ĐTC với tân lãnh sự các nước

2002

 

ĐTC với vị tân lãnh sự nước Slovakia và nói về tầm quan trọng của vấn đề Đối Thoại

Sáng Thứ Năm 19/12/2002, ĐTC đã tiếp nhận vị tân lãnh sự Slovakia là ông Dagmar Babcanova. Trong diễn từ của mình, ĐTC làm sáng tỏ vấn đề là Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội có nhiều tín hữu ở nước này, “thi hành sứ vụ của mình, hoàn toàn công nhận chủ quyền của Quốc Gia dân chủ này, với mục đích bảo tồn việc đối thoại thân ái và xây dựng trong việc tôn trọng phạm vi thẩm quyền của nhau hầu có thể đóng góp vào nền an sinh và tình trạng tiến bộ của quốc gia này. Việc đối thoại đây có một tầm mức quan trọng trong giai đoạn mà nước Slovakia, sau thời gian gay gắt bắt bớ, đang triển nở tự do và muốn đạt được một tình trạng thực sự tiến bộ về mọi lãnh vực. Vấn đề quan trọng ở đây là trong giai đoạn chuyển biến hỗn loạn này quí vị đừng chiều theo những hy vọng giả tạo bắt nguồn từ thuyết duy vật thực dụng và khuynh hướng thụ hướng quá độ. Tôi tin tưởng rằng nhân dân Slovakia, bằng việc tôn trọng truyền thống phong phú về những giá trị luân lý hằng làm nên đặc tính của họ, sẽ biết cách đương đầu với những nguy hiểm của một thứ tân tiến mù quáng trước những giá trị về tinh thần”. Nhắc đến việc nước này sẽ gia nhập Khối Hiệp Nhất Âu Châu, cùng với 9 nước khác vào tháng 5/2004, như Thượng Hội của Khối này ở Copenhagen tuần vừa rồi quyết định, ĐTC cho biết nhận định của Ngài về biến cố như sau: “Tôi tin rằng biến cố này sẽ giúp vào việc cống hiến cho một tân Âu Châu một đóng góp rất quan trọng về văn hóa và các giá trị, một việc đóng góp làm kiên vững ‘ngôi nhà chung’ của Lục Địa này. Cuộc hành trình phát triển dài do xứ sở này thực hiện trong 10 năm đây, mặc dù nó đã phải chịu đựng những vấn đề rắc rối, là bảo đảm cho một cuộc hội nhập tích cực vào những thắng lợi hỗ tương được những quốc gia Âu Châu khác chung vai sát cánh thực hiện”.

Ngoài ra, ĐTC còn liên kết tương lai của nước này nói chung và riêng việc gia nhập này nói riêng với giới trẻ nữa: “Người ta làm sao lại không thấy được nơi biến cố này một cơ hội cụ thể trong việc sử dụng hơn nữa nghị lực của họ để làm lợi cho công ích. Đó là nỗi ước ao tha thiết của Tôi, khi Tôi nhớ lại lòng nhiệt thành được giới trẻ Slovakia bày tỏ vào nhiều dịp khác nhau niềm vui cũng như lòng mong ước thiết tha họ ôm ấp trong lòng đối với tương lai. Được thăng tiến bởi một cuộc huấn luyện Kitô Giáo, họ mới có thể mang lại cho những người đương thời ở Lục Địa của mình này một chứng từ mãnh liệt về các giá trị phát xuất từ Phúc Âm, bằng việc họ chứng tỏ cho thấy cái hiệu năng xây dựng một xã hội công chính, hợp tác và hòa bình của họ. Tương lai của xã hội là do giới trẻ. Bởi thế nước này cần phải cống hiến cho họ một hỗ trợ không thể thiếu trong việc huấn luyện họ cũng như cho việc họ gia nhập lực lượng hoạt động”. Đối với việc huấn luyện này, ĐTC nhấn mạnh đến “việc huấn luyện cho có những tân gia đình vững chắc được đặt nền trên đời sống hôn nhân và hướng về sự sống… Đó là một trong những mục tiêu của được căn cứ vào Bản Hợp Đồng ký kết giữa Tòa Thánh và Cộng Hòa Slovakia trong năm 2000… Bầu khi mới do bản hợp đồng này có thể nuôi dưỡng việc hợp tác tốt đẹp hơn giữa thẩm quyền Quốc Gia và các vị mục tử Giáo Hội hầu mang lại công ích hơn nữa cho quốc gia này”.
 

ĐTC với Vị Tân Lãnh Sự Bosnia-Herzegovina về Nền Hòa Bình cần phải có tinh thần thứ tha


Hôm Thứ Bảy 30/11/2002, trong buổi tiếp nhận vị tân lãnh sự Bosnia-Herzegovina là ông Iban Misic, một phóng viên và là nguyên thứ trưởng ngoại giáo Bosnia, ĐTC, sau khi nhắc lại cuộc xung đột đẫm máu xẩy ra tại nước này vào tiến bán thập niên 1990, khi Bosnia-Herzegovina độc lập khỏi quyền trị của Slobodan Milosevic-led Yugoslavia, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh là “cái vòng lẩn quẩn của ‘lầm lỗi’ và ‘hình phạt’ sẽ không bao giờ chấm dứt” nếu không biết thứ tha cho nhau. ĐTC xác tín là “dân chủ là một nhiệm vụ cần thiết đòi phải có tính cách luân lý, chân thành, cảm quan nhân bản, khôn ngoan, nhẫn nại, tôn trọng kẻ khác, sẵn lòng hòa giải bất cứ lúc nào công ích đòi hỏi, và một ý chí vững chắc để tiến hành chứ không phải để áp đặt quan điểm và tư tưởng của một người nào đó. Một nhiệm vụ như thế lâi càng khẩn thiết hơn nữa ở những xứ sở đa sắc tộc, đa văn hóa và đa tôn giáo như Bosnia-Herzegovina. Phải! Không dễ gì có thể thứ tha cho nhau, nhưng nó lại hết sức khẩn thiết cho thiện ích của tất cả mọi người. Thật sự những gì đã xẩy ra trong quá khứ khó lòng có thể quên được, song người ta vẫn có thể và phải giải thoát con tim của mình khỏi niềm chua xót đắng cay và thù hận. Hồi niệm về những lầm lỗi và bất công phải được nhớ lấy như là một nghiêm báo đừng tái diễn những việc ấy nữa, để tránh được những thảm trạng mới có thể còn tệ hại hơn thế nữa”.


