ĐTC với tân lãnh sự các nước

 

2003

 

 

ĐTC GPII với tân lãnh sự Cộng Hòa Dominican về ý nghĩa đích thực của Thần Học Giải Phóng

Hôm Thứ Hai 15/12/2003, ĐTC GPII đã tiếp nhận vị tân lãnh sự nước Cộng Hòa Dominican Carlos Rafael Conrado Marion-Landais Castillo. Ngài đã đề cập đến vấn đề Thần Học Giải Phóng như sau:

“Việc phát triển nhân bản phải là thành quả hợp lý của việc truyền bá phúc âm hóa, một việc truyền bá phúc âm hóa hướng đến chỗ giải phóng toàn vẹn con người”. ĐTC đã trích lại những lời Ngài đã nói ở Santo Domingo ngày 12/12/1992, dịp kỷ niệm mừng 500 năm mở màn việc truyền bá phúc âm hóa ở Mỹ Châu. Sau đó Ngài cắt nghĩa tiếp thế này: “Trên 5 thế kỷ Giáo Hội đã đồng hành với nhân dân Dominican, bằng việc loan báo cho họ những nguyên tắc Kitô giáo, những nguyên tắc làm nguồn mạch cho niềm hy vọng vững chắc và làm thấm nhập vào xã hội một thứ năng lực mới mẻ”.

Ngài nhận định là “việc truyền bá phúc âm hóa và việc phát triển nhân bản không phản chống nhau mà là liên kết chặt chẽ với nhau”, ở chỗ, Giáo Hội ở nước này “thiên về thành phần khuyết tật, thành phần bệnh nhân Hội Chứng Liệt Kháng AIDS, thành phần sắc tộc thiểu số, thành phần di dân và tị nạn”. Ngoài ra, “Giáo Hội hiện diện ở cả lãnh vực giáo dục, qua 1 đại học thuộc tòa thánh ở Santiago, 4 đại học Công Giáo, một số Học Viện về kỹ thuật, các viện bách nghệ cho phụ nữ, và gần 300 trung tâm giáo dục lẫn trường học giáo xứ. Thêm vào đó, những tổ chức khác của Giáo Hội Công Giáo đã đóng góp đáng kể vào nỗ lực chung trong việc nuôi dưỡng một xã hội chân chính hơn, chú trọng tới những nhu cầu của những phần tử yếu kém nhất của nó”.

Riêng về việc phát triển nhân bản, ĐTC nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết như sau: “Trong thế giới ngày nay, vấn đề không phải là ở chỗ giới hạn mình vào luật lệ thị trường và tiến trình toàn cầu hóa của nó. Cần phải phát triển tinh thần đoàn kết, bằng cách tránh đi những sự dữ phát xuất từ chủ nghĩa tư bản, một chủ nghĩa đặt lợi lộc lên trên con người và biến con người thành nạn nhân của rất nhiều thứ bất chính. Một mẫu thức phát triển không chú trọng tới và không nói lên những thứ bất cân đối này thì dù sao cũng không thể nào thịnh vượng được.

“Thành phần lúc nào cũng phải chịu khổ nhất trong các cuộc khủng hoảng là người nghèo. Đó là lý do tại sao họ phải là một đối tượng đặc biệt cần phải được quốc gia quan tâm và chú trọng. Không được làm suy giảm cuộc chiến đấu chống bần cùng chỉ bằng việc cải tiến những điều kiện sinh sống thôi, mà còn phải cất đi khỏi họ tình trạng sống này, bằng việc tạo nên những nguồn công ăn việc làm và chấp nhận thân phận của họ như là của mình”.

Để đạt được mục tiêu này, ĐTC nhấn mạnh đến “tầm quan trọng của việc giáo dục và huấn luyện như là những yếu tố trong cuộc chiến chống bần cùng, cũng như trong việc tôn trọng các thứ quyền lợi căn bản, những thứ không thể hy sinh cho những mục tiêu khác, khi việc hy sinh này phạm đến phẩm giá thực sự của con người”.

ĐTC cũng thẳng thắn giải quyết vấn nạn của những ai nghĩ rằng Giáo Hội không được nói về những vấn đề kinh tế và chính trị như sau: “Mặc dù trong việc phục vụ xã hội, vai trò của Giáo Hội không phải là đưa ra những giải pháp về lãnh vực chính trị hay kỹ thuật, nhưng Giáo Hội cần phải và muốn nêu lên những động lực và chiều hướng phát xuất từ Phúc Âm để soi sáng cho việc tìm kiếm những câu giải đáp cũng như những giải pháp”.

ĐTC còn nói thêm lý do tại sao Giáo Hội cần phải nhúng tay can thiệp những vấn đề trần thế như sau: “Ở tận gốc rễ của các thứ bệnh hoạn về xã hội, kinh tế và chính trị nơi các dân tộc thường là việc loại bỏ hay coi thường những thứ giá trị luân thường đạo lý, những giá trị thiêng liêng và siêu việt thực sự. Giáo Hội có sứ vụ phải nhắc nhở, bênh vực và củng cố họ. Trong việc giải quyết những vấn đề này, người ta không được quên rằng công ích là mục tiêu cần phải đạt đến, một mục tiêu mà Giáo Hội, không nhận mình có những khả năng không hợp với sứ vụ của mình, sẵn sàng hợp tác với chính quyền cũng như với xã hội”.

ĐTC GPII với vị tân lãnh sự Estonia về cuộc khủng hoảng gia đình


Thứ Sáu 12/12/2003, ĐTC GPII đã tiếp nhận vị tân lãnh sự Estonia, Priit Kolbre, và chia sẻ về cuộc khủng hoảng gia đình như sau:


………
Những mối liên hệ ngoại giao của Giáo Hội làm nên một phần sứ vụ của Giáo Hội trong việc phục vụ toàn thể gia đình nhân loại. Ước muốn thiết tha của Giáo Hội trong việc nuôi dưỡng những mối liên hệ tốt đẹp này được gắn liền với niềm xác tín của Giáo Hội là niềm hy vọng xây dựng một thế giới chân chính hơn, một thế giới xứng với con người hơn, không thể coi thường kiến thức về ơn gọi siêu nhiên của con người. Hoạt động ngoại giáo của Tòa Thánh bởi thế tìm cách cổ võ một thứ kiến thức về con người, thành phần “lãnh nhận từ Thiên Chúa phẩm vị thiết yếu của mình kèm theo khả năng trổi vượt trên hết mọi lãnh vực xã hội để có thể tiến đến sự thật và sự thiện” (encyclical letter "Centesimus Annus," No. 38). Từ nền tảng này, Giáo Hội áp dụng những giá trị phổ quát liên quan đến sự thật và tình yêu cho một phạm vi rộng lớn các thứ văn hóa và quốc gia làm nên thế giới của chúng ta đây. Như Ngài đã biết, Giáo Hội Công Giáo đã đến Estonia từ thế kỷ 12. Cùng với các người Âu Châu khác, những người Estonia thực sự hiểu được rằng các sự thật và các giá trị của Kitô Giáo đã từng là nền tảng của chính cơ cấu xã hội Âu Châu. Tuy nhiên, cái gia sản này không chỉ thuộc về quá khứ. Nó là một dự phóng luôn luôn hình thành. Bởi thế, trong khi các quốc gia ở Âu Châu cần phải tiến đến một cấu trúc mới, thì cần phải nhìn nhận và tái nhìn nhận việc sơ khởi loan báo sư thật của Kitô giáo. Chính ở tại việc tái nhận thức được căn tính thật sự của Âu Châu, một căn tính làm nên tự do và nền dân chủ, mới có thể bảo đảm được mức tiến bộ chân thực của các cơ cấu về văn hóa và dân sự của nó (cf. postsynodal apostolic exhortation "Ecclesia in Europa," No. 109).

