GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 2/2004

Ý Chung: “Xin cho Kitô hữu, những người Do Thái và Hồi Giáo biết chung sống hòa bình với nhau ở Thánh Ðịa”.

Ý Truyền Giáo: “Xin cho các Giáo Hội địa phương ở Ðại Dương Châu đặc biệt lưu ý đến các ơn gọi linh mục và tu sĩ lo việc truyền bá phúc âm hóa”.

 

___________________________________________

 8-14/02/2004

Giovanni Paolo II

 

13/2 Thứ Bảy

 

FATIMA: CHÂN TRỜI CỨU ĐỘ

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Biệt tặng Phong Trào Thiếu Nhi Fatima

Mừng kỷ niệm thành lập 20 năm 1984-2004
 

Fatima: Tổng Quan

Theo lịch sử Thánh Mẫu, Biến Cố Fatima là Biến Cố Thánh Mẫu trọng đại nhất trong các Biến Cố Thánh Mẫu, vì Biến Cố Fatima liên quan đến vai trò của Giáo Hội cũng như đến vận mệnh thế giới.

Trước hết, Biến Cố Fatima liên quan đến vai trò của Giáo Hội là vì, theo ý muốn của Thiên Chúa, Vị Chủ Chiên Tối Cao của Giáo Hội là Đức Thánh Cha phải hợp cùng tất cả các vị giám mục trên thế giới để hiến dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ.

Điều này đã được hiện nhiều lần, như vào ngày 31/10/1942 và 7/7/1952 bởi ĐTC Piô XII, cũng như vào ngày 21/11/1965 bởi ĐTC Phaolô VI, hay vào ngày 13/5/1982 và 25/3/1984 bởi ĐTC Gioan Phaolô II.

Sau nữa, Biến Cố Fatima liên quan đến vận mệnh của thế giới cũng như đến phần rỗi của các linh hồn. Bởi vì, như Mẹ Maria tiết lộ vào lần hiện ra thứ ba ngày 13/7/1917, “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới. Nếu điều Mẹ nói được thực hiện thì thế giới sẽ có hòa bình và nhiều linh hồn được cứu rỗi”.

Thiên Chúa quả thực đã muốn thiết lập lòng Tôn Sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới, chứ không phải chỉ ở một nước nào, hay ở trong Giáo Hội mà thôi. Bởi thế, Ngài đã thực hiện ý định này của Ngài bằng việc Đức Thánh Cha hiệp cùng các giám mục trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, sau đó Ngài đã làm cho Nước Nga trở lại.

Thế nhưng, tại sao cho đến ngày hôm nay, cho đến thế kỷ 20, Thiên Chúa mới tỏ ra ý định muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới?

Và tại sao Thiên Chúa lại chỉ muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ mà không thiết lập một sự tôn sùng nào khác về Đức Mẹ, như tôn sùng bảy sự thương khó Đức Mẹ hay tôn sùng đặc ân Mẹ Thiên Chúa của Người?

Sở dĩ cho đến thế kỷ 20 Thiên Chúa mới rõ ràng tỏ ý định của Ngài ra là Ngài muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội trên thế giới, là vì, như Mẹ đã nói với Thiếu Nhi Lucia ngày 13/6/1917: "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa".

Thật vậy, "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa" bởi vì, như Mẹ đã xưng mình vào ngày 13/10/1917: "Mẹ là Đức Bà Mân Côi".

Tại sao ở Lộ Đức năm 1858 Mẹ xưng mình "Mẹ hoài thai vô nhiễm tội", mà ở Fatima năm 1917 Mẹ lại xưng "Mẹ là Đức Bà Mân Côi"? Nếu không phải vì tước hiệu này liên quan đến Dự Án Fatima. Thế nhưng Dự Án Fatima đây là gì?

Dự Án Fatima đây là hòa bình thế giới và phần rỗi các linh hồn. Thật vậy, dự án này đã được Mẹ Maria tỏ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết vào ngày 13/7/1917, ở phần Bí Mật Fatima thứ hai như sau: "Nếu những điều Mẹ nói được thực hiện thì thế giới sẽ có hòa bình và nhiều linh hồn được cứu độ".