Nhắc lại Hòa Ước Dayton 1995 chấm dứt cuộc xung đột, Đức Thánh Cha đề nghị: “Giờ đây vũ khi đã im hơi lặng tiếng”, nhưng “cần phải có những chương trình cụ thể để cổ võ việc đối thoại và hợp tác giữa những khối khác nhau trong xã hội dân sự, hoàn toàn tôn trọng căn tính của hết mọi khối. Chỉ có thế nền dân chủ mới có hồn sống là hoa trái của việc cảm nhận cũng như của những đặc thù về văn hóa, xã hội và tôn giáo thuộc các khối khác nhau ở Bosnia-Herzegovina hợp với công bằng, công lý và sự thật”. ĐTC còn nhận định mặc dù chiến tranh đã chấm dứt gần 7 năm nay, “vẫn chưa thấy những giải quyết cụ thể cho thảm kịch của nhiều người tị nạn và lưu đầy muốn trở về gia cư của họ. Những người này, như những người tị nạn và lưu đầy ở các miền khác, cảm thấy rằng họ không được quyền sống bằng an nơi mảnh đất quê hương của họ”. ĐTC còn đi sâu hơn nữa khi cho rằng những người này được quyền “lấy lại tài sản của mình là những gì họ đã bị mất mát bởi bạo lực trong cuộc chiến vừa rồi”.


Trong lời trình diện của mình, vị tân lãnh sự đã cám ơn ĐTC Gioan Phaolô II về việc Ngài tỏ ra giúp đỡ những người dân Bosnia-Herzegovina, một xứ sở chỉ có 3.9 dân cư mà hầu hết là người Hồi Giáo. Trước khi tạ từ, vị ngoại giao này còn mời ĐTC trở lại thăm quê hương xứ sở của ông, (sau lần Ngài đến Sarajevo vào Tháng Tư năm 1997): “Việc Đức Thánh Cha trở lại với Bosnia-Herzegovina sẽ là một kích động cho tất cả mọi người muốn xây dựng một cuộc sống an bình nơi quê hương xứ sở của họ”.

 

ĐTC với vị tân lãnh sự Haiti về yếu tố xây dựng và phát triển xứ sở

Vị tân lãnh sự Haiti này là ông Carl Henri Guiteau, 51 tuổi, đã từng là phụ tá tổng giám đốc các trường trung học toàn quốc. Nước này là nước nghèo nhất ở mạn Tây Bán Cầu, nhưng cũng đã được ĐTC viếng thăm vào năm 1983. Trong bài diễn từ của mình, ĐTC chia sẻ với vị tân lãnh sự đại diện nước này như sau:

“Để loại trừ những căn nguyên sâu xa gây ra tình trạng nghèo khổ và thất vọng, để mang lại cho con người phẩm giá chính yếu của họ, là một thánh vụ đối với tất cả mọi quốc gia, nhất là đối với những ai cai trị quốc gia. Theo chiều hướng này thì vấn đề đặc biệt quan trọng là việc thực hiện những quyết định về chính trị nơi vai trò lãnh đạo phải lấy thiện ích và việc phục vụ nhân dân Haiti làm mục tiêu của mình, không để cho mình bị chi phối bởi những thứ lợi lộc riêng tư hay kín đáo là những gì gây thiệt hại cho hoạt động tốt đẹp của các cơ cấu tổ chức cũng như kéo dài tình trạng bất quân bình”. ĐTC khuyến khích sử dụng “tất cả mọi đường lối thể hiện cũng như tất cả mọi sáng kiến có thể giúp cho nhân dân Haiti xây dựng xứ sở của họ và phát triển trên những con đường của một niềm hy vọng mới”.

 

ĐTC kêu gọi các dân nước Phi Châu hãy cùng nhau hoạt động

Sáng nay, Thứ Năm 10/10/2002, ĐTC đã tiếp nhân vị tân lãnh sự nước Gabon là ông Desire Koumba. Ngài đã bày tỏ mối quan tâm của Ngài về Châu Phi nói riêng và tình hình thế giới nói chung như sau:

“Trong lúc lục địa này cứ tiếp tục phải đau thương gánh chịu những cuộc xung đột khác nhau gây ra cho nó, một lần nữa, Tôi tha thiết kêu gọi tất cả mọi người Phi Châu hãy cố gắng sát cánh hoạt động như anh em với nhau, để làm cho những mảnh đất của mình thành những nơi chốn đáng sống, ở đó, mỗi người đều có phần của mình nơi những nguồn lợi thiên nhiên…” ĐTC nói rằng các nhà lãnh đạo cần phải tạo điều kiện cho “một cuộc phát triển toàn vẹn được đánh dấu bằng tình đoàn kết. Theo chiều hướng ấy thì hết mọi phần tử thuộc cộng đồng quốc gia cần phải làm sao để có thể tham gia vào sinh hoạt dân sự, nhờ đó tình trạng pháp lý và các cơ cấu dân chủ mới được củng cố, những gì cần phải sốt sắng quan tâm đến việc phục vụ và thành tín quản trị công ích, đến việc tôn trọng con người cũng như những cộng đồng thiểu số, và đến việc bênh vực thành phần nghèo khổ nhất cũng như các gia đình”. Nhắc đến tình trạng bần cùng “nhiều quốc gia Phi Châu” đang phải chịu đựng, ĐTC kêu gọi “các thẩm quyền hợp pháp của những xứ sở này hãy theo đuổi cuộc chiến đấu với tất cả mọi hình thức nghèo khổ làm tiêu rụi những niềm hy vọng nơi các con người và các dân tộc, từ đó nuôi mầm bạo lực và quá khích đủ loại. Trong tinh thần ấy, Tôi cũng kêu gọi một nhiệt tình mới nơi việc hợp tác của quốc tế là những gì cần phải nghĩ lại theo văn hóa đoàn kết để chiến đấu với những tác hiệu tiêu cực gắn liền với vấn đề toàn cầu hóa”. Để cổ động “thứ luân thường đạo lý đoàn kết” này, ĐTC xin “cộng đồng thế giới hãy theo đuổi nỗ lực nâng đỡ những việc làm của địa phương liên quan đến vấn đề dân số, nhất là hãy nghĩ lại các món nợ của các nước Phi Châu”.

Tòa Thánh Vatican mời các vị lãnh sự thuộc Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác Âu Châu họp về tình hình Iraq và Nga, về bản Hiến Pháp Âu Châu và về Việc Phát Triển Khả Thủ.


Hôm Thứ Hai 16/9/2002 vừa qua, Tòa Thánh Vatican đã mời 55 vị lãnh sự đang làm việc với Tòa Thánh đến tham dự buổi họp đặc biệt, trong đó có cả hai lãnh sự Nga và Hoa Kỳ. Theo tờ nhật báo Il Corriere della Sera, ĐTGM Tauran, bộ trưởng ngoại giao của Tòa Thánh, đã gợi ba ý tưởng căn bản trước vấn đề sử dụng võ lực chống lại Iraq. Đó là, thứ nhất, một chiến tranh ngăn ngừa không phải là “phương tiện thích hợp” để loại trừ mối đe đọa do quân lực Iraq gây ra cũng như để có được một thứ hòa bình thực sự “chín mùi”; thứ hai, nếu sau đó tiến đến chỗ “việc sử dụng đến võ lực” thì cần phải được quyết định trong khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc; và thứ ba, một quyết định như vậy phải chú trọng đến những hậu quả của nó gây ra cho thành phần dân sự.


