ba yếu tố liên hệ này sẽ giúp cho tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng có thể tiếp tục thực hiện việc đóng góp bất khả thay thế vào các sinh hoạt cũng như vào các cơ cấu Âu Châu.

“Dĩ nhiên, gia đình vẫn là những gì thiết yếu cho bất cứ một chương trình tiến bộ thực sự nào cũng như cho việc phát triển toàn diện con người nào, ở Âu Châu cũng như ở bất cứ nơi nào. Trong bản Tuyên Ngôn Chung của Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền, gia đình được nhìn nhận như là “một nhóm đơn vị xã hội tự nhiên và nồng cốt” (Khoản 16.3). Đây là một sự thật chính yếu cho việc hiện hữu xã hội của loài người không được sơ xuất hay coi thường, vì bất cứ sự yếu kém nào xẩy ra nơi cơ cấu bất khả thiếu này không thể nào lại không trở thành nguồn gốc gây ra những khốn khó và vấn đề nghiêm trọng. Chẳng hạn, khi quan niệm duy thực dụng và duy vật về gia đình thịnh hành thì các phần tử của nó sẽ hướng chiều về những ước vọng duy ngã và thực hiện những đòi hòi cá nhân tác hại đến tình trạng hiệp nhất của gia đình cũng như làm suy yếu khả năng xây dựng mối hòa hợp và giáo dục tình đoàn kết. Ngược lại, ở đâu nhìn nhận gia đình tự bản chất là một giá trị thì các phần tử của nó mới thấy rằng thiện ích riêng tư của mình đi song song với nhiệm vụ của họ trong việc yêu thương, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.

“Đối với chính sự sống của con người cũng như sự sống của mỗi người cũng thế. Khi giá trị, phẩm giá và các thứ quyền lợi của con người được nâng đỡ và cổ võ thì tấm vải xã hội được bền chắc và những thứ ưu tiên của các dân tộc cùng các quốc gia được ở trong một trật tự xứng hợp. Đó là lý do tại sao Giáo Hội không bao giờ thôi nhắc nhở lương tâm con người là sự sống ở suốt chặng thời gian hiện hữu của nó, từ khi được hoài thai cho đến khi tự nhiên qua đi, phải được cương quyết và dứt khoát bênh vực. Cũng thế, con người ở suốt cuộc sống của mình, khi còn nhỏ, thành người lớn cũng như trong tuổi già, là một kho tàng vô giá cần phải được chăm sóc và nâng niu. Cả sự sống con người cũng như ngôi vị con người không thể nào được phép đối xử như là một đồ vật, như là một sở hữu, mà phải coi như những gì được Tạo Hóa trang bị cho bằng một phẩm vị cao sang nhất, một phẩm vị cần phải được hết sức tôn trọng và khôn khéo về phần các cá nhân, cộng đồng, quốc gia và cơ cấu quốc tế”……..

Với vị tân lãnh sự nước Fiji Islands về căn tính và đa diện

………..” Ngài đã thẳng thắn đề cập đến những khó khăn gây ra cuộc khủng hoảng về chính trị vào Tháng Năm 2000 cùng với ý muốn dứt khoát của nhân dân Fiji trong việc làm cho những cái khác nhau của họ thành một nguồn mạch làm phong phú lẫn nhau hơn là thành một động lực chia rẽ và đối chọi. Những nỗ lực được quốc gia của ngài thực hiện trong việc đương đầu với những thử thách xẩy ra cho tình trạng hiệp nhất quốc gia trong tinh thần thành kính, trao đổi và hợp tác xây dựng là những dấu hiệu tích cực cho thấy một cuộc sẵn sàng nhìn về tương lai bằng cả niềm tin tưởng và cương quyết. Vào thời điểm cuộc Tông Du của mình, Tôi đã phấn khích tất cả mọi người Fijian là “hãy theo đuổi những đường lối trao đổi sáng tạo và việc hiểu biết lẫn nhau” như phương tiện phát triển tình huynh đệ và khuôn đúc một căn tính chung (Homily in Suva, 21 November 1986). Thực sự loại “sáng tạo” này, một loại sáng tạo căn cứ vào việc kiên trì dấn thân chấp nhận và cảm nhận những khác nhau thực sự làm phân ly một số yếu tố ở xã hội Fijian trong môi trường hiệp nhất quốc gia, pháp lý hiến định và công lý luật pháp, cần phải làm chắc vững những quyết định chính trị đặc biệt của các vị lãnh đạo quốc gia nước ngài. Chắc chắn công việc mệt nhọc nhắm đến việc xây dựng một trật tự xã hội biết tôn trọng tính cách đa diện hợp lý trong một căn tính chung cũng như trong việc dấn thân cho công ích không thể nào chỉ được giới hạn vào những kích thước của pháp luật mà thôi, vì những kích thước về pháp luật này cho thấy là nhưnõng gì vô hiệu nếu chúng, trước hết và trên hết, không được căn cứ vào ý thức cũng như vào tinh hoa sống động của dân chúng (cf. Message for the 2001 World Day of Peace, No. 15).