Nhân dân Estonia quá biết là một khi kho tàng đức tin Kitô giáo bị đè nén hay thậm chí bị chối bỏ thì những nền tảng phát triển xã hội chân thực cùng với nhãn quan về một xã hội đầy hy vọng bị phai mờ đi. Trước sự bừng dậy của một giai đoạn thê thảm đầy sợ hãi và đe dọa nơi lịch sử Âu Châu, khi cái ưu thế của võ lực làm chủ tình hình, thì đức tin Kitô giáo cho rằng Phúc Âm sự sống là những gì bảo đảm cho một tương lai hy vọng và tự do, một tương lai cái ưu thế của tình yêu và sự thật sẽ làm chủ. Không được để cho một cảm quan khờ dại hay nông cạn nhân bản nào về sự bao hàm đi tới chỗ chối từ những thế hệ mai hậu bước vào con đường dẫn đến tình trạng viên trọn bản thân cùng với tình trạng đoàn kết khả thủ này giữa các dân tộc, một con đường được bắt nguồn từ niềm hy vọng “không làm thất vọng” (Rm 5:5). Theo chiều hướng này, Tôi tin tưởng rằng Chính Phủ Estonia sẽ hỗ trợ những nỗ lực của Tòa Thánh trong việc bảo đảm là Bản Hiệp Ước Hiến Pháp Âu Châu cần phải nhìn nhận vị trí của Kitô giáo trong chính cốt lõi của đời sống và tương lai Đại Lục này.
Vì nước Estonia tiếp tục dấn thân thực hiện công việc tế nhị những sâu xa đối với vấn đề rèn đúc tinh thần quốc gia mà có nhiều điều cần phải được tri ân cảm tạ. Quyền tự do tư tưởng và phát biểu, một quyền lợi hiện nay đồng bào của ông đang được hoan hưởng, là điều kiện tìm kiếm sự thật làm nên ngôi vị con người. Tuy thế, kinh nghiệm lịch sử dạy chúng ta rằng cuộc hành trình đi từ tình trạng bị áp bức đến tự do là một cuộc hành trình cực nhọc. Nó thường được đánh dấu bằng những hứa hẹn hy vọng hão huyền và một thứ hấp dẫn theo những hình thức tự do giả tạo không liên hệ gì thật sự tới chân lý. Cuộc vượt qua một kỷ nguyên ý hệ chính trị đàn áp không được phép trở thành một dấu báo hiệu cho một ý hệ trần tục hư hoại. Con người, thành phần tìm kiếm chân lý, cũng là thành phần sống theo niềm tin (cf. encyclical letter "Fides et Ratio," No. 31). Chính nhờ hướng tới các cộng đồng tín ngưỡng mà những thẩm quyền chính trị và dân sự mới có thể tin tưởng biến việc dấn thân thành cuộc nhân bản hóa xã hội, ở chỗ hình thành một trật tự xã hội Âu Châu biết tôn trọng hết mọi con người nam nữ hợp với công ích (cf. postsynodal apostolic exhortation "Ecclesia in Europa," No. 117).

Một trong những nhu cầu lớn nhất ở Estonia ngày nay chắc hẳn là việc làm sao bảo đảm được cơ cấu linh thánh của hôn nhân, như Thiên Chúa muốn trong việc tạo dựng của Ngài, cùng với đời sống gia đình bền vững của nó, là những gì được công nhận và ủng hộ. Những vị lãnh đạo của cả đời lẫn đạo thuộc tất cả mọi danh xưng cần phải cùng nhau hoạt động nhắm tới mục đích này. Nhiều yếu tố văn hóa, xã hội và chính trị thực sự đang âm mưu tạo nên tỏ tường một cuộc khủng hoảng về gia đình mỗi ngày một hơn. Thảm trạng ly dị đang tàn phá đời sống gia đình và tác hại tới các cộng đồng cùng những cá nhân, nhất là trẻ em. Khổ nạn phá thai, ngoài việc vi phạm đến phẩm giá chính yếu của sự sống con người, thường gây ra niềm đớn đau khôn tả về cảm xúc và tâm lý cho người mẹ là thành phần thường trở thành nạn nhân của hoàn cảnh nghịch lại với những gì họ hết sức hy vọng và mong ước. Đối diện với những khốn khó này, một lần nữa Tôi xin nhắc nhở các vị lãnh đạo dân sự là họ có nhiệm vụ thực hiện những quyết định can đảm trong việc bảo vệ sự sống bằng những đường lối lập pháp (cf. encyclical letter "Evangelium Vitae," No. 90), cũng như trong việc bảo vệ những giá trị và nhu cầu của gia đình bằng những chính sách xã hội tác hiệu. Tôi cũng kêu gọi cộng đồng Kitô hữu ở Estonia hãy kiên trì làm chứng cho vẻ đẹp cao quí của mối hiệp thông thân thiết của sự sống và yêu thương là những gì làm nên gia đình và mang niềm vui đến cho xã hội loài người.
……….
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 14/12/2003
 

ĐTC GPII với vị tân lãnh sự Đan Mạch về tình trạng lu mờ cảm quan thần linh

Ngày Thứ Sáu 12/12/2003, ĐTC đã tiếp nhận vị tân lãnh sự Đan Mạch, Birger Dan Nielsen, về tình trạng lu mờ cảm quan thần linh liên quan đến tình đoàn kết nhân loại.
……
Việc dấn thân kiên trì của Tòa Thánh trong việc cổ võ phẩm vị của con người là cốt lõi của hoạt động ngoại giao. Thiếu sự hiểu biết thực sự về giá trị khôn sánh của con người nam nữ thì việc cho rằng mình bênh vực các quyền lợi căn bản của con người cùng những nỗ lực để đạt tới việc chung sống thuận hòa giữa các dân tộc sẽ đi đến chỗ vô bổ. Chỉ khi nào biết tôn trọng và bảo vệ phẩm vị bất khả xâm phạm của mọi người mà việc tìm cầu tình đoàn kết và hòa hợp trên thế giới của chúng ta mới có nền tảng vững chắc. Thật vậy, nhu cầu khẩn trương đối với toàn thể gia đình nhân loại trong việc thể hiện cụ thể những điều được vị tiền nhiệm của Tôi là Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII gọi là 4 cột trụ hòa bình, sự thật, công lý, yêu thương và tự do, thực sự phát xuất từ việc họ có “những điều kiện về tinh thần con người” (Message for the 2003 World Day of Peace, No. 3).
……..
Tình đoàn kết thực sự bao giờ cũng biểu lộ một ước muốn mạnh mẽ kiên quyết trong việc cổ võ công ích. Mặc dù ước muốn này vang vọng sâu xa trong tâm can của tất cả mọi con người nam nữ, nó cũng cần phải cương quyết trong việc chủ động nuôi dưỡng một thứ văn hóa chấp nhận. Để đạt tới mục đích này, xứ sở của ông đã tìm cách đưa ra những chương trình giáo dục hòa bình, đã nâng đỡ những dự án chống bần cùng và bất công, cũng như đã khuyến khích lòng khoan dung nhất là đối với cộng đồng di dân. Ở tầm mức đáng kể nhất của mình, những hoạt động đáng khen ấy làm phát động một nhận thức về bản chất chính yếu của sự sống con người như là một quà tặng cũng như của thế giới chúng ta như là một gia đình con người. Việc dấn thân thực sự cho tình đoàn kết loài người trên lãnh vực quốc tế quả thực tìm thấy căn gốc của nó ở nơi nội tại gia đình. Nếu mối hiệp thông chân chính và trọn vẹn giữa những con người trong một gia đình, học đường tiên khởi và bất khả thay thế của đời sống xã hội, không được cảm nhận và bảo vệ thực sự thì những mối liên hệ nơi tình đoàn kết quốc tế được đánh dấu bằng việc tôn trọng, công bằng, đối thoại và yêu thương là những gì phục vụ cho công ích sẽ bị cản trở rất nhiều (cf. apostolic exhortation "Familiaris Consortio," No. 43).

Trong cuộc Tôi viếng thăm xứ sở của ông, tôi nhận thấy lá quốc kỳ, Dannebrog, có dấu hiệu Thánh Giá. Tôi nghĩ rằng việc trung thành với biểu hiệu lịch sử này nơi cuộc nhân dân ông hiện hữu tới nay, nước Đan Mạch sẽ trung thành với chính bản thân mình. Hội nhập với lịch sử của ông là Phúc Âm Kitô Giáo, một nguồn hứng khởi và là nguồn nâng đỡ nhân dân của ông (cf. Arrival Speech, Copenhagen, 6 June 1989), là những gì quan trọng hôm nay đây như vẫn thế hơn ngàn năm qua. Tuy nhiên, người ta không thể không nhận thấy rằng tình trạng lu mờ cảm quan về Thiên Chúa đã bao trùm bóng tối của nó chẳng những trên xứ sở của ông mà còn trên những xứ sở khác ở Âu Châu nữa. Nhiều người bị lạc hướng, bất định, thậm chí một số chẳng có hy vọng gì cả. Với số đông người Âu Châu sống chẳng có gốc rễ thiêng liêng như thế mà chẳng lạ gì có những biến chuyển về chính trị và xã hội muốn kiến tạo nên một nhãn quan về Âu Châu bất chấp gia sản tôn giáo của mình, nhất là hồn sống Kitô giáo sâu xa của mình (cf. postsynodal apostolic exhortation "Ecclesia in Europa," No. 7). Những kẻ chiến đấu cho các nỗ lực lạc hướng này nắm giữ những thứ quyền lợi của các dân tộc Âu Châu, và cho rằng mình nói thay cho họ, nhưng lại mù quáng trước thực tại của một thứ luật khách quan cao hơn được ghi ấn trong tâm can của hết mọi con người nam nữ và được lương tâm con người nhận biết.