ĐTGM Tauran cũng nêu lên mối quan tâm của ĐTC trong việc tôn giáo là yếu tố hình thành lục địa Âu Châu đang bị loại trừ không cho vào bản hiến pháp Âu Châu, như Ngài đã lên tiếng trước phái đoàn ngoại giao với Tòa Thánh ngày 10/1/2002, cũng như nhiều lần với các vị lãnh sự Âu Châu trong tháng Chín này. Vấn đề Nga trục xuất những vị giáo sĩ thừa sai ngoại quốc cũng được ĐTGM bộ trưởng ngoại giao nêu lên, một vấn đề càng ngày càng trở nên trầm trọng, đã được vị Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh cho là “một cuộc bắt đạo thực sự”. Sau hết, về thành quả của Thượng Hội Thế Giới Về Phát Triển mới đây ở Nam Phi, ĐTGM cho biết Tòa Thánh hài lòng về “quyết tâm” của Thượng Hội này, song vẫn phàn nàn là vấn đề con người chưa được đặt làm tâm điểm của việc phát triển theo nh74ng nguyên tắc căn bản, dù Thượng Hội này không chấp nhận đề nghị của một số vị đại biểu muốn đưa việc phá thai vào toàn khối của bản dự án thực hiện.


Cuộc họp đặc biệt với các vị lãnh sự theo vùng như lần này cũng đã được thực hiện vào tháng 3 năm 1999, khi ĐHY Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano gặp gỡ các vị đại diện thuộc khối NATO và Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để bàn về cuộc khủng hoảng ở Balkan.

 


ĐTC với vị tân lãnh sự Uruguay

 

"Tình hình xã hội không được cải tiến chỉ duy bởi việc áp dụng những phương tiện về kỹ thuật. Cần phải đặc biệt chú trọng đến việc vun trồng các giá trị cũng như việc tôn trọng chiều kích luân thường đạo lý của con người, gia đình và xã hội nữa".


9/9/2002 Thứ Hai, trong cuộc tiếp nhận vị tân lãnh sự Daniel Prez del Castillo 61 tuổi, ĐTC đã nhận định về tình hình nước này và đề nghị những nguyên tắc và đường lối thăng tiến liên quan đến phương diện luân lý như sau:


“Như lịch sử chứng tỏ cho thấy, một thể chế dân chủ mà thiếu những giá trị thì dễ dàng trở thành một thứ chuyên chế tỏ tường hay kín đáo”.


Nước Uruguay đang ở trong tình trạng suy thoái trầm trọng, nhất là sau cuộc suy sụp của nước Á Căn Đình vào tháng 12/2001, một biến cố đã làm ảnh hưởng đến ngành thương mại, du lịch và guồng máy tiền tệ của các nước lân bang. Chính phủ Uruguay hôm 30/7 đã phải đóng cửa các nhà băng 4 ngày, và 3 nhà băng tư cũng đã bị đóng cửa vì thiếu vốn. Theo ĐTC,


“Mặc dù có nhiều yếu tố phức tạp trong đó, mà một số phát xuất từ bên ngoài quốc gia, tình hình này dầu sao cũng phải đưa chúng ta tới chỗ bình tâm và thực tế nghĩ lại về những lý do đã gây ra hay đóng góp vào đó. Về khía cạnh này, thật là thích hợp để nhớ lại rằng tình hình xã hội không được cải tiến chỉ duy bởi việc áp dụng những phương tiện về kỹ thuật. Cần phải đặc biệt chú trọng đến việc vun trồng các giá trị cũng như việc tôn trọng chiều kích luân thường đạo lý của con người, gia đình và xã hội nữa. Cần phải nuôi dưỡng lòng chân thành, sự nề nếp, trách nhiệm đối với công ích, tình đoàn kết, tinh thần hy sinh và văn hóa hoạt động, để làm cho dân chúng được thực sự phát triển. Nhờ đó mới dễ dàng bảo đảm việc phát triển toàn diện tất cả mọi phần tử của cộng đồng quốc gia, làm cho không một người dân Uruguayan nào còn bị thiếu hụt những sản vật cần thiết để có thể phát triển như là một con người và là một người công dân. Trong những lúc gặp khốn khó và bị khủng hoảng lại càng phải chú trọng đến việc làm sao đừng để tiếp tục xẩy ra tình trạng suy đồi nơi những ai đã sống cảnh bần cùng dưới nhiều hình thức”.


ĐTC nhắc cho chính quyền xứ sở này rằng Giáo Hội có thể cộng tác với họ trong việc trợ giúp thành phần bất hạnh nhất. Giáo Hội “cung cấp cho thành phần túng thiếu một sự nâng đỡ về vật chất mà không hạ giá họ hay biến họ thành một đối tượng trợ giúp, song trợ giúp họ để họ có thể thoát khỏi tình trạng bất ổn, nâng đỡ phẩm vị làm người của họ”.

 

7/9/2002 Thứ Bảy


ĐTC Gioan Phaolô tiếp nhận vị tân lãnh sự Hiệp Vương Quốc (United Kingdom of Great Britain)

 

"Việc xây dựng một thứ văn hóa đoàn kết toàn cầu như vậy có lẽ là một công việc về luân lý lớn lao nhất đối với nhân loại hôm nay đây. Nó cho thấy đó là một thách đố đặc biệt về tinh thần cũng như về văn hóa đối với các nước phát triển Tây phương, nơi mà các nguyên tắc và các giá trị của Kitô giáo đã thêu dệt nên chính tấm vải xã hội này, một xã hội mà hiện nay đã gặp trục trặc bởi những kiểu mẫu văn hóa khác, theo chiều hướng cá nhân chủ nghĩa quá trớn, đi đến chỗ lạnh lùng dửng dưng, chủ trương khoái lạc, khuynh hướng hưởng thụ, và duy vật thực tiễn, là những gì có thể làm soi mòn, thậm chí đảo lộn nền tảng của đời sống xã hội".


Sau đây, trừ đoạn mở đầu chào hỏi và kết thúc chúc nguyện, là bài diễn từ của ĐTC ngỏ cùng vì tân lãnh sự Kathryn Frances Colvin của Hiệp Vương Quốc tại nhà nghỉ hè của Ngài ở Castel Gandolfo.
……
”Ngài đề cập đến cuộc khủng bố tấn công đáng tiếc hôm 11/9 năm vừa qua, cũng như đến nhiều tình hình bất công đang gây chú ý khắp thế giới, đã nhắc chúng ta nhớ rằng ngàn năm này vừa được mở màn cho thấy những thách đố lớn lao. Nó cần phải có một cuộc dấn thân cương quyết và dứt khoát về phần các cá nhân, dân tộc và quốc gia trong việc bảo vệ những quyền lợi và phẩm vị bất khả xúc phạm của hết mọi phần tử thuộc gia đình nhân loại. Nó đồng thời cũng đòi buộc phải xây dựng một thứ văn hóa đoàn kết toàn cầu, một thứ văn hóa được thể hiện chẳng những liên quan đến việc tổ chức hiệu nghiệm về kinh tế hay chính trị, mà còn, quan trọng hơn nữa, liên quan đến một tinh thần tương kính và cộng tác trong việc phục vụ cho công ích.