“Trong một trật tự hoàn vũ đang thay đổi mau chóng, Tôi tin rằng những xã hội đa văn hóa và đa tôn giáo như nước Fiji có nhiều điều để cống hiến cho các quốc gia khác, vì họ có thể hỗ trợ cộng đồng quốc tế trong việc phát triển những kiểu mẫu hiệp nhất toàn cầu mới đa diện. Việc dân thân kiên trì cho vấn đề đối thoại giữa các tôn giáo, văn hóa và truyền thống khác nhau thực sự là “đường lối cần phải có để xây dựng một thế giới hòa đồng, một thế giới có thể tin tưởng nhìn về tương lai của mình” (cùng nguồn vừa dẫn). Bất chấp những khó khăn thách đố buồn thảm và có những lúc đối chọi kịch liệt, việc đối thoại trao đổi vẫn là một nhu cầu khẩn thiết về luân lý và là phương tiện duy nhất để khuôn đúc tình trạng hòa đồng chân thực và bền vững dựa vào việc tôn trọng lẫn nhau và hợp tác với nhau. Ván đề dấn thân vào con đường đối thoại trước hết được bắt nguồn từ niềm xác tín sâu xa là, bất chấp những khác biệt của mình, tất cả chúng ta đều chia sẻ cùng một sự hiệp nhất căn bản ở chỗ chúng ta cùng là con cái của Thiên Chúa và là phần tử của một gia đình nhân loại duy nhất. Tất cả mọi nền văn hóa, với những sự hết sức khác biệt và với những đặc tính chuyên biệt của chúng, tựu kỳ chung đều là những diễn đạt lịch sử năng động của mối hiệp nhất sâu xa này. Trong khi nhân dân Fiji đang hướng về tương lai, Tôi tin tưởng rằng họ sẽ khám phá ra những nền tảng sâu xa nhất cho căn tính quốc thể của họ, cho tới độ, họ nhìn nhận và bênh vực những chân lý và giá trị siêu việt là những gì hiệp nhất tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm, đó là việc tôn trọng phẩm giá của mỗi một con người và việc bảo vệ các thứ quyền lợi căn bản của con người; tình đoàn kết giữa các cá nhân và các dân tộc; và việc cổ võ công lý là điều mà thiết hụt sẽ không thể nào có được một thứ tự do chân thực hay một nền hòa bình bền vững”………….
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của VIS và Zenit ngày 16/5/2003

 

ĐTC với vị tân lãnh sự nước Slovakia và nói về tầm quan trọng của vấn đề Đối Thoại