Một nhãn quan về Âu Châu tách bỏ Thiên Chúa chỉ có thể gây ra một tình trạng xã hội phân mảnh, một tình trạng lẫn lộn về luân lý và một tình trạng bất nhất về chính trị. Trước những dấu hiệu đáng lo ngại đang bao trùm chân trời của lục địa Âu Châu, Tôi muốn lập lại một lần nữa những lời Thánh Kinh Tôi đã trích dẫn khi đến viếng thăm xứ sở của ông: “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con duy nhất của mình. Ánh sáng này đã chiếu vào thế gian và những ai sống theo sự thật của Người đều tác hành trong ánh sáng để những việc họ làm trong Thiên Chúa được tỏ hiện” (Jn 3:16, 19-20). Sự thật của Chúa Kitô không làm cho con người bị thất vọng. Nó soi sáng và hướng dẫn đường lối của chúng ta, bằng cách đánh tan những bóng tối tăm của rối loạn và sợ hãi. Chúa Kitô một lần nữa mời gọi tất cả chúng ta “hãy bừng lên những tia sáng mới dẫn tới một ‘Âu Châu của tinh thần’, để làm cho châu lục này trở thành một ‘ngôi nhà chung’ thực sự tràn đầy niềm vui sống” (postsynodal apostolic exhortation "Ecclesia in Europa," No. 121).
……..

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 14/12/2003
 

ĐTC GPII với vị tân lãnh sự Singapore về một tinh thần đoàn kết mới

Ngày Thứ Sáu 12/12/2003, ĐTC đã tiếp nhận vị tân lãnh sự Singapore, Walter Woon, và đã nói với ông về một tinh thần đoàn kết mới như sau:
……….
Sự hiện diện của ông ở đây hôm nay đây khiến Tôi nghĩ đến cuộc Tôi được hân hạnh viếng thăm xứ sở của ông vào năm 1986. Thời gian Tôi ở Singapore đã cho Tôi có cơ hội để cảm thấy lần đầu tiên một thứ văn hóa được hình thành bởi ảnh hưởng của rất nhiều những nhóm sắc dân và tôn giáo khác nhau, những nhóm đã nhiều năm sống hòa hợp với nhau. Singapore đã được trở nên phong phú rất nhiều bởi tính cách khác nhau của các nền văn hóa và dân chúng, và phải hãnh diện về truyền thống của mình trong việc tôn trọng và cảm nhận được cái gia sản này. Thật vậy, việc xứ sở của ông dấn thân phấn khích sống tinh thần chân chính của sự hiệp nhất trong đa dạng đã đóng góp rất nhiều cho miền này và ông có thể xác đáng cho rằng nó là một trong những miền phát triển nhất ở Á Châu. Mặc dù Singapore nhỏ bé về diện tích và dân số, nó cũng đóng một vai trò quan trọng ở vùng này, thường đóng vai trò như là một chiếc cầu nối của việc trao đổi văn hóa giữa Đông và Tây.

Để đạt tới việc toàn cầu hóa chân chính, các chính quyền và dân chúng phải khuyến khích tính cách đa văn hóa, luôn bảo đảm là nó đâm rễ sâu trong những nguyên tắc về luân lý và những giá trị chi phối hành vi và các mối liên hệ nhân bản. Singapore đã chứng tỏ cho thấy việc dấn thân của mình nắm giữ những nguyên tắc ấy, bằng việc dấn thân liên tục cho vấn đề khoan nhượng về tôn giáo, một sự khoan nhượng đã được nhiệt tình nuôi dưỡng từ khi được độc lập. Hy vọng là tình trạng hòa hợp này, theo truyền thống đã chi phối các tín đồ của những tôn giáo khác nhau ở Singapore, sẽ tiếp tục và trở lên vững mạnh hơn. Điều này đặc biệt quan trọng cho ngày hôm nay đây, ở những lúc căng thăng và xẩy ra những diễn biến thê thảm mới đây nơi miền của ông là những gì đã gây khó khăn cho việc tương kính làm nền tảng cho việc chung sống thuận hòa giữa tất cả mọi dân tộc. Theo các truyền thống tốt đẹp nhất của ông, cần có một cuộc đối thoại tiếp tục, hiểu biết và hợp tác giữa các tín đồ thuộc các tôn giáo khác nhau để bảo đảm là tất cả mọi người cùng nhau hoạt động cho một nền văn minh được xây dựng trên những giá trị phổ quát về đoàn kết, công lý và tự do.

Xã hội Singapore thấm nhuần một niềm cảm mến sâu xa về tầm quan trọng của những chiều kích thiêng liêng và siêu việt của sự sống con người. Điều này đã góp phần vào việc nhận thấy nhu cầu cần phát triển một thứ văn hóa làm cho “dân chúng sống với nhau” không theo khuynh hướng trở nên một xã hội loại trừ, xa lánh, bật gốc hay áp đảo kẻ khác (cf. encyclical letter "Evangelium Vitae," No. 18). Trách nhiệm cốt yếu hướng về anh chị em chúng ta này là một đặc tính của mối liên hệ xã hội phải được thực hiện ở cả lãnh vực quốc gia lẫn quốc tế. Việc xứ sở của ông nhất quyết hỗ trợ những ai ở ngoài biên giới của mình đã hiển nhiên cho thấy nơi việc quí vị giúp vào vấn đề hỗ trợ quốc tế đáng ghi nhớ. Thật vậy, việc dấn thân chung của chúng ta phục vụ thành phần kém may mắn là một trong nhiều lãnh vực liên kết Singapore với Tòa Thánh theo lòng chúng ta mong muốn phục vụ công ích. Một gương mẫu của việc hợp tác này có thể được thấy nơi việc chúng ta cùng nỗ lực huấn luyện những chuyên viên trẻ ở các quốc gia nghèo ở miền này, qua Chương Trình Huấn Luyện Đệ Tam Quốc Gia của Singapore và Vatican, được bắt đầu 5 năm trước đây. Giáo dục là chìa khóa cho việc phát triển khả thủ. Bởi thế Tôi hy vọng rằng những cố gắng của chúng ta trong việc huấn luyện giới trẻ làm những người công dân có lương tâm và thành tín chẳng những sẽ làm lợi cho các quốc gia riêng mà còn hỗ trợ cho cả Á Châu và toàn thể cộng đồng hoàn vũ nữa.
……..
Mặc dù Giáo Hội Công Giáo ở Singapore tương đối nhỏ, các phần tử của Giáo Hội này là những người hãnh diện đóng góp cho việc phát triển về chính trị, văn hóa và xã hội của xứ sở này. Ở vào thời điểm quốc gia của ông và nhiều quốc gia Á Châu đang cố đặt lại vấn đề các chính sách cũ liên quan đến đời sống gia đình và vấn đề dân số học thì các người Công giáo có nhiều điều đem cống hiến. Như Tôi đã nói vào năm 1986 thì “các gia đình có một vị thế đặc biệt trong Giáo Hội như là một cộng đồng sự sống và yêu thương. Vì là một mối hiệp thông các ngôi vị trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, các gia đình cũng đóng một vai trò quan trọng nơi xã hội nữa. Các gia đình cần phải hướng về một cộng đồng rộng lớn hơn, để mối quan tâm ưu ái họ tỏ ra nơi gia đình của họ được vươn tới những gia đình khác cho lợi ích của tất cả mọi người” (Homily in Singapore, No. 9). Việc vững mạnh dấn thân cho một thứ văn hóa sự sống và một thứ văn hóa gia đình là một tảng đá xây dựng cần thiết cho cơ cấu xã hội của hết mọi xứ sở và là một điều kiện cho việc thành đạt lâu dài.
………

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 14/12/2003

ĐTC với tân lãnh sự Cyprus về việc xây dựng Khối Hiệp Nhất Âu Châu

Trong bài diễn từ của mình, hôm Thứ Bảy 5/7/2003, trước hết ĐTC bày tỏ việc Ngài “sung sướng ghi nhận rằng ông là vị lãnh sự đầu tiên của xứ sở ông với Tòa Thánh”.