Tuy nhiên, nếu chiến tranh xẩy ra là vì con người sa đọa, thì hòa bình chỉ có khi con người cải thiện. Đó là lý do, vào ngày 13/10/1917, ngay trước khi kết thúc Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, Đức Mẹ đã tỏ cho biết cốt lõi Dự Án Fatima là Chúa Giêsu Thánh Thể: "Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Ngài đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi".

Đúng thế, Dự Án Fatima được Mẹ Maria tỏ cho loài người biết rất hợp với thời điểm của Biến Cố Fatima, một Biến Cố Thánh Mẫu đã xẩy ra vào Thế Chiến Thứ Nhất, một Biến Cố Thánh Mẫu đã xẩy ra trùng với nạn Cộng Sản xuất đầu lộ diện trên thế giới, và là một Biến Cố Thánh Mẫu xẩy ra sau thời Thánh Giáo Hoàng Piô X (1903-1914), Vị Giáo Hoàng đã muốn "phục hồi mọi sự trong Chúa Kitô", đúng như khẩu hiệu giáo hoàng của Ngài "instaurare omnia in Christo", về cả phương diện tiêu cực lẫn tích cực.

Về phương diện tiêu cực, Ngài đã lên án Tân Tiến Thuyết "là tổng hợp tất cả các lạc thuyết", bằng sắc lệnh Lamentabili Sane ban hành ngày 3/7/1907, cũng như bằng Thông Điệp Pascendi Dominici Gregis ngày 8/9/1910. Về phương diện tích cực, vào năm 1905, Ngài đã khuyến khích việc rước lễ thường xuyên hơn, và vào năm 1910, qua sắc lệnh Quam Singulari, Ngài đã rút tuổi cho trẻ em được rước lễ sớm hơn.

Như Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức, sau khi Giáo Hội tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 8/12/1854, thì Mẹ đã xưng mình "Ta hoài thai vô nhiễm tội" ngày 25/3/1858 thế nào, Biến Cố Thánh Mẫu Fatima cũng vậy, sau khi Giáo Hội, qua Đức Piô X, kêu gọi rước lễ thường xuyên và rước lễ sớm hơn, thì Thiên Thần Hòa Bình, vào năm 1916, qua ba lần hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima, đã dạy cho các em cầu nguyện và hy sinh đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể như vậy.

Thật vậy, Chúa Giêsu Thánh Thể chẳng những là tâm điểm của Biến Cố Fatima, một biến cố chẳng những được mở màn bằng sự kiện Thiên Thần Hòa Bình hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima về Chúa Giêsu Thánh Thể mà còn được kết thúc bằng lời Mẹ Maria trăn trối làm nên cốt lõi của Sứ Điệp Fatima, đó là lời kêu gọi vào lần Mẹ Maria hiện ra cuối cùng 13/10/1917 để hoàn toàn kết thúc Biến Cố Fatima: “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”.

Nếu “Chúa là Thiên Chúa của chúng ta” đây là Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng được Thiếu Nhi Fatima Phanxicô gọi là “Giêsu Ẩn Thân” và được em luôn tìm cách ủi an đền tạ, thì lời kêu gọi “đừng xúc phạm” này nhắm vào thành phần Kitô hữu nói chung và Công giáo nói riêng, vì Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể cho riêng Cộng Đồng Môn Đệ Giáo Hội của Người.

Nếu sự kiện “Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi” cho thấy “lòng mến” nơi hầu hết thành phần môn đệ Chúa Kitô càng ngày càng “trở nên nguội lạnh” (Mt 24:12), thì hơn bao giờ hết Giáo Hội cần phải thực hiện việc canh tân mới có thể trở thành Bí Tích Cứu Độ muôn dân trong thời đại văn minh hầu như tuyệt đỉnh về vật chất và nhân bản này. Bằng không, có thể khẳng định rằng thế giới này sở dĩ càng ngày càng trở nên tối tăm mù mịt trong màn đêm văn hóa sự chết là vì ánh sáng thế gian nơi thành phần môn đệ Chúa Kitô đã bị mờ nhạt.