Sáng Thứ Năm 19/12/2002, ĐTC đã tiếp nhận vị tân lãnh sự Slovakia là ông Dagmar Babcanova. Trong diễn từ của mình, ĐTC làm sáng tỏ vấn đề là Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội có nhiều tín hữu ở nước này, “thi hành sứ vụ của mình, hoàn toàn công nhận chủ quyền của Quốc Gia dân chủ này, với mục đích bảo tồn việc đối thoại thân ái và xây dựng trong việc tôn trọng phạm vi thẩm quyền của nhau hầu có thể đóng góp vào nền an sinh và tình trạng tiến bộ của quốc gia này. Việc đối thoại đây có một tầm mức quan trọng trong giai đoạn mà nước Slovakia, sau thời gian gay gắt bắt bớ, đang triển nở tự do và muốn đạt được một tình trạng thực sự tiến bộ về mọi lãnh vực. Vấn đề quan trọng ở đây là trong giai đoạn chuyển biến hỗn loạn này quí vị đừng chiều theo những hy vọng giả tạo bắt nguồn từ thuyết duy vật thực dụng và khuynh hướng thụ hướng quá độ. Tôi tin tưởng rằng nhân dân Slovakia, bằng việc tôn trọng truyền thống phong phú về những giá trị luân lý hằng làm nên đặc tính của họ, sẽ biết cách đương đầu với những nguy hiểm của một thứ tân tiến mù quáng trước những giá trị về tinh thần”. Nhắc đến việc nước này sẽ gia nhập Khối Hiệp Nhất Âu Châu, cùng với 9 nước khác vào tháng 5/2004, như Thượng Hội của Khối này ở Copenhagen tuần vừa rồi quyết định, ĐTC cho biết nhận định của Ngài về biến cố như sau: “Tôi tin rằng biến cố này sẽ giúp vào việc cống hiến cho một tân Âu Châu một đóng góp rất quan trọng về văn hóa và các giá trị, một việc đóng góp làm kiên vững ‘ngôi nhà chung’ của Lục Địa này. Cuộc hành trình phát triển dài do xứ sở này thực hiện trong 10 năm đây, mặc dù nó đã phải chịu đựng những vấn đề rắc rối, là bảo đảm cho một cuộc hội nhập tích cực vào những thắng lợi hỗ tương được những quốc gia Âu Châu khác chung vai sát cánh thực hiện”.

Ngoài ra, ĐTC còn liên kết tương lai của nước này nói chung và riêng việc gia nhập này nói riêng với giới trẻ nữa: “Người ta làm sao lại không thấy được nơi biến cố này một cơ hội cụ thể trong việc sử dụng hơn nữa nghị lực của họ để làm lợi cho công ích. Đó là nỗi ước ao tha thiết của Tôi, khi Tôi nhớ lại lòng nhiệt thành được giới trẻ Slovakia bày tỏ vào nhiều dịp khác nhau niềm vui cũng như lòng mong ước thiết tha họ ôm ấp trong lòng đối với tương lai. Được thăng tiến bởi một cuộc huấn luyện Kitô Giáo, họ mới có thể mang lại cho những người đương thời ở Lục Địa của mình này một chứng từ mãnh liệt về các giá trị phát xuất từ Phúc Âm, bằng việc họ chứng tỏ cho thấy cái hiệu năng xây dựng một xã hội công chính, hợp tác và hòa bình của họ. Tương lai của xã hội là do giới trẻ. Bởi thế nước này cần phải cống hiến cho họ một hỗ trợ không thể thiếu trong việc huấn luyện họ cũng như cho việc họ gia nhập lực lượng hoạt động”. Đối với việc huấn luyện này, ĐTC nhấn mạnh đến “việc huấn luyện cho có những tân gia đình vững chắc được đặt nền trên đời sống hôn nhân và hướng về sự sống… Đó là một trong những mục tiêu của được căn cứ vào Bản Hợp Đồng ký kết giữa Tòa Thánh và Cộng Hòa Slovakia trong năm 2000… Bầu khi mới do bản hợp đồng này có thể nuôi dưỡng việc hợp tác tốt đẹp hơn giữa thẩm quyền Quốc Gia và các vị mục tử Giáo Hội hầu mang lại công ích hơn nữa cho quốc gia này”.
 

ĐTC với 9 vị tân lãnh sự về vấn đề hòa bình

Sáng Thứ Sáu 13/12/2002, ĐTC đã tiếp nhận 9 vị tân lãnh sự và ngỏ lời với họ bằng tiếng Pháp. Các vị tân lãnh sự này là: Fode Maclean Dabor nước Sierra Leone; Marcia Gilberts- Roberts nước Jamaica; Praveen Lal Goyal nước Ấn Độ; Albert Owusu-Sarpong nước Ghana; Helga Hernes nước Na Uy; Emmanuel Kayitana Imanzi nước Ruanda và Jean-Pierre Razafy-Andriamihaingo nước Madagascar. Vấn đề chính Ngài nói với các vị này là vấn đề hòa bình.