“Trong những năm gần đây, Chính Phủ của quí vị đã thực hiện những nỗ lực đáng kể trong việc đẩy mạnh một thứ văn hóa như thế, cũng như trong việc làm kiên cố những nền tảng của việc phát triển hòa bình và nhân bản quốc tế. Chẳng hạn, tôi nghĩ đến lòng quảng đại quí vị đã tỏ ra trong việc giảm bớt hay thậm chí hủy bỏ nợ nần quốc tế cho các quốc gia nghèo; vai trò dẫn đầu của quân đội Hiệp Vương Quốc trong việc mang lại nền an ninh cho tân chính phủ Afghanistan; cũng như vấn đề ưu tiên chú ý tới lục địa Phi Châu, đặc biệt được tỏ ra nơi những lời kêu gọi ở cuộc họp G-8 ở Canada vừa rồi đối với “Dự Án Tác Hành Phi Châu”. Tôi cũng biết ơn quí vị về việc quí vị tiếp tục cố gắng mang lại hòa bình và tình trạng bình thường cho Bắc Ái Nhĩ Lan.


“Bừng tỉnh trước cuộc tấn công khủng bố Tháng Chín vừa rồi, cộng đồng thế giới đã nhận thấy nhu cầu khẩn trương trong việc chiến đấu với hiện tượng khủng bố quốc tế được tài trợ đàng hoàng cũng như được tổ chức đâu vào đấy, một hiện tượng cho thấy mối đe dọa ghê rợn và cấp thời cho nền hòa bình thế giới. Được nung nấu bởi lòng hận thù, cô lập và mất lòng tin tưởng, việc khủng bố càng làm cho bạo lực chồng chất trên bạo lực trong một cơn lốc thê thảm làm cay đắng và đầu độc cho các thế hệ mai hậu. Trên hết, 'cuộc khủng bố được phát xuất từ việc khinh thường sự sống con người. Vì lý do này, nó chẳng những gây ra những tội ác không thể chấp nhận được, mà còn, vì nó sử dụng đến việc khủng bố như phương tiện chính trị và quân đội, tự mình nó thực sự là một tội ác phạm đến nhân loại' (Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002, đoạn 4).


“Như là một phần thiết yếu trong việc chiến đấu chống lại tất cả mọi hình thức khủng bố, cộng đồng thế giới được kêu gọi để đảm nhận những việc làm về chính trị, ngoại giao và kinh tế mới mẻ và sáng tạo, nhắm đến mục đích làm giảm bớt những tình trạng gương mù gây ra bởi nhiều bất công, đàn áp và loại trừ vẫn đang tiếp tục đè nén vô số phần tử thuộc gia đình nhân loại. Thật vậy, lịch sử chứng tỏ cho thấy rằng việc tuyển mộ những người khủng bố sẽ dễ dàng thành đạt ở những nơi nhân quyền bị chà đạp cũng như ở những nơi bất công hằng xẩy ra trong cuộc sống hằng ngày. Ở đây không có ý nói là những tình trạng chênh lệch và lạm dụng đang xẩy ra trên thế giới cho phép gây ra những hành động khủng bố: dĩ nhiên, không bao giờ được biện minh cho bạo lực và khinh rẻ sự sống con người cả. Tuy nhiên, cộng đồng quốc tế có thể đã không còn lơ là thiếu chú ý đến những nguyên nhân sâu xa đã dẫn riêng giới trẻ tới chỗ thất vọng về nhân loại, về chính đời sống cũng như về tương lai, và đến chỗ làm mồi ngon cho những khuynh hướng bạo động, hận thù và lòng mong muốn rửa hận bất chấp thủ đoạn.


“Chính vì quan tâm đến những vấn đề nhân bản sâu xa hơn này mà Tôi đã mời các vị lãnh đạo cùng với các vị đại diện các tôn giáo trên thế giới hiệp với Tôi ở Assisi Tháng Giêng vừa rồi để làm chứng một cách rõ ràng không mập mờ về những niềm xác tín chung của chúng ta liên quan đến mối hiệp nhất của gia đình nhân loại, cũng như đến trách nhiệm bó buộc riêng của các tín đồ đạo giáo trong việc cộng tác cùng với những con người nam nữ thiện chí khắp nơi để xây dựng một tương lai hòa bình. Thực sự niềm hy vọng hướng về một tương lai tốt đẹp hơn là ở chỗ hoán cải tâm hồn và canh tân tinh thần của các xã hội. Việc xây dựng một thứ văn hóa đoàn kết toàn cầu như vậy có lẽ là một công việc về luân lý lớn lao nhất đối với nhân loại hôm nay đây. Nó cho thấy đó là một thách đố đặc biệt về tinh thần cũng như về văn hóa đối với các nước phát triển Tây phương, nơi mà các nguyên tắc và các giá trị của Kitô giáo đã thêu dệt nên chính tấm vải xã hội này, một xã hội mà hiện nay đã gặp trục trặc bởi những kiểu mẫu văn hóa khác, theo chiều hướng cá nhân chủ nghĩa quá trớn, đi đến chỗ lạnh lùng dửng dưng, chủ trương khoái lạc, khuynh hướng hưởng thụ, và duy vật thực tiễn, là những gì có thể làm soi mòn, thậm chí đảo lộn nền tảng của đời sống xã hội.


“Đối diện với cuộc thách đố về văn hóa và tinh thần này, Tôi tin tưởng rằng cộng đồng Kitô hữu ở Hiệp Vương Quốc sẽ tiếp tục vang tiếng nói của mình lên ở những cuộc tranh luận lớn để hình thành tương lai xã hội, và tiếp tục cống hiến một chứng từ khả tín cho những niềm xác tín của mình bằng những chương trình thực hiện về giáo dục, bác ái và xã hội. Các thập niên vừa qua, nhờ ơn Chúa, đã được chứng kiến thấy sự tiến bộ khả quan trong việc xây dựng những mối liên hệ đại kết thân ái là những gì thể hiện một cách chân chính hơn những cội rễ linh thiêng chung của chúng ta (x Diễn Từ với Her Majesty, 17/10/2000). Chứng từ chung của những Kitô hữu dấn thân có thể đóng góp rất nhiều vào việc canh tân đời sống xã hội, ở chỗ tôn trọng và xây dựng trên di sản khôn sánh của những lý tưởng và thành đạt về chính trị, văn hóa và tinh thần, những gì đã làm nên lịch sử của quốc gia quí vị cùng với những gì nó đóng góp cho thế giới.