Sau đó, Ngài nhận định về những gì ông tân lãnh sự này trình bày với Ngài: “Ông đã đề cập tới việc ký kết mới đây về Bản Thỏa Ước Gia Nhập của Cộng Hòa Cyprus với Khối Hiệp Nhất Âu Châu. Chắc chắn đây là một bước tiến quan trọng đối với một quốc gia để bắt đầu những việc sửa soạn quan trọng cho vị thế chính thức của mình trong cộng đồng kính tế và chính trị Âu Châu. Với gia sản Kitô giáo lâu đời và sâu xa của xứ sở ông có được ngay từ ban đầu của chính Kitô giáo, Cyprus sẽ đóng một vai trò thuận lợi trong việc làm cho Âu Châu nhận biết hơn nữa những cội nguồn Kitô giáo riêng của nó”.

Lập lại những gì Ngài đã chia sẻ với phái đoàn ngoại giao với Tòa Thánh dịp đầu năm, ĐTC nói: “Âu Châu là tác nhân truyền bá các thứ giá trị mang lại hoa trái cả hai ngàn năm về một thứ ‘nghệ thuật’ suy tư và sinh động đã làm lợi cho cả thế giới. Kitô giáo giữ một vị thế nổi bật đối với những giá trị ấy… Một Âu Châu ruồng bỏ quá khứ của mình, chối bỏ sự kiện về tôn giáo và thiếu chiều kích thiêng liêng sẽ bị suy kiệt trước dự án đầy tham vọng cần đến tất cả nghị lực của nó, đó là dự án kiến trúc một Âu Châu cho tất cả mọi người. Trong thế giới hiện đại của chúng ta, cần phải tỏ ra hoàn toàn tôn trọng một cách xứng hợp những gì hợp lý nơi các ước vọng, truyền thống và niềm tin của dân chúng thuộc các lịch sử khác nhau. Chỉ bao giờ biết chấp nhận nhau và chân thành đối thoại với nhau nơi các dâ tộc và các phái nhóm mới có thể bảo tồn hoạt động duy trì những mối liên hệ hòa hợp. Nền hòa bình chân thực đòi con người phải thực sự nhìn nhận và bảo toàn phẩm giá cùng các thứ quyền lợi của tất cả mọi phần tử thuộc gia đình nhân loại, như là một tiêu chuẩn căn bản nơi qui chế và hành động, đặc biệt hướng về và nâng đỡ thành phần cần thiết nhất, như những người nghèo khổ, bệnh tật, giới trẻ, giới già, lao nhân, di dân”.

ĐTC nhắc đến tình hình tại Cyprus như sau: “Một trong những vấn đề khẩn trương nhất đối với Cyprus hiện nay đó là tình trạng liên tục chia rẽ của hải đảo này. Tòa Thánh, cùng với cộng đồng quốc tế, cảm thấy rất buồn khi thấy rằng dự án hòa bình và tái hiệp nhất đã được vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc trình bày năm vừa qua… không đạt được việc thỏa thuận cần thiết giữa các nhóm trong cuộc nên không được chấp thuận… Tôi hân hoan nghe thấy ông nói về việc chính phủ của ông sẵn sàng ngồi xuống một lần nữa để đối thoại và thương thảo theo chiều hướng thuận lợi của Liên Hiệp Quốc. Việc thương thảo chân tình đòi phải ổn định những khác biệt bằng một đường lối mang lại thiện ích thực sự cho tất cả mọi người… Dĩ nhiên, trong tất cả mọi vấn đề này, các phần tử của cộng đồng Công giáo bao giờ cũng nhiệt tình đóng góp phần của mình cùng vơí đồng bào Cyprus”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 8/7/2003

 

ĐTC với vị tân lãnh sự Đại Hàn về tình đoàn kết giữa Nam Bắc và tình hình luân lý xã hội Đại Hàn

Ngày Lễ mừng Độc Lập ở Hoa Kỳ 4/7/2003, tại Rôma, ĐTC đã tiếp nhận vị tân lãnh sự Đại Hàn, Seong Youm. Trong bài diễn từ của mình, ĐTC đã nhắc đến biến cố: “Hôm nay là ngày đánh dấu 40 năm kỷ niệm bắt đầu công việc lãnh sự của Cộng Hòa Đại Hàn với Tòa Thánh Vatican”. Sau đó Ngài nói đến vấn đề tình hình sống đạo của nước này: “Phúc Âm đã được phát triển và sinh hoa trái trên mảnh đất Đại Hàn. Một so lớn những con người Đại Hàn được tuyên tôn trên bàn thờ cho thấy sự thánh thiện đã cắm rễ sâu nơi nhân dân này và làm rạng ngời Giáo Hội hoàn vũ”.

ĐTC tiếp tục chia sẻ về kinh nghiệm 2 chuyến tông du của Ngài ở Đại Hàn, những lần Ngài thấy “mức tiến bộ và những vinh thắng của tự do và phúc hạnh của một xã hội trẻ trung năng động. Tôi cũng thấy được cả nỗi cay đắng của nhiều con người cảm thấy ở một hải đảo chỉ có một dân tộc duy nhất cư ngụ mà lại bị sống trong cảnh chia rẽ đau thương. Những cảm giác hận thù và chống đối giữa hai quốc gia là lý do thực sự đáng quan tâm, nhưng cũng có lý do khác để hy vọng vì thấy rằng có một ý muốn cụ thể trong việc làm giảm bớt những căng thẳng bằng việc đối thoại và gặp gỡ. Đường lối chính trị này có thể sẽ tìm thấy được nguồn sức mạnh hơn và khả tín hơn nếu miền phát triển hơn ở hải đảo này, trong khả năng của mình, biết đáp ứng những nhu cầu khẩn trương của miền khác. Tòa Thánh thích thấy được hết mọi nỗ lực đối thoại và hợp tác, cũng như việc liên tục chú trọng đến các phần tử yếu kém trong dân chúng. Hiện tại và tương lai cần phải được xây dựng trên những nền tảng tôn trọng con người và việc liên tục tìm kiếm công lý và hòa bình. Để đạt được mục đích này, trong hoàn cảnh hiện nay, cần phải liên lỉ theo đuổi những nỗ lực nhắm đến việc loại trừ đi … những thứ vũ khí đại công phá, nhất là những thứ vũ khí nguyên tử”.

Về cộng đồng Công Giáo ở Đại Hàn, ĐTC nhận thấy rằng: “Đó là một thực tại hứa hẹn đáng được cảm mến và tôn trọng. Cộng đồng này đang thực hiện sứ vụ của mình do Phúc Âm tác động và cống hiến chứng từ tôn giáo cụ thể bằng những cơ cấu tổ chức giáo dục, an sinh và bác ái của mình, những công cuộc được nhiều người cảm phục”. Tuy nhiên, Ngài còn nói Giáo Hội Công Giáo “không thể che giấu mối quan tâm của mình về hiện tượng phá thai buồn thảm là một vết thương kinh khiếp của xã hội. Việc ngừa thai nhân tạo cũng lan tràn cùng với việc phát triển ý hệ thực tiễn cho rằng hợp lý và khuyến khích những lạm dụng về vấn đề di giống… cũng như án tử hình. Trước những đe dọa trầm trọng cho sự sống này, Giáo Hội cảm thấy có nhiệm vụ nhắc lại những giá trị Giáo Hội tin tưởng, những giá trị là gia sản của nhân loại, vì lề luật tự nhiên được Thiên Chúa ghi khắc nơi tâm can của hết mọi con người. Chỉ có dự án lấy mục tiêu ưu tiên của mình là việc bênh vực sự sống và gia đình mới có thể làm lợi cho tình đoàn kêt và tình trạng vững mạnh của xã hội Đại Hàn mà thôi”.