“Hòa bình là một trong những sự thiện quí báu nhất cho cá nhân, các dân tộc và các quốc gia… Không có hòa bình, cá nhân hay gia đình, xã hội hay kinh tế không thể nào thực sự phát triển được. Hòa bình là trách nhiệm của mọi người, mong mỏi hòa bình không phải là dấu hiệu yếu kém mà là dấu hiệu mạnh mẽ”. Sau khi nhấn mạnh đến việc để đạt được hòa bình cần phải tôn trọng luật lệ quốc tế và trật tự, Ngài nói: “Ngoài ra, chúng ta phải lấy giá trị sâu xa của công ích cũng như phải hợp quần hành động để giải quyết những xung khắc ở các địa lục khác nhau”.

ĐTC nhận định là “tình trạng khốn khổ và bất công là cội rễ của bạo động và góp phần gây ra những xung đột ở từng vùng hay ở địa phương. Cộng đồng quốc tế được kêu gọi để làm những gì có thể nhờ đó những nỗi khổ đau này dần dần bị loại trừ, nất là bằng những phương tiện về nhân bản và vật chất giúp cho thành phần thiếu thốn nhất. Những tổ chức kinh tế địa phượng được hỗ trợ hơn nữa chắc chắn sẽ giúp cho các dân bản xứ có thể lo cho tương lai của họ”.

Ngài còn nhận định thêm thế này: “Nghèo khổ đang đè nặng trên thế giới hôm nay, đẩy tình trạng bền vững về chính trị, kinh tế và xã hội đến chỗ nguy hiểm… Mặc dù có Hội Nghị Quốc Tế ở Vienna năm 1993 về nhân quyền, phẩm giá con người và các quốc gia vẫn còn bị tấn công. Chúng ta phải nhìn nhận quyền lợi của mọi người cần phải có để họ được hưởng những gì cần sống cũng như hưởng lợi ích bởi số phần giầu thịnh của quốc gia…”. ĐTC đã kết thúc bằng lời kêu gọi cộng đồng quốc tế “hãy nghĩ lại vấn đề lưỡng diện liên quan đến việc phân phối giầu thịnh cũng như đến việc hỗ trợ bình đẳng về kỹ thuật và khoa học cho các nước nghèo, những việc là phận sự của các nước giầu”.

ĐTC với Vị Tân Lãnh Sự Bosnia-Herzegovina về Nền Hòa Bình cần phải có tinh thần thứ tha


Hôm Thứ Bảy 30/11/2002, trong buổi tiếp nhận vị tân lãnh sự Bosnia-Herzegovina là ông Iban Misic, một phóng viên và là nguyên thứ trưởng ngoại giáo Bosnia, ĐTC, sau khi nhắc lại cuộc xung đột đẫm máu xẩy ra tại nước này vào tiến bán thập niên 1990, khi Bosnia-Herzegovina độc lập khỏi quyền trị của Slobodan Milosevic-led Yugoslavia, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh là “cái vòng lẩn quẩn của ‘lầm lỗi’ và ‘hình phạt’ sẽ không bao giờ chấm dứt” nếu không biết thứ tha cho nhau. ĐTC xác tín là “dân chủ là một nhiệm vụ cần thiết đòi phải có tính cách luân lý, chân thành, cảm quan nhân bản, khôn ngoan, nhẫn nại, tôn trọng kẻ khác, sẵn lòng hòa giải bất cứ lúc nào công ích đòi hỏi, và một ý chí vững chắc để tiến hành chứ không phải để áp đặt quan điểm và tư tưởng của một người nào đó. Một nhiệm vụ như thế lâi càng khẩn thiết hơn nữa ở những xứ sở đa sắc tộc, đa văn hóa và đa tôn giáo như Bosnia-Herzegovina. Phải! Không dễ gì có thể thứ tha cho nhau, nhưng nó lại hết sức khẩn thiết cho thiện ích của tất cả mọi người. Thật sự những gì đã xẩy ra trong quá khứ khó lòng có thể quên được, song người ta vẫn có thể và phải giải thoát con tim của mình khỏi niềm chua xót đắng cay và thù hận. Hồi niệm về những lầm lỗi và bất công phải được nhớ lấy như là một nghiêm báo đừng tái diễn những việc ấy nữa, để tránh được những thảm trạng mới có thể còn tệ hại hơn thế nữa”.