“Về khía cạnh này, Tôi nghĩ ngay đến nhu cầu cần phải dứt khoát bênh vực những quyền lợi của gia đình, cũng như việc bảo vệ cơ cấu hôn nhân về phương diện pháp lý. Gia đình đóng một vai trò quyết liệt trong việc nuôi dưỡng những giá trị mà bất cứ một nền văn minh nào xứng với tên gọi của mình cũng phải căn cứ vào đó. Toàn thể xã hội loài người được bắt nguồn sâu xa từ gia đình, và bất cứ cái gì làm suy yếu cơ cấu bất khả thiếu này đều chỉ có thể là nguồn phát sinh ra những khó khăn và trục trặc trầm trọng cho xã hội nói chung mà thôi.


“Một lãnh vực khác Kitô hữu có thể cống hiến một chứng từ ân huệ, đó là lãnh vực tôn trọng sự sống, đương đầu với những nỗ lực hợp pháp hóa việc phá thai, việc sản xuất ra những mầm thai con người để khảo cứu, và những tiến trình lạm hành về di truyền như tạo sinh vô tính dục con người. Sự sống con người cũng như ngôi vị con người không bao giờ được đối xử một cách hợp pháp như là một đối tượng lạm hành hay như là một sản phẩm khả loại; trái lại, mỗi một con người, ngay từ giai đoạn bắt đầu hiện hữu, từ khi được thụ thai cho tới lúc tự nhiên chết đi, đã được Tạo Hóa ban cho một phẩm vị cao cả cần phải được cá nhân, cộng đồng, quốc gia, và các cơ chế quốc tế hết sức tôn trọng và canh chừng”.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Màn Điện Toán Zenit ngày Chúa Nhật 8/9/2002)

 


ĐTC với vị tân lãnh sự Hy Lạp về tình hình chung Âu Châu và Thế Vận Hội 2004


2/9/2002 Thứ Hai, trong cuộc tiếp nhận vị tân lãnh sự Hy Lạp là Christos Botzios 63 tuổi, ĐTC đã đề cập đến hai vấn đề, thứ nhất là tình hình chung Âu Châu và thứ hai là Thế Vận Hội năm 2004 tại Hy lạp.


Trước hết, về tình hình chung Âu Châu, ĐTC tỏ ra lo ngại về khuynh hướng loại trừ tôn giáo ra khỏi diễn đàn chính trị và dân sự, vì tôn giáo là “những gì đã đóng góp và còn đang đóng góp cho nền văn hóa và nhân bản làm cho Âu Châu tự cảm thấy hết sức hãnh diện”. Ngài lập lại nhận định Ngài đã thẳng thắn nói với phái đoàn lãnh sự từ ngày 10/1/2002: “Tôi nghĩ rằng đó là một quan niệm bất công và sai lầm”. Ngài nhận định thêm: “Việc nhìn nhận một sự kiện lịch sử không thể chối cãi không hề có nghĩa là không để ý gì đến vai trò khẩn thiết nơi tính cách trần tục của các quốc gia cũng là của Âu Châu”. Bởi vì, đối với ĐTC, đức tin Kitô giáo là một trong “những yếu tố làm nên” quốc gia Hy Lạp và là “nguồn có thể mang lại sinh lực và những viễn ảnh tương lai cho việc kiến tạo Âu Châu. Tôi đã bày tỏ nhiều lần là mối quan tâm của Tôi… về sự kiện các cộng đồng tín hữu không được đề cập gì đến trong những vấn đề cần phải đóng góp vào việc suy nghĩ nơi Đại Công Đồng được thành lập ở thượng hội Laeken liên quan đến một Bản Hiến Pháp Âu Châu khả dĩ”.

 

Ngoài ra, ĐTC còn tỏ ra ủng hộ việc Khối Hiệp Nhất Âu Châu nên bao gồm cả các quốc gia trong vùng Balkan. Vì việc này “sẽ làm củng cố một thứ văn hóa của an bình và đoàn kết là một trong những ưu điểm của dự án Âu Châu”. Vị tân lãnh sự này cũng ngỏ lời cám ơn cả ĐTC lẫn ĐTGM Chính Thống Christodoulos ở Nhã Điển “đã chung tiếng cổ võ cho một Âu Châu toàn vẹn, bằng cách nhấn mạnh đến việc bảo trì những căn gốc Kitô giáo của Âu Châu”.


Sau nữa, về Thế Vận Hội 2004 tại Hy Lạp, ĐTC kêu gọi một cuộc hưu chiến khắp thế giới trong thời gian diễn tiến biến cố này, 13-29/8/2004 tại Hy Lạp. ĐTC bày tỏ ước nguyện của Ngài là biến cố này “sẽ cống hiến cơ hội cho một cảm nghiệm mới về tình huynh đệ trong việc chiến thắng hận thù, trong việc làm cho cá nhân cũng như các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Vào dịp này, Tôi kêu gọi một cuộc hưu chiến vững bền không còn xẩy ra bất cứ một thứ bạo động nào nữa, để tinh thần hòa bình và động lực lành mạnh, hợp với chủ ý của các nhà sáng lập Các Môn Chơi Thế Vận Hội, được lan tỏa vào tất cả mọi lãnh vực của xã hội cũng như nơi tất cả mọi lục địa. Tôi hy vọng rằng, trong một thế giới xáo trộn có những lần nghiêng ngửa này, biến cố thể thao đây sẽ là một biểu lộ hân hoan cho thấy mọi người đều thuộc về cùng một cộng đồng nhân loại, huynh đệ và tương trợ”.

 

 

7/6 Thứ Sáu

Lần đầu tiên trong lịch sử một vị Thủ Tướng Mã Lai đã gặp ĐTC


Văn phòng báo chí của Tòa Thánh đã cho biết nội dung về cuộc gặp gỡ hi hữu này như sau: “Vấn đề đã được bàn đến là mối liên hệ giữa chính quyền và Giáo Hội ở nước này, cũng như vấn đề cộng tác với nhau để phát động việc đối thoại giữa văn hóa và tôn giáo, đặc biệt là vấn đề cứu xét đến những liên hệ về văn hóa giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo”. Vị Thủ Tướng này là ông Mahathir Mohamad. Sau khi triều kiến ĐTC, vị lãnh đạo này đã gặp ĐHY Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano, và ĐTGM Bộ Trưởng Ngoại Giao Jean-Louis Tauran. Trong các cuộc gặp gỡ hôm nay, “vấn đề trao đổi ý kiến về những vấn đề quốc tế hiện tại, nhất là những vấn đề liên quan đến Đông Nam Á và Trung Đông”. Tòa Thánh và Mã Lai chưa có liên hệ ngoại giao. Trong số 22 triệu dân, 53% là Hồi Giáo, 17% là Phật Giáo, 7% là Ấn Giáo và 6.4% là Kitô Giáo. Công Giáo khoảng 730 ngàn người.