Đó là lý do, khi hiện ra ở Fatima, hay qua Biến Cố Fatima, Mẹ Maria chẳng những ban bố Sứ Điệp Fatima cứu độ mà còn thành lập một lực lượng cứu độ nữa, đó là ba Thiếu Nhi Fatima. Lực lượng cứu độ này quan trọng đến nỗi, trước khi Mẹ xưng mình là ai, vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, và ngay cả trước khi tiết lộ cho biết Bí Mật Fatima hàm chứa Dự Án Fatima vào lần hiện ra thứ ba 13/17/1917, thì ngay vào lần hiện ra thứ nhất 13/5/1917, lần hiện ra đột xuất làm cho cả 3 Thiếu Nhi Fatima nhỏ bé còn đang lạ lùng bỡ ngỡ, Mẹ Maria đã kêu gọi các em hãy tình nguyện dâng mình cho Thiên Chúa để chịu tất cả mọi đau khổ Ngài gửi đến cho như một việc hy sinh đền tạ những gì Ngài phải chịu mà cầu cho tội nhân ơn ăn năn trở lại. Và 3 Thiếu Nhi Fatima, được thúc động nội tâm, đã đồng thanh: “Vâng, chúng con sẵn sàng”, để từ đó đã được Mẹ Maria tài tình huấn luyện để các em thực sự trở thành một Lực Lượng Cứu Độ, “oai hùng như đạo binh sắp hằng vào trận”.

Những chia sẻ dẫn nhập về Fatima Tổng Quan trên đây sẽ được sáng tỏ hơn nữa qua những gì cần phải được trình bày ở những chương sau đây:

Biến Cố Fatima – Dấu Hiệu Cứu Độ
Bí Mật Fatima – Dự Án Cứu Độ
Sứ Điệp Fatima – Linh Đạo Cứu Độ
Thiếu Nhi Fatima – Lực Lượng Cứu Độ
Fatima: Tổng Cuộc

 
Khởi viết vào chính ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa cũng là Ngày Hòa Bình Thế Giới 1/1/2004
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

ĐTC GPII với Thủ Tướng Palestine và Ngoại Trưởng Iran

Ngày Thứ Năm 12/2/2004, ĐTC GPII đã tiếp hai vị đặc biệt của Khối Ả Rập, một là thủ tướng của Palestine, vị thủ tướng từ ngày 7/9/2003 và là vị thứ hai từ tháng 4/2003; hai là ngoại trưởng Kamal Kharrazi của Cộng Hòa Hồi Giáo Iran đi với phái đoàn tùy tùng của ông. Ngài đã nói với Thủ Tướng Palestine về vấn đề tinh thần cần phải có để sống chung giữa hai dân tộc Do Thái và Palestine ở Thánh Địa. Và Ngài cũng đã nói với vị ngoại trưởng Iran về vấn đề bảo toàn những quyền lợi bất khả nhượng và phẩm giá con người. Vị lãnh đạo đến gặp gỡ ĐTC GPII trước lần này là Tổng Thống Seyyed Mahammad Khatami vào ngày 11/3/1999.

Diễn Từ Với Thủ Tướng Palestine

Thưa Thủ Tướng,

Tôi hân hạnh được đón tiếp ông ở Vatican đây. Sự hiện diện của ông làm cho Tôi sống lại ký ức của việc Tôi hành hương tới Thánh Địa là nơi Tôi đã thiết tha nguyện cầu cho hòa bình và công lý ở miền này. Cho dù không thiếu những dấu hiệu hy vọng nhưng tiếc thay tình hình buồn thảm ở Thánh Địa vẫn gây khổ đau cho tất cả mọi người.

Không ai được chiều theo lòng chán nản, để mặc cho thái độ hận thù và việc trả thù làm gì thì làm. Thánh Địa cần đến sự hòa giải: cần đến thứ tha hơn là thù hận, cần những những chiếc cầu nối hơn là những bức tường ngăn cách. Với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nếu tất cả mọi vị lãnh đạo ở miền này đáp ứng đòi hỏi ấy thì con đường đối thoại và thương thảo sẽ dẫn tới một nền hòa bình bền vững. Tôi chân thành cầu xin muôn vàn phúc lành thần linh xuống trên ông và nhân dân của ông.