Nhắc lại Hòa Ước Dayton 1995 chấm dứt cuộc xung đột, Đức Thánh Cha đề nghị: “Giờ đây vũ khi đã im hơi lặng tiếng”, nhưng “cần phải có những chương trình cụ thể để cổ võ việc đối thoại và hợp tác giữa những khối khác nhau trong xã hội dân sự, hoàn toàn tôn trọng căn tính của hết mọi khối. Chỉ có thế nền dân chủ mới có hồn sống là hoa trái của việc cảm nhận cũng như của những đặc thù về văn hóa, xã hội và tôn giáo thuộc các khối khác nhau ở Bosnia-Herzegovina hợp với công bằng, công lý và sự thật”. ĐTC còn nhận định mặc dù chiến tranh đã chấm dứt gần 7 năm nay, “vẫn chưa thấy những giải quyết cụ thể cho thảm kịch của nhiều người tị nạn và lưu đầy muốn trở về gia cư của họ. Những người này, như những người tị nạn và lưu đầy ở các miền khác, cảm thấy rằng họ không được quyền sống bằng an nơi mảnh đất quê hương của họ”. ĐTC còn đi sâu hơn nữa khi cho rằng những người này được quyền “lấy lại tài sản của mình là những gì họ đã bị mất mát bởi bạo lực trong cuộc chiến vừa rồi”.


Trong lời trình diện của mình, vị tân lãnh sự đã cám ơn ĐTC Gioan Phaolô II về việc Ngài tỏ ra giúp đỡ những người dân Bosnia-Herzegovina, một xứ sở chỉ có 3.9 dân cư mà hầu hết là người Hồi Giáo. Trước khi tạ từ, vị ngoại giao này còn mời ĐTC trở lại thăm quê hương xứ sở của ông, (sau lần Ngài đến Sarajevo vào Tháng Tư năm 1997): “Việc Đức Thánh Cha trở lại với Bosnia-Herzegovina sẽ là một kích động cho tất cả mọi người muốn xây dựng một cuộc sống an bình nơi quê hương xứ sở của họ”.

 

ĐTC với vị tân lãnh sự Haiti về yếu tố xây dựng và phát triển xứ sở

Vị tân lãnh sự Haiti này là ông Carl Henri Guiteau, 51 tuổi, đã từng là phụ tá tổng giám đốc các trường trung học toàn quốc. Nước này là nước nghèo nhất ở mạn Tây Bán Cầu, nhưng cũng đã được ĐTC viếng thăm vào năm 1983. Trong bài diễn từ của mình, ĐTC chia sẻ với vị tân lãnh sự đại diện nước này như sau:

“Để loại trừ những căn nguyên sâu xa gây ra tình trạng nghèo khổ và thất vọng, để mang lại cho con người phẩm giá chính yếu của họ, là một thánh vụ đối với tất cả mọi quốc gia, nhất là đối với những ai cai trị quốc gia. Theo chiều hướng này thì vấn đề đặc biệt quan trọng là việc thực hiện những quyết định về chính trị nơi vai trò lãnh đạo phải lấy thiện ích và việc phục vụ nhân dân Haiti làm mục tiêu của mình, không để cho mình bị chi phối bởi những thứ lợi lộc riêng tư hay kín đáo là những gì gây thiệt hại cho hoạt động tốt đẹp của các cơ cấu tổ chức cũng như kéo dài tình trạng bất quân bình”. ĐTC khuyến khích sử dụng “tất cả mọi đường lối thể hiện cũng như tất cả mọi sáng kiến có thể giúp cho nhân dân Haiti xây dựng xứ sở của họ và phát triển trên những con đường của một niềm hy vọng mới”.