Thiết Lập Ngoại Giáo giữa Tòa Thánh và tân quốc Đông Timor
 

 Tân Quốc Cộng Hòa Dân Chủ Đông Timor mới được thành lập hôm qua Chúa Nhật 19/5/2002, và Tòa Thánh hôm nay thiết lập ngoại giao, ở chỗ, về phía Tòa Thánh có tòa khâm sứ ở nước này, còn về phía tân quốc có tòa lãnh sự ở Rôma. Nước này có 750 ngàn người Công Giáo trong 31 giáo xứ, được coi sóc bởi 43 vị linh mục. Có 130 nam tu sĩ, hầu hết là anh em dòng Don Bosco. Dòng Tên đến đây đầu tiên, từ năm 1899, và bị trục xuất năm 1910 rồi trở lại năm 1958. Có 220 nữ tu. 350 tu sĩ nam nữ này hoạt động ở 247 tổ chức về giáo dục và an sinh xã hội. Trong sứ điệp của mình đề ngày 6/5/2002, ĐTC đã ngỏ lời cùng các vị Tông Quản ở Dili và Baucau, các vị giám mục, các viên chức chính quyền và nhân dân nước này là: “Trong giây phút hết sức quan trọng đối với lịch sử của quí vị… Tôi liên kết trong tinh thần với tất cả quí vị để chia sẻ nỗi vui mừng và phấn khích anh em hãy kiến tạo một xã hội chân chính, tự do, hiệp nhất và hòa bình. Giờ khắc hòa bình đã đến! Thời điểm tái kiến tạo đã điểm! Phải luôn bênh vực và bảo trì tự do, một là khỏi những gì cầm hãm nó, hai là khỏi những lầm lạc làm băng hoại tính chất nguyên tuyền của nó, tác hại đến con người và phẩm vị của họ”.

 

 

3/5/2002 Thứ Sáu

ĐTC tiếp vị tân lãnh sự Morocco về việc đối thoại giữa văn hóa và tôn giáo


Ngỏ lời cùng ông tân lãnh sự Mohammed Sbihi, 53 tuổi, ĐTC đã nhận định về tầm quan trọng và tính cách khó khăn trong việc đối thoại giữa văn hóa và tôn giáo trên thế giới hiện nay: “Những hoàn cảnh khó khăn và rắc rối nơi tình hình quốc tế hiện nay trở thành một thách đố lớn lao đối với con người thiện tâm trong việc củng cố những mối giây tin tưởng lẫn nhau, cũng như trong việc cùng nhau tin tưởng hoạt động theo chiều hướng đối thoại và hòa bình”.

 

ĐTC đã nói đến cuộc khủng hoảng hậu Biến Cố 911 cũng như những tác dụng của cuộc xung khắc Trung Đông. Như trong Cuộc Liên Tôn Hội Ngộ Cầu Cho Hòa Bình Thế Giới 24/1/2002, Ngài nhấn mạnh đến nhiệm vụ của “những nhà lãnh đạo quốc gia và các vị có thẩm quyền về tinh thần phải không ngừng nỗ lực để bạo lực không còn chỗ đứng, một thế đứng thường chi phối các mối liên hệ giữa con người với nhau cũng như giữa các phái nhóm với nhau trong thế giới của chúng ta”.

 

Ngài kêu gọi những vị lãnh đạo này “hãy minh nhiên phủ nhận tất cả những lý lẽ lầm lạc của bạo lực, nhất là thứ bạo động nhân danh tôn giáo, và thành thật xác nhận việc dấn thân của mình trong việc đối thoại và hòa bình”. Nói đến tình hình Thánh Địa, Ngài tiếp tục nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải “tái diễn những cuộc thương thảo giữa các phe xung khắc, (vì) tình trạng xung đột võ lực chỉ đưa đến cùng đường bí lối, chẳng mang lại một viễn tượng hay hy vọng gì. Chỉ có khi nào con người biết can đảm đối thoại với nhau, một cuộc đối thoại được thúc đẩy bởi ý muốn xây dựng một tương lai khả dĩ tất cả mọi dân cư ở trên mặt đất này, cũng như cho các cộng đồng sống trên mặt đất này, họ mới có thể mang lại một thứ bình an chân chính và bền bỉ”.

 

ĐTC mời gọi Nước Morocco hãy trở thành một chiếc cầu nối, “một đàng giữ Tây Âu với tất cả các nước quanh vùng Địa Trung Hải có cùng một lịch sử dài; một đàng giữa vùng hạ Sa Mạc Sahara Phi Châu là vùng đang có những trào lưu di dân tiến đến gần Magreb”. Nước Morocco theo chế độ quân chủ, với 30.6 dân cư, 98.7% theo Hồi Giáo, Kitô Giáo 1/1% và Do Thái 0.2%.

 

ĐTC Gioan Phaolô II tiếp ông Darko Tanaslovic, vị tân lãnh sự Cộng Hòa Liên Bang Yugoslavia

ĐTC đã nói với vị tân lãnh sự này vào ngày Thứ Tư 11/4/2002 hôm nay về việc tái thiết một nước Yugoslavia sau thời gian xung đột đã gây ra “tình trạng thiệt hại về vật chất và luân lý”. Ngài nhấn mạnh đến “nhu cầu cần phải hòa giải nơi chính nước Yugoslavia, để tất cả mọi người có thể cùng nhau hoạt động, bằng một lòng tôn trọng khác biệt của nhau, trong việc tái thiết xã hội và công ích”.

 

ĐTC cũng chú trọng tới “nhu cầu cần phải gạt bỏ khuynh hướng chỉ biết có sắc tộc và quốc gia của mình để tiến đến chỗ xây dựng một Đất Nước có những cơ cấu dân chủ… bảo đảm cho tất cả mọi người trong nước, nhất là thành phần thiểu số, được là những tham dự viên chủ động và bình đẳng nơi sinh hoạt chính trị và văn hóa thuộc cộng đồng của họ”. Ngài xác nhận tính cách quan trọng của việc loại trừ bạo lực trong tiến trình hòa giải: “Xứ sở của Ngài đã cho thấy hơn bao giờ hết trong hầu như suốt giòng lịch sử của mình là bạo lực càng sinh ra bạo lực, và chỉ có duy việc đối thoại trao đổi mới có thể phá được cơn lốc quay cuồng chết chóc ấy”.

 

Ngài nhận định rằng: “Những sự khác biệt thường trở thành nguyên cớ gây ra hiểu lầm giữa các dân tộc”. Nhưng Ngài cũng ghi nhận là những khác biệt này cũng “có những giá trị chung cho tất cả mọi nền văn hóa… những giá trị phổ quát (như) tình liên đới, bình an, sự sống và giáo dục”. ĐTC xác nhận: “Giáo Hội Công Giáo, trung thành với những nguyên tắc thiêng liêng và đạo lý của mình nơi sứ vụ hoàn vũ, vẫn kiếm cách để phát động, không phải một thứ lợi lộc về ý hệ hay quốc gia, mà là tình trạng phát triển trọn vẹn tất cả mọi dân tộc, cách riêng chú trọng tới và liên kết với những ai khẩn thiết nhất”.