Diễn Từ Với Ngoại Trưởng Iran

Thưa Ngài,

Tôi hân hạnh đón tiếp ngài tại Vatican hôm nay đây. Sự hiện diện của ngài là một dấu hiệu cho thấy sự hợp tác đến nay đã trên 50 năm làm nên những liên hệ chính thức giữa Tòa Thánh và đất nước của ngài. Tôi tin rằng tinh thần hợp tác này sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn khi chúng ta nói lên những vấn đề liên quan chung của chúng ta.

Vấn đề tối thiểu về khía cạnh này đó là việc dấn thân đang được thực hiện trong việc bảo toàn các thứ quyền lợi và phẩm giá bất khả chuyển nhượng của con người, nhất là nơi những nỗ lực nhắm đến việc cổ võ sự tương kiến giữa những thành phần thuộc niềm tin, văn hóa và sắc tộc khác nhau.

Ngài Bộ Trưởng, Tôi ước mong những ngày ngài ở Rôma được tốt đẹp và Tôi cầu xin Thiên Chúa Toàn Năng ban phúc lành cho ngài.
 

“Chúc phúc nguyền rủa”

Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật Thứ VI Thường Niên 

Phúc Âm

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca

Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật. Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế. Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả.

Hướng Dẫn

Bài Phúc Âm Chúa Nhật VI Thường Niên Năm C tuần này thuật lại việc Chúa Giêsu giảng dạy về 4 phúc đức và 4 ác đức.

Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại có 8 phúc đức và không nói gì đến 4 ác đức. Ở đây Phúc Âm Thánh Luca chỉ nói đến 4 trong 8 phúc đức này mà thôi, và còn thêm 4 ác đức ngược lại với 4 phúc đức nữa.

4 phúc đức được Thánh Luca ghi lại ở đây là nghèo khổ, đói khát, khóc lóc và nhục nhã, và 4 ác đức hoàn toàn ngược lại là giầu sang, no đầy, vui cười và vinh quang.

Tức là phúc đức của người này là ác đức của người kia, hay ngược lại ác đức của người kia là phúc đức của người này.

Chẳng hạn, nghèo khổ là phúc đức của người sống đức tin, lại là ác đức của người chỉ tìm giầu sang phú quí ở đời này; hay được vinh quang chúc tụng là ác đức của những tâm hồn chỉ biết tìm vinh quang Thiên Chúa thì lại là phúc đức của thành phần tham quyền cố vị, ham danh trọng tiếng v.v.

Đó là lý do hôm nay chúng ta sẽ sinh hoạt trò chơi Phúc Âm “Chúc phúc nguyền rủa” sau đây.

Sinh Hoạt

1. Mỗi nhóm cử ra 8 người, 4 người đóng vai phúc đức và 4 người đóng vai ác đức, đừng đứng đối diện nhau từng cặp một theo cặp phúc đức và ác đức đối chọi nhau. Như người đóng vai phúc đức nghèo khổ đừng đối diện với người đóng vai ác đức giầu sang. Mà là đứng chéo nhau tùy theo người quản trò sắp xếp.

2. Trên tay mỗi người đều cầm một cái gì đó tiêu biểu cho phúc đức hay ác đức của mình. Chẳng hạn người đóng vai phúc đức nghèo khó cầm chiếc dép trong tay, còn người ác đức giầu sang cầm ổ bánh trong tay.

3. Người quản trò có 5 hiệu lệnh: 4 hiệu lệnh cho từng cặp phúc đức và ác đức đối chọi nhau, và 1 hiệu lệnh cho chung cả 4 cặp phúc đức và ác đức.

4. Khi nghe thấy hiệu lệnh giành cho cặp phúc đức và ác đức đối chọi nhau của mình thì hai người đóng vai cặp phúc đức này tung những gì cầm trong tay cho nhau, hay khi nghe hiệu lệnh chung thì tất cả 4 cặp phúc đức và ác đức tung cho nhau cùng một lúc.

5. Người quản trò có thể phát hiệu lệnh liền nhau chứ không cần từ từ để từng cặp làm xong rồi mới tới cặp tiếp theo v.v. Người quản trò sẽ phát 5 hiệu lệnh mỗi lần chơi cho từng nhóm.