ĐTC kêu gọi các dân nước Phi Châu hãy cùng nhau hoạt động

Sáng nay, Thứ Năm 10/10, ĐTC đã tiếp nhân vị tân lãnh sự nước Gabon là ông Desire Koumba. Ngài đã bày tỏ mối quan tâm của Ngài về Châu Phi nói riêng và tình hình thế giới nói chung như sau:

“Trong lúc lục địa này cứ tiếp tục phải đau thương gánh chịu những cuộc xung đột khác nhau gây ra cho nó, một lần nữa, Tôi tha thiết kêu gọi tất cả mọi người Phi Châu hãy cố gắng sát cánh hoạt động như anh em với nhau, để làm cho những mảnh đất của mình thành những nơi chốn đáng sống, ở đó, mỗi người đều có phần của mình nơi những nguồn lợi thiên nhiên…” ĐTC nói rằng các nhà lãnh đạo cần phải tạo điều kiện cho “một cuộc phát triển toàn vẹn được đánh dấu bằng tình đoàn kết. Theo chiều hướng ấy thì hết mọi phần tử thuộc cộng đồng quốc gia cần phải làm sao để có thể tham gia vào sinh hoạt dân sự, nhờ đó tình trạng pháp lý và các cơ cấu dân chủ mới được củng cố, những gì cần phải sốt sắng quan tâm đến việc phục vụ và thành tín quản trị công ích, đến việc tôn trọng con người cũng như những cộng đồng thiểu số, và đến việc bênh vực thành phần nghèo khổ nhất cũng như các gia đình”. Nhắc đến tình trạng bần cùng “nhiều quốc gia Phi Châu” đang phải chịu đựng, ĐTC kêu gọi “các thẩm quyền hợp pháp của những xứ sở này hãy theo đuổi cuộc chiến đấu với tất cả mọi hình thức nghèo khổ làm tiêu rụi những niềm hy vọng nơi các con người và các dân tộc, từ đó nuôi mầm bạo lực và quá khích đủ loại. Trong tinh thần ấy, Tôi cũng kêu gọi một nhiệt tình mới nơi việc hợp tác của quốc tế là những gì cần phải nghĩ lại theo văn hóa đoàn kết để chiến đấu với những tác hiệu tiêu cực gắn liền với vấn đề toàn cầu hóa”. Để cổ động “thứ luân thường đạo lý đoàn kết” này, ĐTC xin “cộng đồng thế giới hãy theo đuổi nỗ lực nâng đỡ những việc làm của địa phương liên quan đến vấn đề dân số, nhất là hãy nghĩ lại các món nợ của các nước Phi Châu”.

Tòa Thánh Vatican mời các vị lãnh sự thuộc Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác Âu Châu họp về tình hình Iraq và Nga, về bản Hiến Pháp Âu Châu và về Việc Phát Triển Khả Thủ.


Hôm Thứ Hai 16/9/2002 vừa qua, Tòa Thánh Vatican đã mời 55 vị lãnh sự đang làm việc với Tòa Thánh đến tham dự buổi họp đặc biệt, trong đó có cả hai lãnh sự Nga và Hoa Kỳ. Theo tờ nhật báo Il Corriere della Sera, ĐTGM Tauran, bộ trưởng ngoại giao của Tòa Thánh, đã gợi ba ý tưởng căn bản trước vấn đề sử dụng võ lực chống lại Iraq. Đó là, thứ nhất, một chiến tranh ngăn ngừa không phải là “phương tiện thích hợp” để loại trừ mối đe đọa do quân lực Iraq gây ra cũng như để có được một thứ hòa bình thực sự “chín mùi”; thứ hai, nếu sau đó tiến đến chỗ “việc sử dụng đến võ lực” thì cần phải được quyết định trong khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc; và thứ ba, một quyết định như vậy phải chú trọng đến những hậu quả của nó gây ra cho thành phần dân sự.