 

ĐTC kết luận: “Trong một tìng trạng như tình trạng quí vị phải đương đầu, tôn giáo không phải là căn nguyên gây ra rắc rối, mà là yếu tố trọng hệ để giải quyết vấn đề của nó”. Ngài tỏ ra hân hoan là “việc giáo dục về tôn giáo đã được tái diễn tại các trường của người Serbia, vì nó là một cơ hội đặc biệt để dạy dỗ cho giới trẻ biết đến những giá trị phổ quát được gắn liền với bản tính của con người, trên hết là với Thiên Chúa”.

 

11/3/2002 Thứ Hai.

ĐTC tiếp vị tân lãnh sự nước Ecuador


Trước làn sóng di dân áo ạt của dân Ecuador, ĐTC đã chia sẻ nhận định và quan tâm của mình với vị tân lãnh sự nước này là ông Marcelo Fernandez de Cirdoba Ponce, 60 tuổi, chuyên về giáo luật và từng là lãnh sự ở Venezuela, trong cuộc tư kiến hôm nay như sau. Theo ĐTC, tình trạng di dân là “một trong những hiện tượng phức tạp nhất và thê thảm nhất của vấn đề khủng hoảng về kinh tế” xẩy ra cho nước này vào năm 1999. Tuy nhiên, cũng nhờ tình trạng tăng phát trong việc di dân này mà nước này đã phục hồi kinh tế và bớt thất nghiệp. Vì theo tường trình của Central Bank những người di dân đã gửi về nước 1 tỉ 42 triệu Mỹ kim năm vừa rồi, cả 100 triệu hơn năm 2000 và 400 triệu hơn năm 1999. Viện Quốc Gia về Thống Kê và Kiểm Tra Dân Số cho biết, gần 1 triệu trong số 12 triệu rưỡi dân số nước này trong năm 1999 đã bỏ ra nước ngoài từ giữa năm này tới năm 2000, một con số phá kỷ lục ở Mỹ Châu Latinh. ĐTC nói rằng vấn đề khủng hoảng kinh tế này dính dáng đến “vấn đề mất gốc văn hóa, vấn đề nguy hiểm lạc hướng đạo nghĩa ở chỗ bỏ đi những biểu lộ truyền thống của mình, và trong nhiều hoàn cảnh, vấn đề phân tán một cách đau thương cơ cấu gia đình, đó là chưa nói đến những hậu quả bất hạnh xẩy ra rất nhiều cuộc di dân bất hợp pháp… Bởi thế chúng ta phải đối đầu với những hoàn cảnh dường như buộc quá nhiều công dân rời bỏ quê hương xứ sở của mình”. Để đương đầu với những hiện tượng này, ĐTC cho biết: “Giáo Hội không những lập lại nguyên tắc đạo lý là những người di dân bao giờ cũng phải được đối xử một cách kính trọng xứng với phẩm vị của hết mọi người, mà còn vận động tất cả mọi nguồn lợi của mình để giúp đỡ họ bao nhiêu có thể”. Thật vậy, ở những quốc gia dân Ecuador di dân đến sinh sống, các tổ chức Công Giáo thường là “điểm tựa cho họ qui tụ lại với nhau, cử hành các ngày lễ, duy trì căn tính quốc gia của họ, và cũng là chỗ họ chẳng những có thể tìm thấy một sự trợ giúp hiệu nghiệm nếu không muốn nói là duy nhất trong việc bảo vệ quyền lợi của họ cũng như trong việc giải quyết những trường hợp khẩn trương cho họ”. Tuy nhiên, cội rễ của vấn đề di dân gây ra là do cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính trị và xã hội của nước Ecuador, như ĐTC nhận định: “Tình trạng tiến bộ vững vàng và toàn diện của dân chúng đòi phải có tính cách thành tín nơi thành phần quản trị của mình, công bằng nơi việc phân phối sản vật, và lương tâm trách nhiềm cùng với tình đoàn kết nơi tất cả mọi người công dân, tức là đòi phải có những giá trị về đạo lý mà nếu mất đi thì việc sản xuất có thể tăng phát nhưng lại không đạt được những thiện ích thực sự”. Sau hết, ĐTC cũng kêu gọi chính phủ Ecuador hãy chiến đấu “bằng mọi cách để chống lại bất cứ hình thức bất hợp pháp nào, bại hoại nào và sai quấy vô tâm nào, là những gì rất nhiều lần đã biến những người di dân thành một cuộc lưu thông của những kẻ nô lệ theo kiểu tân thời và dã tâm… Đối thoại… bao giờ cũng là một đường lối thích thuận nhất trong việc giải quyết những vấn đề trầm trọng nội bộ cũng như ngoại bộ, nhờ đó mới chiếm được những kết quả như lòng mong ước cho thiện ích của toàn thể nhân dân Ecuador”.

 

 

“Liên hợp việc phát triển với tình đoàn kết

- một chia sẻ chân chính về những phúc lợi”

 

(ĐTCGPII tiếp vị tân lãnh sự Phi Luật Tân, Francisco Acevedo Alba, Thứ Sáu 8/2/2002)


 Thưa Ông Lãnh Sự,

(Những lời chào hỏi thường lệ mở đầu)


Những lời của Ngài về niềm hy vọng và nỗ lực của nhân dân Phi Luật Tân trong việc hoạt động cho hòa bình ở quốc nội cũng như trên thế giới là âm vang của niềm mong mỏi chung hướng đến sự thiện hảo, công lý và tình đoàn kết nơi những mối liên hệ của nhân loại, những mối liên hệ từng bị rung chuyển một cách hãi hùng bởi những biến cố trong những tháng ngày gần đây. Là những tín hữu, chúng ta biết rằng hòa bình không phải chỉ là thành quả do dự án và nỗ lực của con người, mà là tặng ân Thiên Chúa ban cho thế giới được Người tạo dựng nên. Nó là trọn vẹn những phúc lành Ngài ban cho con người, loài tạo vật duy nhất Thiên Chúa muốn họ sống vì họ (x Gaudium et Spes, 24). Cuộc qui tụ mới đây ở Assisi để cầu cho hòa bình, một cuộc qui tụ bao gồm các vị đại diện Giáo Hội Kitô Giáo và Cộng Đồng Giáo Hội, cũng như bao gồm cả các vị đại diện tôn giáo chính trên thế giới, đã cho thấy con người của chính những truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau đều mạnh mẽ xác tín rằng, bạo lực dưới bất cứ hình thức nào cũng đều không hoàn toàn hợp với cảm nhận đích thực về đạo giáo, thực sự là không hợp với phẩm vị của con người. Công việc của các nhà lãnh đạo quốc gia là làm sao tìm kiếm những đường lối thực tế và có phương pháp, để chuyển đạt niềm mong mỏi của cõi lòng con người hướng về tình trạng an hòa trật tự, cũng là hòa bình đích thực, thành những luật lệ, cơ cấu và hoạt động.  