 

ĐTC với vị tân Lãnh Đạo Sứ Vụ Libyan Arab Jamahiriya của Nhân Dân Xã Hội Chủ Nghĩa về vấn đề đối thoại hiệp thông huynh đệ

Thứ Ba 1/7/2003, ĐTC đã nhận Uỷ Nhiệm Thư của vị tân lãnh đạo làm việc với Tòa Thánh về phương diện ngoại giao này. Trong bài diễn văn bằng tiếng Ý, ĐTC đã khẳng định rằng “đặc biệt cần phải can đảm và kiên trì đối thoại để đương đầu với những căng thẳng trên thế giới liên quan đến chúng ta và đòi phải chủ động hợp tác với nhau từ mọi phía để giải quyết vấn đề, căn cứ vào những nguyên tắc căn bản về sự thật, công lý, yêu thương và tự do”.

ĐTC đề cập đến “tình hình Trung Đông làm Tôi hết sức quan tâm; nạn khủng bố tấn công bừa bãi bất cứ phần đất nào trên thế giới, làm cho các thành phố, dân tộc và thậm chí tất cả loài người sống trong bất an; những cuộc xung đột làm cản trở các dân cư ở nhiều miền đất thuộc Phi Châu không thể phát triển nổi; việc phân phối bất cân đối những thứ sản vật về đất đai cũng như về các thành quả nghiên cứu kỹ thuật, nhân bản và tinh thần. Việc đối thoại được căn cứ vào lề luật luân lý lành mạnh là việc làm dễ dàng trong vấn đề giải quyết các thứ xung khắc cũng như vấn đề phát triển việc tôn trọng sự sống và tất cả mọi con người”.

ĐTC nhấn mạnh rằng “Giáo Hội, ý thức được vai trò tôn giáo cần phải đóng trong việc liên kết thứ văn hóa sống chung, tương kiến và chủ động hợp tác, muốn phát triển sứ vụ hòa bình, bằng cách kêu gọi mọi người hãy lãnh nhận trách nhiệm lo cho kẻ khác để xây dựng một thế giới công bằng hơn, hiệp nhất hơn và tự do hơn. Chứng từ này đã được bày tỏ bởi một cộng đồng Công Giáo tuy nhỏ song sinh động ở Libya, một cộng đồng muốn tiếp tục hoạt động của mình, bằng việc vun trồng tinh thần hiệp thông huynh đệ, phục vụ tha nhân, qua sự hiện diện chuyên biệt và yêu thương”.

Sau khi đã ngỏ lời cám ơn thẩm quyền và toàn dân Libyan đã tỏ ra tôn trọng việc truyền giáo của Giáo Hội, ĐTC đã nói: “Ý muốn chân tình hợp tác làm nên nền tảng của việc cộng tác tốt đẹp giữa các tín hữu cũng như giữa tất cả loài người. Điều này đặc biệt cần thiết cho các tín đồ Hồi giáo và Kitô giáo. Khi đương đầu với những nỗ lực làm méo mó sai lệch tôn giáo cũng như những nỗ lực sử dụng bất hợp pháp những truyền thống linh thánh, thì cần phải nhớ rằng những việc đưa đến bạo lực và thiếu tôn trọng sự sống con người là những việc làm chống lại Thiên Chúa và con người”.

 

ĐTC với vị tân lãnh sự Nhật Bản về vai trò quốc tế của nước này

Sáng nay, Thứ Sáu 30/5/2003, ĐTC đã tiếp nhận ông tân lãnh sự Nhật Bản là Gunkatsu Kano. Qua bài diễn từ của mình, ĐTC ngỏ lời chào hoàng gia, các vị lãnh đạo trong chính quyền cùng nhân dân Nhật Bản, đặc biệt với những ai bị nạn trong cuộc động đất vừa qua. ĐTC cũng nhận định là Nhật Bản đã tha thiết ra sao với “việc phục vụ nền hòa bình. Tình hình thế giới hiện nay vẫn còn đang ở trong tình trạng đáng lo ngại, một tình hình được đánh dấu bằng việc tái diễn những thứ căng thẳng ở nhiều nơi khác nhau trên mặt đất này cũng như bằng việc tái phát những hoạt động khủng bố. Tuy nhiên, tình hình vừa căng thẳng lẫn khủng bố này không được làm nhụt nhuệ khí của những ai dấn thân tìm kiếm những giải pháp ôn hòa cho những xung khắc ấy. Cần phải theo đuổi thực hiện những nỗ lực liên quan một cách đặc biệt đến việc tiến triển, cân bằng và kiểm soát vấn đề loại trừ các thứ vũ khí đại công phá, cũng như việc giải giới và thôi leo thang vũ khí nguyên tử. Vấn đề là cộng đồng quốc tế phải thường xuyên vận động để, ở cả lãnh vực địa phương lẫn thế giới, thực hiện các biện pháp thích hợp hầu ngăn ngừa xẩy ra những cuộc tấn công khả dĩ, những cuộc tấn công mà không có những biện pháp ấy tác hại đến nhưnõng nhu cầu nền tảng của thành phần dân chúng trong cuộc, đưa họ đến chỗ thê thảm và thất vọng”.

ĐTC còn nhấn mạnh đến một quốc gia Nhật Bản có “những truyền thống về đạo giáo và triết lý phong phú là những gì chất chứa những nguồn mạch thiêng liêng có khả năng phấn khích một cách hiệu nghiệm nỗi ước mong thiết tha trong việc hoạt động cho hòa bình cũng như trong việc hòa giải giữa các cộng đồng và giữa các ngôi vị con người với nhau”. Ngài còn nhắc lại là “hình ảnh đau thương về hai thành phố Hiroshima và Nagasaki nhắc nhở chúng ta nhớ lại những lời của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói là: ‘Đừng bao giờ đánh nhau nữa!’”.

Thế rồi Ngài cũng đề cập đến vai trò của Nhật Bản trong việc hợp tác về kinh tế với các quốc gia khác ở Á Châu, và vai trò chủ động của Nhật Bản cùng với các nước này nơi “vấn đề cổ võ các dân tộc”, nhất là vấn đề “bảo vệ môi trường và chăm sóc các tài nguyên thiên nhiên”, một vấn đề sẽ được Nhật Bản đứng ra tổ chức trong một cuộc triển lãm quốc tế vào năm 2005.

Ở phần kết của bài diễn từ của mình, ĐTC cũng không quên đề cập tới một cộng đồng Công Giáo ở Nhật tuy nhỏ nhưng chủ động, ở chỗ, ngoài việc giúp cho nhiều người di dân đến Nhật để tìm kiếm “việc làm, phẩm giá và niềm hy vọng” chống lại “hiện tượng kỳ thị” và bất lợi cho “thành phần yếu kém nhất” trong xã hội…, Giáo Hội cũng muốn dạy giúp cho các thế hệ trẻ, “đặc biệt qua việc giáo dục toàn diện ở học đường cũng như ở các đại học đường”, để họ có thể “phát triển về nhân bản, tinh thần, luân lý và dân sự, nhờ đó họ có thể đóng vai trò tích cực trong đời sống của quốc gia họ”.

 

ĐTC với 12 vị lãnh sự mới về đường lối xây dựng hòa bình

Sáng Thứ Năm 15/5, tại Sảnh Đường Clementine, Đức Thánh Cha đã tiếp nhận 12 tân lãnh sự của các quốc gia được liệt kê như sau: Ông Joseph Herron nước Úc Đại Lợi; Kelebert Nkomani nước Zimbabwe; Siba Nasser nước Syria; Leari Edgar Rousseau nước Trinidad và Tobago; Negash Kebret nước Ethiopia; Alberts Sarkanis nước Latvia; Emitai Lausiki Boladuadua nước Fiji Islands; Terence Nsanze nước Burundi; Alexander Chikvaidze nước Georgia; Michel Rittie nước Vanuatu; Mihail Laur nước Moldova và Fauzia Abbas nước Pakistan. Ngài đã gửi cho mỗi vị một văn bản riêng liên quan đến quốc gia của họ. Tuy nhiên, ĐTC cũng đã dùng Pháp ngữ để ngỏ lời chung với các vị này. Đức Thánh Cha đã mở lời bằng nhận định:

“Thế giới của chúng ta đang trải qua một thời điểm khốn khó, được đánh dấu bằng nhiều cuộc xung đột mà quí vị là những quan sát viên theo dõi. Thời điểm này đang làm phiền đau nhiều người nên Tôi xin các vị lãnh đạo quốc gia hãy dấn thân hơn nữa cho hòa bình. Về khía cạnh này việc ngoại giao cần phải tái nhận thức được mục đích cao quí của nó. Thật vậy, việc chú trọng tới con người và các dân tộc cũng như việc lưu ý đến vấn đề đối thoại, huynh đệ và đoàn kết là nền tảng của sinh hoạt ngoại giao cũng như của các tổ chức lãnh trách nhiệm cổ võ đặc biệt vấn đề hòa bình, một trong những sự thiện quí giá nhất đối với cá nhân, dân tộc, và đối với cả các Quốc Gia hoàn toàn lệ thuộc việc phát triển bền vững vào sự an ninh và hòa hợp”.