ĐTGM Tauran cũng nêu lên mối quan tâm của ĐTC trong việc tôn giáo là yếu tố hình thành lục địa Âu Châu đang bị loại trừ không cho vào bản hiến pháp Âu Châu, như Ngài đã lên tiếng trước phái đoàn ngoại giao với Tòa Thánh ngày 10/1/2002, cũng như nhiều lần với các vị lãnh sự Âu Châu trong tháng Chín này. Vấn đề Nga trục xuất những vị giáo sĩ thừa sai ngoại quốc cũng được ĐTGM bộ trưởng ngoại giao nêu lên, một vấn đề càng ngày càng trở nên trầm trọng, đã được vị Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh cho là “một cuộc bắt đạo thực sự”. Sau hết, về thành quả của Thượng Hội Thế Giới Về Phát Triển mới đây ở Nam Phi, ĐTGM cho biết Tòa Thánh hài lòng về “quyết tâm” của Thượng Hội này, song vẫn phàn nàn là vấn đề con người chưa được đặt làm tâm điểm của việc phát triển theo nh74ng nguyên tắc căn bản, dù Thượng Hội này không chấp nhận đề nghị của một số vị đại biểu muốn đưa việc phá thai vào toàn khối của bản dự án thực hiện.


Cuộc họp đặc biệt với các vị lãnh sự theo vùng như lần này cũng đã được thực hiện vào tháng 3 năm 1999, khi ĐHY Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano gặp gỡ các vị đại diện thuộc khối NATO và Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để bàn về cuộc khủng hoảng ở Balkan.

 


ĐTC với vị tân lãnh sự Uruguay

 

"Tình hình xã hội không được cải tiến chỉ duy bởi việc áp dụng những phương tiện về kỹ thuật. Cần phải đặc biệt chú trọng đến việc vun trồng các giá trị cũng như việc tôn trọng chiều kích luân thường đạo lý của con người, gia đình và xã hội nữa".


9/9 Thứ Hai, trong cuộc tiếp nhận vị tân lãnh sự Daniel Prez del Castillo 61 tuổi, ĐTC đã nhận định về tình hình nước này và đề nghị những nguyên tắc và đường lối thăng tiến liên quan đến phương diện luân lý như sau:


“Như lịch sử chứng tỏ cho thấy, một thể chế dân chủ mà thiếu những giá trị thì dễ dàng trở thành một thứ chuyên chế tỏ tường hay kín đáo”.


Nước Uruguay đang ở trong tình trạng suy thoái trầm trọng, nhất là sau cuộc suy sụp của nước Á Căn Đình vào tháng 12/2001, một biến cố đã làm ảnh hưởng đến ngành thương mại, du lịch và guồng máy tiền tệ của các nước lân bang. Chính phủ Uruguay hôm 30/7 đã phải đóng cửa các nhà băng 4 ngày, và 3 nhà băng tư cũng đã bị đóng cửa vì thiếu vốn. Theo ĐTC,


“Mặc dù có nhiều yếu tố phức tạp trong đó, mà một số phát xuất từ bên ngoài quốc gia, tình hình này dầu sao cũng phải đưa chúng ta tới chỗ bình tâm và thực tế nghĩ lại về những lý do đã gây ra hay đóng góp vào đó. Về khía cạnh này, thật là thích hợp để nhớ lại rằng tình hình xã hội không được cải tiến chỉ duy bởi việc áp dụng những phương tiện về kỹ thuật. Cần phải đặc biệt chú trọng đến việc vun trồng các giá trị cũng như việc tôn trọng chiều kích luân thường đạo lý của con người, gia đình và xã hội nữa. Cần phải nuôi dưỡng lòng chân thành, sự nề nếp, trách nhiệm đối với công ích, tình đoàn kết, tinh thần hy sinh và văn hóa hoạt động, để làm cho dân chúng được thực sự phát triển. Nhờ đó mới dễ dàng bảo đảm việc phát triển toàn diện tất cả mọi phần tử của cộng đồng quốc gia, làm cho không một người dân Uruguayan nào còn bị thiếu hụt những sản vật cần thiết để có thể phát triển như là một con người và là một người công dân. Trong những lúc gặp khốn khó và bị khủng hoảng lại càng phải chú trọng đến việc làm sao đừng để tiếp tục xẩy ra tình trạng suy đồi nơi những ai đã sống cảnh bần cùng dưới nhiều hình thức”.