 

Xứ sở của ngài không phải là không bị ảnh hưởng bởi những gì đang xẩy ra. Việc giải quyết về thương thảo cho những khó khăn lâu đời đã không xẩy ra và mức độ xung khắc vẫn diễn tiến. Tôi xin nhắc lại ở đây những gì Tôi đã đề ra trong Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay. Những trụ cột của hòa bình nơi quê hương xứ sở của ngài, cũng như ở khắp mọi nơi, là công lý và thứ tha: một thứ công lý bảo đảm việc hoàn toàn tôn trọng quyền lợi và trách nhiệm, cũng như việc phân phối đồng đều các thiện ích và gánh nặng; và là một thứ tha hàn gắn và tái thiết tận gốc rễ những liên hệ rắc rối nơi con người (x số 3). Chúng ta chắc chắn không thể nào lại nghĩ rằng công lý và thứ tha xẩy ra như là thành quả của bạo lực và xung đột; chúng là những nhân đức luân lý cần đến trách nhiệm cá nhân cũng như đoàn thể trong việc chọn lấy những gì đưa đến công ích và tránh tất cả những gì chối bỏ hay bóp méo chân lý về con người của chúng ta. 

 

Tất cả mọi con người nam nữ biết suy nghĩ đều nhìn nhận công ích như là mục đích của việc cai trị lành mạnh. Thế nhưng, sự thiện này là một sự thiện nhân bản, hướng đến tình trạng an sinh toàn diện của dân chúng trong tất cả mọi phức hợp của đời sống cá nhân cũng như liên đới. Sẽ là một lầm lẫn nặng nếu giới hạn các qui chế công cộng vào việc tìm kiếm phát triển về kinh tế, một phát triển rất thường được căn cứ vào chiều hướng tăng triển về mặt hưởng thụ, như thể chỉ có thế mới làm cho các khát vọng của con người được thỏa mãn. Như Tôi đã viết trong Thông Điệp Bách Niên: ‘Thật là sai lầm ở chỗ muốn sống ngon lành hơn, điều sai lầm đó là lối sống cho rằng để sống ngon lành hơn cần phải tiến đến chỗ chiếm hữu hơn thực hữu, và là một lối sống muốn chiếm hữu hơn, không phải để thực hữu hơn mà là để sống hoan hưởng như cùng đích của mình’ (số 36). Việc phát triển đích thực không thể nào không để ý đến những nhu cầu và truyền thống về văn hóa cũng như tâm linh của dân chúng. Theo chiều hướng này, các qui chế và dự án có thành công hay thất bại cũng đều ở tại chỗ chúng có biết hướng về việc phát triển toàn diện con người hay chăng. Bởi thế, tình trạng phát triển việc toàn cầu hóa về kinh tế, bằng cách san bằng những khác biệt về văn hóa, thực sự không phải là và không luôn là cách giải quyết cho những nhu cầu cụ thể. Thật vậy, nó có thể đi đến chỗ càng chênh lệch hơn vốn sẵn có nơi những mối liên hệ giữa những ai hưởng lợi từ khả năng phát triển thịnh vượng của thế giới với những ai bị đẩy ra rìa của cuộc phát triển. Cái thách đố lớn lao về luân lý đối với các quốc gia và cộng đồng quốc tế là ở chỗ họ làm sao có thể liên hợp việc phát triển với tình đoàn kết – một chia sẻ chân chính về những phúc lợi – để thắng vượt cả việc chậm phát triển làm thoái hóa con người lẫn việc “quá phát triển” lại coi con người như những đơn vị kinh tế thuần túy trong guồng máy của thành phần tiêu thụ (x Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, 32). Thế nên, việc phát triển không bao giờ được coi như là một vấn đề về kỹ thuật hay kinh tế thuần túy; nó thật sự là vấn đề nhân bản và luân lý. Nó đòi phải có một cảm quan được bồi dưỡng bằng việc quyết tâm về phương diện luân lý nơi những ai phục vụ cho công ích.

 

Ngày nay vấn đề thường được đặt ra là vai trò trọng yếu của văn hóa có thể đặt sinh hoạt kinh tế và chính trị vào trong phạm trù luân lý chân chính hay chăng, để có thể bảo đảm cho việc phục vụ công ích. Vấn đề thực sự ở đây là cần có một cuộc hợp tác tốt đẹp giữa thẩm quyền dân sự và Giáo Hội. Theo phạm vi của mình, bên nào cũng phục vụ cho việc phát triển toàn diện của các phần tử xã hội. Nơi xứ sở của ngài, thưa Ông Lãnh Sự, có một truyền thống lâu đời về việc hỗ tương và cộng tác với nhau giữa Giáo Hội và xã hội dân sự. Những lúc khó khăn không phải là không có, nhưng nói chung chúng đã được thắng vượt một cách nhanh chóng và đẹp đẽ. Có nhiều trường hợp Tôi đã khuyến khích các Vị Giám Mục Phi Luật Tân hãy nỗ lực giáo dục và huấn luyện thành phần giáo dân theo giáo huấn tôn giáo và xã hội, để giúp họ có thể biến đổi và xây đắp xã hội họ đang sống trong công lý và hợp đoàn. Những thách đố quốc gia của ngài cần phải đối diện thì nhiều, và chúng cần phải có sự dấn thân hết mình của tất cả mọi người công dân trong nước, bao gồm cả việc đóng góp đặc biệt của giới trẻ. Có xây dựng trên những truyền thống tốt đẹp nhất về đời sống gia đình cùng với mối quan tâm cho nhau và phục vụ lẫn nhau, cũng như việc đóng lại những màn tham lam đặc sủng và những quyền lợi đảng phái, quốc gia của ngài mới có thể hướng đến một tương lai hết sức huy hoàng sáng lạn.

 

Thưa Ông Lãnh Sự, khi gia nhập cộng đồng ngoại giao có liên hệ với Tòa Thánh, ngài mới thấy rằng ngài đang tiến vào một môi trường khác với những môi trường các vị đại diện ngoại giao thường trải qua. Ở nơi đây, ngài sẽ có cơ hội để tự mình suy tư về những vấn đề sâu xa hơn liên quan đến việc phát triển của nhân loại. Ở nơi đây ngài sẽ có thể góp phần vào cuộc tranh luận liên tục về những sự thật hàm chứa nơi những biến cố và những hiện tình của lịch sử nhân loại chúng ta. Với tất cả lòng mong ước tốt lành được thấy sứ vụ của ngài thành đạt, Tôi xin phép lành của Thiên Chúa Toàn Năng xuống trên ngài, gia đình ngài và dân nhân Phi Luật Tân thân yêu.

 

 (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ VIS)