Đức Thánh Cha nhắc lại việc kỷ niệm mừng 40 năm Thông Điệp Pacem in Terris” của Đức Gioan XXIII đã từng là một nhà ngoại giao của Tòa Thánh, vị đã qua văn kiện này kêu gọi các nhà lãnh đạo hãy xây dựng xã hội “trên ‘bốn cột trụ’ là sự thật, công lý, yêu thương và tự do. Hòa bình không thể hiện thực ở chỗ khinh dể con người và các dân tộc; nó được xây dựng khi mà hết mọi người trở thành đồng bạn và những vai chính trong việc xây dựng một xã hội quốc gia.

“Từ giai đoạn của những cuộc đại xung đột trên thế giới mà cộng đồng quốc tế đã dấn thân bằng những tổ chức và pháp luật đặc biệt để chiến tranh không bao giờ còn xẩy ra nữa, thứ chiến tranh sát hại thành phần dân sự vô tội, tàn phá các miền đất và gây ra những vết thương cần phải một thời gian lâu mới chữa lành được. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc hơn bao giờ hết được kêu gọi giữ vai trò chính yếu đối với những quyết định liên quan đến việc tái thiết các quốc gia, và các tổ chức nhân đạo cũng được mời gọi để tái thực hiện việc dấn thân của mình. Vấn đề này sẽ giúp cho những người bị hoạn nạn nhanh chóng đảm trách định mệnh của mình, từ chỗ bất ổn đến chỗ dấn thân xây đắp tương lai của họ. Ngoài ra để tin tưởng thì điều kiện bất khả thiếu là hãy quay về với cốt lõi của xứ sở.

“Sau hết, Tôi kêu gọi tất cả mọi con người tin theo đạo giáo làm sao để vấn đề thiêng liêng và tôn giáo thành nguồn mạch hiệp nhất và bình an, và để chúng không bao giờ khiến con người đi đến chỗ chống đối nhau. Tôi không thể quên được thành phần trẻ em và giới trẻ, thành phần thường bị ảnh hưởng nặng nhất bởi những trường hợp xung đột. Vì rất khó lòng quên được những gì chúng cảm nghiệm thấy, chúng có thể bị lôi cuốn vào bạo lực. Nhiệm vụ của chúng ta là sửa soạn cho chúng một tương lai hòa bình và một mảnh đất của tình đoàn kết huynh đệ”. Trong việc bày tỏ “những mối quan tâm này của Giáo Hội Công Giáo”, ĐTC đã cho biết Giáo Hội “tham gia vào sinh hoạt quốc tế, vào những mối liên hệ giữa dân chúng cũng như vào những quan tâm về nhân đạo, là những gì thể hiện sứ vụ nguyên thủy của Giáo Hội, để bày tỏ việc Thiên Chúa gần gũi với mỗi một người và hết mọi người”.

Với vị tân lãnh sự nước Úc về nhãn quan hy vọng

……….. “Những lý tưởng chung và những giá trị nhân bản mà cả Tòa Thánh lẫn Úc Đại Lợi đang tìm cách đối đầu với các vấn đề tấn công nhân loại ngày nay cần phải tiếp tục làm vang vọng ngay ở nơi những xã hội sặc mùi cá nhân chủ nghĩa và tục hóa. Về vấn đề này, sứ vụ ngoại giao của Tòa Thánh tìm cách trình bày một nhãn quan hy vọng trước một thế giới càng ngày càng bị phân ly chia rẽ. Việc Tòa Thánh dấn thân cho mục đích này, được thể hiện qua việc Giáo Hội bênh vực phẩm giá sự sống con người và cổ võ nhân quyền, công bằng xã hội và tình đoàn kết, phát xuất từ việc nhận thức nguồn gốc chung của tất cả mọi dân tộc và hướng đến định mệnh chung của họ. Về khía cạnh này thì chiều kích siêu việt của đời sống đang hoạt động để đối đầu với các khuynh hướng đưa đến tình trạng phân mảnh xã hội và bị cô lập quá buồn thảm đang thịnh hành ở nhiều xã hội ngày nay……..

“Những hành động đoàn kết không phải chỉ là những hành động nhân đạo đơn phương theo chủ ý tốt lành. Chủ nghĩa nhân đạo thực sự là chủ nghĩa nhìn nhận và thể hiện dự án đại đồng của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chỉ khi nào có nhãn quan về tình đoàn kết đại đồng này thì những thách đố phức tạp về công lý, về quyền tự do của dân chúng và về nền hòa bình của nhân loại mới có thể thực hiện một cách hiệu nghiệm (x Familiaris Consortio, 48). Ở tâm điểm của nhãn quan này là niềm tin tưởng rằng tất cả mọi con người nam nữ được Thiên Chúa ban cho phẩm vị thiết yếu và chung nhau cũng như ban cho khả năng trổi vượt trên hết mọi lãnh vực xã hội để tiến đến sự thật và sự thiện (x Centesimus Annus, 38). Chính trong ý nghĩa này mà những cuộc trao đổi và tình bằng hữu của quí vị với những quốc gia ở phía bắc không có cùng một gia sản Kitô giáo mới có được một nền tảng xứng hợp và vững chắc. Cũng thế, chỉ có quan điểm về niềm hiệp nhất thiết yếu này của nhân loại mà những khó khăn thử thách liên quan đến việc tiếp nhận những người tị nạn cũng như đến vấn đề lòng thòng về quyền lợi đất đai của dân bản xứ mới tìm thấy những giải quyết cảm thương và thực sự nhân đạo.

“Ngài đã nhận thấy là tính cách dung nhượng là một đặc tính khác của nhân dân Úc Đại Lợi. Thật vậy, đặc tính này đã làm cho nhiều người quí mến quê hương của quí vị và phản ảnh nơi việc hội nhập của những cộng đồng đa chủng hiện nay đang có ở đó. Tuy nhiên, việc tôn trọng xứng hợp với tất cả mọi ngươiụi không chỉ bắt nguồn từ sự kiện khác nhau giữa các dân tộc. Việc hiểu biết bản chất đích thực của sự sống như là một quà tặng đòi hỏi con người nam nữ phải tôn trọng cấu trúc tự nhiên và luân lý do Thiên Chúa trang bị cho họ (x Centesimus Annus, 38). Trong khi việc chính trị chú trọng đến chủ thể tính của con người tập trung vào các thứ quyền lợi của con người thì đôi khi xẩy ra là khuynh hướng về ‘cái đúng đắn chính trị’ dường như không lưu ý tới vấn đề ‘con người nam nữ được kêu gọi hướng bước tiến của mình về một sự thật trổi vượt hơn họ’ (Fides et Ratio, 5). Tách khỏi sự thật này, một sự thật là bảo đảm duy nhất cho tự do và hạnh phúc, con người sẽ gặp khốn đốn với sự xoay vần cũng như với chiều hướng đa tạp, dần dần mất đi khả năng hướng mắt về những đỉnh cao ý nghĩa của đời sống con người.

“Ở Úc Đại Lợi, cũng như ở nhiều xứ sở khác, cuộc đối chọi trong việc làm sao để chọn lựa một lối sống liên quan tới dự án của Thiên Chúa đối với loài người đang bị khuynh đảo nơi đời sống hôn nhân và gia đình. Tính cách thánh hảo của hôn nhân phải được cả cơ cấu tôn giáo và dân sự nâng đỡ. Những thứ lệch lạc về trần tục và thực nghiệm nơi thực tại về hôn nhân không bao giờ có thể làm lu mờ đi ánh quang rạng ngời của một thứ giao ước trọn đời phát xuất từ tình yêu quảng đại hiến thân và vô tư. Nhãn quan sáng ngời về hôn nhân và đời sống gia đình vững chắc cống hiến cho toàn khối xã hội một nền tảng mà các ước vọng của một quốc gia cần phải bám víu lấy.

“Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo ở Úc Đại Lợi sẽ tiếp tục nâng đỡ đời sống gia đình, một cơ cấu là đường lối cho nhân loại tiến đến tương lai (x Familiaris Consortio, 86). Giáo Hội đã hết sức dấn thân vào việc đào luyện về tinh thần cũng như kiến thức cho giới trẻ, nhất là qua các học đường của mình. Ngoài ra, việc tông đồ xã hội của Giáo Hội còn vươn tới cả những ai đang phải đối diện với một số những vấn đề trầm trọng của xã hội tân tiến như rượu chè, hút sách, nghiện ngập, và Tôi tin rằng Giáo Hội sẽ tiếp tục hăng say đáp ứng với những thách đố mới phát xuất trong xã hội”…….

Với vị tân lãnh sự nước Zimbabwe về toàn cầu hóa giá trị

…….. “Trong việc hoạt động với các phần tử khác của cộng đồng quốc tế, Tòa Thánh nỗ lực hỗ trợ hòa bình và hòa hợp nơi các dân tộc, bao giờ cũng nhắm đến công ích cũng như đến việc phát triển toàn diện cá nhân và các quốc gia. Công việc ngoại giao hiện nay càng ngày càng phải đương đầu với những khó khăn của vấn đề toàn cầu hóa và theo đó là những đe dọa mới cho nền hòa bình thế giới. Những vấn đề chính không còn là vấn đề chủ quyền về lãnh thổ nữa, tức về ranh giới và pháp giới nơi một số miền đất, cho du ụ ở một số nơi vẫn còn gặp rắc rối trục trặc. Nói chung, những đe dọa cho sự bền vững cũng như cho nền hòa bình trên thế giới ngày nay đó là tình trạng quá bần cùng, tình trạng chênh lệch về xã hội, tình trạng băng hoại về chính trị và lạm dụng quyền bính, những căng thẳng về sắc tộc, tình trạng thiếu dân chủ, tình trạng không biết tôn trọng nhân quyền. Đây là một số trường hợp cần phải được hoạt động ngoại giao đề cập tới.

“Không có một quốc gia nào trên thế giới mà lại không phải đối đầu với một hay nhiều vấn đề này. Đó là lý do mà những giá trị về dân chủ, về việc cai trị tốt đẹp, về nhân quyền, về đối thoại và về hòa bình cần phải được các vị lãnh đạo và các dân tộc ôm ấp. Các thứ giá trị này càng làm nên căn bản cho cái tinh túy của một quốc gia thì quốc gia ấy càng có khả năng xây dựng một tương lai xứng đáng cho phẩm giá con người công dân của mình. Ngoài ra, vấn đề toàn cầu hóa cho những thứ giá trị này cho thấy một thứ toàn cầu hóa tình đoàn kết là thứ toàn cầu hóa nhắm đến việc bảo đảm là tất cả mọi người trên hoàn vũ đều được hoan hưởng những thiện ích về kinh tế và xã hội. Đây là đường lối vững chắc để hoạt động cho hòa bình trên thế giới ngày nay. Ngược lại, một khi những thứ giá trị ấy bị loại trừ, hay tệ hơn nữa, bị vi phạm, thì không có một chương trình cải tiến nào về kinh tế hay xã hội sẽ đạt được hoa trái lâu bền. Thay vào đó, tình trạng bạo động về xã hội và chính trị sẽ từ từ tăng phát, khoảng cách giữa giầu nghèo sẽ càng lan rộng hơn, và chính vai trò lãnh đạo chính quyền sẽ không thể nào tạo nên được một môi trường thuận lợi cho sự thật, công lý, yêu thương và tự do.

“Bởi thế, cần phải hết sức khôn ngoan tỉnh táo trong việc bảo toàn các thứ quyền lợi và bảo vệ tình trạng phúc hạnh cho tất cả mọi người công dân. Các thẩm quyền dân sự cần phải tránh hành sử một cách thiên vị, tránh đối xử theo ý thích hay theo công lý tùy nghi thiên về một số cá nhân hay phái nhóm nào đó; điều này hết sức tác hại đến uy tín của những ai có trách nhiệm cai trị. Trong Bức Thông Điệp nổi tiếng của mình là Bình An Dưới Thế, Chân Phước Giáo Hoàng XXIII, vị tiền nhiệm của Tôi, khi trích lời Đức Lêô XIII, đã tóm tắt tình trạng ấy thế này: ‘Quyền lực dân sự không được phục vụ cho lợi lộc của bất cứ cá nhân nào hay của một số người nào, vì nó được thiết lập cho công ích của tất cả mọi người” (đoạn 56). Thật vậy, khi hết mọi người được đối xử bằng nhau thì giá trị, các tặng ân và tài năng của mỗi một phần tử càng dễ được nhìn nhận và càng góp phần hiệu nghiệm vào việc xây dựng cộng đồng. Sự khôn ngoan cổ kính được lưu truyền nơi một câu cách ngôn Phi Châu đã nói rằng: Gunwe rimwe haritswanyi inda ‘chung vai sát cánh thì việc nhẹ nhàng’”……….

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của VIS và Zenit ngày 15/5/2003

Với vị tân lãnh sự nước Latvia về các giá trị nhân bản

……..”Giáo huấn xã hội của Công Giáo, căn cứ vào những nguyên tắc phổ quát trong việc bảo đảm công lý và hòa bình giữa các cá nhân cũng như giữa các phái nhóm, nhìn nhận vai trò tích cực của các lực lượng chính trị và kinh tế nơi sinh hoạt của một quốc gia. Thế nhưng, để thực hiện việc thực sự tiến bộ, những lực lượng này cần phải hết sức lệ thuộc vào những đòi hỏi quan trọng hơn của vấn đề công lý xã hội, nhân quyền và công ích. Có thế, phẩm giá của con người mới được bênh vực, tình đoàn kết giữa các cá nhân cũng như giữa các phái nhóm mới được khuyến khích, sự hòa hợp và thịnh vượng xã hội mới được duy trì. Tóm lại, ‘tình trạng phúc hạnh về vật chất cũng như tinh thần của nhân loại, việc bảo vệ tự do và quyền lợi của con người, việc phục vụ vô tư cho cộng đồng, việc lưu ý tới những điều kiện cụ thể: tất cả đều là những gì cần phải có trước mọi dự án chính trị và là những gì tạo nên một nhu cầu luân lý tự bản chất của nó bảo đảm cho nền hòa bình ở các quốc gia cũng như nền hòa bình giữa các quốc gia” (Speech to the Diplomatic Corps accredited to the Holy See, 13 January 2003, 6).

“Các thứ giá trị chúng ta đang nói đến ở đây không có gì là xa lạ đối với quốc gia của ngài, bởi vì ngay từ thế kỷ 12, khi Thánh Meinhard, vị Tông Đồ nước Latvia, rao giảng Phúc Âm ở đất nước của ngài thì những lý tưởng này đã được đan kết thành chính tấm vải đời sống quốc gia của ngài. Chúng cần phải được củng cố và phát triển hơn nữa để nước Latvia tiếp tục cuộc hành trình của mình vào Ngàn Năm Thứ Ba cũng như để đất nước của ngài sửa soạn trở thành một phần tử thực thụ của một Khối Hiệp Nhất Âu Châu vươn rộng. Về vấn đề này, Tôi cảm thấy hài lòng trước việc nhận định của ngài về ảnh hưởng sâu xa Kitô giáo đã tác dụng nơi văn hóa và lịch sử Âu Châu. Thật vậy, Kitô giáo đặc biệt hãnh diện về việc đóng góp những giá trị sẽ khuôn đúc và gắn bó cho một tân Âu Châu: vì “một Âu Châu ruồng bỏ quá khứ của mình, một Âu Châu phủ nhận sự kiện về tôn giáo, và một Âu Châu không có chiều kích linh thiêng sẽ hoàn toàn trở thành nghèo nàn đối với dự án tham lam cần vận dụng tất cả nghị lực của nó trong việc kiến tạo nên một thứ Âu Châu cho tất cả mọi người” (cùng nguồn vừa dẫn).