ĐTC nhắc cho chính quyền xứ sở này rằng Giáo Hội có thể cộng tác với họ trong việc trợ giúp thành phần bất hạnh nhất. Giáo Hội “cung cấp cho thành phần túng thiếu một sự nâng đỡ về vật chất mà không hạ giá họ hay biến họ thành một đối tượng trợ giúp, song trợ giúp họ để họ có thể thoát khỏi tình trạng bất ổn, nâng đỡ phẩm vị làm người của họ”.

 

 


ĐTC với vị tân lãnh sự Hy Lạp về tình hình chung Âu Châu và Thế Vận Hội 2004


2/9 Thứ Hai, trong cuộc tiếp nhận vị tân lãnh sự Hy Lạp là Christos Botzios 63 tuổi, ĐTC đã đề cập đến hai vấn đề, thứ nhất là tình hình chung Âu Châu và thứ hai là Thế Vận Hội năm 2004 tại Hy lạp.


Trước hết, về tình hình chung Âu Châu, ĐTC tỏ ra lo ngại về khuynh hướng loại trừ tôn giáo ra khỏi diễn đàn chính trị và dân sự, vì tôn giáo là “những gì đã đóng góp và còn đang đóng góp cho nền văn hóa và nhân bản làm cho Âu Châu tự cảm thấy hết sức hãnh diện”. Ngài lập lại nhận định Ngài đã thẳng thắn nói với phái đoàn lãnh sự từ ngày 10/1/2002: “Tôi nghĩ rằng đó là một quan niệm bất công và sai lầm”. Ngài nhận định thêm: “Việc nhìn nhận một sự kiện lịch sử không thể chối cãi không hề có nghĩa là không để ý gì đến vai trò khẩn thiết nơi tính cách trần tục của các quốc gia cũng là của Âu Châu”. Bởi vì, đối với ĐTC, đức tin Kitô giáo là một trong “những yếu tố làm nên” quốc gia Hy Lạp và là “nguồn có thể mang lại sinh lực và những viễn ảnh tương lai cho việc kiến tạo Âu Châu. Tôi đã bày tỏ nhiều lần là mối quan tâm của Tôi… về sự kiện các cộng đồng tín hữu không được đề cập gì đến trong những vấn đề cần phải đóng góp vào việc suy nghĩ nơi Đại Công Đồng được thành lập ở thượng hội Laeken liên quan đến một Bản Hiến Pháp Âu Châu khả dĩ”.

 

Ngoài ra, ĐTC còn tỏ ra ủng hộ việc Khối Hiệp Nhất Âu Châu nên bao gồm cả các quốc gia trong vùng Balkan. Vì việc này “sẽ làm củng cố một thứ văn hóa của an bình và đoàn kết là một trong những ưu điểm của dự án Âu Châu”. Vị tân lãnh sự này cũng ngỏ lời cám ơn cả ĐTC lẫn ĐTGM Chính Thống Christodoulos ở Nhã Điển “đã chung tiếng cổ võ cho một Âu Châu toàn vẹn, bằng cách nhấn mạnh đến việc bảo trì những căn gốc Kitô giáo của Âu Châu”.


Sau nữa, về Thế Vận Hội 2004 tại Hy Lạp, ĐTC kêu gọi một cuộc hưu chiến khắp thế giới trong thời gian diễn tiến biến cố này, 13-29/8/2004 tại Hy Lạp. ĐTC bày tỏ ước nguyện của Ngài là biến cố này “sẽ cống hiến cơ hội cho một cảm nghiệm mới về tình huynh đệ trong việc chiến thắng hận thù, trong việc làm cho cá nhân cũng như các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Vào dịp này, Tôi kêu gọi một cuộc hưu chiến vững bền không còn xẩy ra bất cứ một thứ bạo động nào nữa, để tinh thần hòa bình và động lực lành mạnh, hợp với chủ ý của các nhà sáng lập Các Môn Chơi Thế Vận Hội, được lan tỏa vào tất cả mọi lãnh vực của xã hội cũng như nơi tất cả mọi lục địa. Tôi hy vọng rằng, trong một thế giới xáo trộn có những lần nghiêng ngửa này, biến cố thể thao đây sẽ là một biểu lộ hân hoan cho thấy mọi người đều thuộc về cùng một cộng đồng nhân loại, huynh đệ và tương trợ”.