“Chính vì thế mà Tòa Thánh tha thiết xin là Bản Hiệp Định Hiến Chế của Khối Hiệp Nhất Âu Châu phải chất chứa nơi Lời Mở Đầu của nó chi tiết rõ ràng về tôn giáo cũng như về gia sản Kitô giáo của Âu Châu. Thật vậy, điều đáng mong ước là, với hết lòng tôn trọng chính quyền trần thế, bản Hiến Pháp này phải công nhận ba yếu tố bổ túc sau đây: thứ nhất là tầm quan trọng của quyền tự do tôn giáo, chẳng những nơi các khía cạnh cá nhân cũng như tập thể của nó, mà còn nơi chiều kích cơ cấu của nó nữa; thứ hai là nhu cầu trao đổi và tham vấn giữa Khối Hiệp Nhất Âu Châu và các cộng đồng tín hữu; thứ ba là việc tôn trọng tình trạng pháp lý đã được thừa hưởng bởi các Giáo Hội và các cơ cấu tôn giáo ở các Quốc Gia hội viên trong Khối Hiệp Nhất này. Ba yếu tố liên hệ này sẽ giúp cho tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng có thể tiếp tục thực hiện việc đóng góp bất khả thay thế vào các sinh hoạt cũng như vào các cơ cấu Âu Châu.

“Dĩ nhiên, gia đình vẫn là những gì thiết yếu cho bất cứ một chương trình tiến bộ thực sự nào cũng như cho việc phát triển toàn diện con người nào, ở Âu Châu cũng như ở bất cứ nơi nào. Trong bản Tuyên Ngôn Chung của Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền, gia đình được nhìn nhận như là “một nhóm đơn vị xã hội tự nhiên và nồng cốt” (Khoản 16.3). Đây là một sự thật chính yếu cho việc hiện hữu xã hội của loài người không được sơ xuất hay coi thường, vì bất cứ sự yếu kém nào xẩy ra nơi cơ cấu bất khả thiếu này không thể nào lại không trở thành nguồn gốc gây ra những khốn khó và vấn đề nghiêm trọng. Chẳng hạn, khi quan niệm duy thực dụng và duy vật về gia đình thịnh hành thì các phần tử của nó sẽ hướng chiều về những ước vọng duy ngã và thực hiện những đòi hòi cá nhân tác hại đến tình trạng hiệp nhất của gia đình cũng như làm suy yếu khả năng xây dựng mối hòa hợp và giáo dục tình đoàn kết. Ngược lại, ở đâu nhìn nhận gia đình tự bản chất là một giá trị thì các phần tử của nó mới thấy rằng thiện ích riêng tư của mình đi song song với nhiệm vụ của họ trong việc yêu thương, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.

“Đối với chính sự sống của con người cũng như sự sống của mỗi người cũng thế. Khi giá trị, phẩm giá và các thứ quyền lợi của con người được nâng đỡ và cổ võ thì tấm vải xã hội được bền chắc và những thứ ưu tiên của các dân tộc cùng các quốc gia được ở trong một trật tự xứng hợp. Đó là lý do tại sao Giáo Hội không bao giờ thôi nhắc nhở lương tâm con người là sự sống ở suốt chặng thời gian hiện hữu của nó, từ khi được hoài thai cho đến khi tự nhiên qua đi, phải được cương quyết và dứt khoát bênh vực. Cũng thế, con người ở suốt cuộc sống của mình, khi còn nhỏ, thành người lớn cũng như trong tuổi già, là một kho tàng vô giá cần phải được chăm sóc và nâng niu. Cả sự sống con người cũng như ngôi vị con người không thể nào được phép đối xử như là một đồ vật, như là một sở hữu, mà phải coi như những gì được Tạo Hóa trang bị cho bằng một phẩm vị cao sang nhất, một phẩm vị cần phải được hết sức tôn trọng và khôn khéo về phần các cá nhân, cộng đồng, quốc gia và cơ cấu quốc tế”……..

Với vị tân lãnh sự nước Fiji Islands về căn tính và đa diện

………..” Ngài đã thẳng thắn đề cập đến những khó khăn gây ra cuộc khủng hoảng về chính trị vào Tháng Năm 2000 cùng với ý muốn dứt khoát của nhân dân Fiji trong việc làm cho những cái khác nhau của họ thành một nguồn mạch làm phong phú lẫn nhau hơn là thành một động lực chia rẽ và đối chọi. Những nỗ lực được quốc gia của ngài thực hiện trong việc đương đầu với những thử thách xẩy ra cho tình trạng hiệp nhất quốc gia trong tinh thần thành kính, trao đổi và hợp tác xây dựng là những dấu hiệu tích cực cho thấy một cuộc sẵn sàng nhìn về tương lai bằng cả niềm tin tưởng và cương quyết. Vào thời điểm cuộc Tông Du của mình, Tôi đã phấn khích tất cả mọi người Fijian là “hãy theo đuổi những đường lối trao đổi sáng tạo và việc hiểu biết lẫn nhau” như phương tiện phát triển tình huynh đệ và khuôn đúc một căn tính chung (Homily in Suva, 21 November 1986). Thực sự loại “sáng tạo” này, một loại sáng tạo căn cứ vào việc kiên trì dấn thân chấp nhận và cảm nhận những khác nhau thực sự làm phân ly một số yếu tố ở xã hội Fijian trong môi trường hiệp nhất quốc gia, pháp lý hiến định và công lý luật pháp, cần phải làm chắc vững những quyết định chính trị đặc biệt của các vị lãnh đạo quốc gia nước ngài. Chắc chắn công việc mệt nhọc nhắm đến việc xây dựng một trật tự xã hội biết tôn trọng tính cách đa diện hợp lý trong một căn tính chung cũng như trong việc dấn thân cho công ích không thể nào chỉ được giới hạn vào những kích thước của pháp luật mà thôi, vì những kích thước về pháp luật này cho thấy là nhưnõng gì vô hiệu nếu chúng, trước hết và trên hết, không được căn cứ vào ý thức cũng như vào tinh hoa sống động của dân chúng (cf. Message for the 2001 World Day of Peace, No. 15).

“Trong một trật tự hoàn vũ đang thay đổi mau chóng, Tôi tin rằng những xã hội đa văn hóa và đa tôn giáo như nước Fiji có nhiều điều để cống hiến cho các quốc gia khác, vì họ có thể hỗ trợ cộng đồng quốc tế trong việc phát triển những kiểu mẫu hiệp nhất toàn cầu mới đa diện. Việc dân thân kiên trì cho vấn đề đối thoại giữa các tôn giáo, văn hóa và truyền thống khác nhau thực sự là “đường lối cần phải có để xây dựng một thế giới hòa đồng, một thế giới có thể tin tưởng nhìn về tương lai của mình” (cùng nguồn vừa dẫn). Bất chấp những khó khăn thách đố buồn thảm và có những lúc đối chọi kịch liệt, việc đối thoại trao đổi vẫn là một nhu cầu khẩn thiết về luân lý và là phương tiện duy nhất để khuôn đúc tình trạng hòa đồng chân thực và bền vững dựa vào việc tôn trọng lẫn nhau và hợp tác với nhau. Ván đề dấn thân vào con đường đối thoại trước hết được bắt nguồn từ niềm xác tín sâu xa là, bất chấp những khác biệt của mình, tất cả chúng ta đều chia sẻ cùng một sự hiệp nhất căn bản ở chỗ chúng ta cùng là con cái của Thiên Chúa và là phần tử của một gia đình nhân loại duy nhất. Tất cả mọi nền văn hóa, với những sự hết sức khác biệt và với những đặc tính chuyên biệt của chúng, tựu kỳ chung đều là những diễn đạt lịch sử năng động của mối hiệp nhất sâu xa này. Trong khi nhân dân Fiji đang hướng về tương lai, Tôi tin tưởng rằng họ sẽ khám phá ra những nền tảng sâu xa nhất cho căn tính quốc thể của họ, cho tới độ, họ nhìn nhận và bênh vực những chân lý và giá trị siêu việt là những gì hiệp nhất tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm, đó là việc tôn trọng phẩm giá của mỗi một con người và việc bảo vệ các thứ quyền lợi căn bản của con người; tình đoàn kết giữa các cá nhân và các dân tộc; và việc cổ võ công lý là điều mà thiết hụt sẽ không thể nào có được một thứ tự do chân thực hay một nền hòa bình bền vững”………….
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của VIS và Zenit ngày 16/5/2003