6. Trò chơi được kết thúc ở chỗ nhóm nào làm đúng nhất và không bị rơi nhiều thì đoạt giải “chúc phúc nguyền rủa”.
 

13/2 Thứ Sáu

 

Thánh Tử Ðạo Việt Nam:

Thứ Sáu 13/02/2004

Phaolô Lê Văn Lộc, Lm

 

TUYỆT ĐỈNH NHÂN QUYỀN

Tuyệt Đỉnh Ðộc Tôn

“Thật vậy, là người, theo tự nhiên, ai cũng muốn sống, và đã sống thì phải sống một sự sống trọn vẹn, một sự sống dồi dào. Đó là một thực tại, một thực tại hết sức hiển nhiên.

“Không phải hay sao, cũng là một loài sinh vật như loài người, tức là, về hữu thể, cũng có vóc dáng (tuy khác hình thù) và khả năng sinh động (tuy khác cấp độ) như con người, song loài vật chỉ sống và vĩnh viễn sống ở mức độ bản năng, trước sau như một, chứ không tiến hóa như loài người. Đúng thế, văn minh của con người chính là dấu chứng tỏ tường nhất và là biểu hiệu hùng hồn nhất cho thấy sự sống của con người là loài ‘linh ư vạn vật’ đã, đang và sẽ càng ngày càng trọn vẹn hơn, càng dồi dào hơn. Ở chỗ người ta không chỉ sống để ăn mà ăn để sống, và không phải chỉ sống cho mình mà còn sống với nhau cũng như cho nhau trong mối liên đới gia đình và xã hội nữa. Và điều chứng tỏ con người đã và đang thực sự đạt đến tầm vóc trưởng thành và trọn vẹn nhất của mình là ở chỗ, họ chẳng những đã ý thức được quyền làm người bất khả vi phạm của họ, mà còn tranh đấu để đòi hỏi quyền làm người theo bản tính của mình, nhất là dấn thân trong việc bảo vệ quyền làm người của nhau bị vi phạm nữa.

“Tuy nhiên, thực tế hết sức phũ phàng cũng cho thấy, chính khi con người đạt tới tầm mức trưởng thành của mình, ở chỗ nhận biết và đòi hưởng quyền làm người xứng đáng với thân phận của mình như thế, họ lại bị khủng hoảng hơn bao giờ hết. Nhìn vào thế giới văn minh hầu như tuyệt đỉnh ngày nay, (so với thời ‘xưa’, 10 năm trước đây, thời mới từ đầu thập niên 1990, nhất là thời 40 năm trước đây, từ thập niên 1960, đặc biệt là thời hơn 50 năm trước đây, từ sau Thế Chiến Thứ Nhất vào cuối thập niên 1940, chứ chưa nói gì đến từ thời Cách Mạng Âu Châu vào thế kỷ 18 và 19), người ta thấy hiện lên một cách hết sức r ràng hình ảnh của một thế giới, trong đó, có một số rất đông (các nước đang tiến) đang hồ hởi tiến lên chóp đỉnh, cũng như một số không ít (các nước tân tiến Âu Châu và Bắc Mỹ) đã lên tới và đang reo hò ở trên một chóp đỉnh...

“Thế nhưng, cũng từ chính chóp đỉnh nhân quyền ấy, người ta đồng thời cũng thấy cơ cấu lập pháp, hành pháp và tư pháp của họ chẳng những reo hò mừng rỡ mà còn la lối nhau, quát tháo nhau, vì những va chạm quyền làm người, khiến cho những con người được ‘may phước’ sống trong xã hội ‘đi giầy tây’ văn minh song lại là một xã hội đang ‘đóng khố’ về luân lý ấy quay ra giành giật nhau, xô lấn nhau, ‘ly dị’ nhau, đến nỗi tình trạng ‘mạnh được yếu thua’ (người khỏe được ‘quyền’ giết người bệnh), ‘cá lớn nuốt cá bé’ (thai mẫu được ‘quyền’ giết thai nhi), ‘cá mè một lứa’ (đồng tính được ‘quyền’ luyến ái và lập gia đình với nhau), của một thứ ‘luật rừng’ còn tệ hơn cả thời con người tiền sử ‘ăn lông ở lỗ’ ngày xưa, đã và đang hết sức phũ phàng và trắng trợn diễn tiến trên tháp đỉnh của lịch sử văn minh loài người ngày nay”.

(Cùng tác giả, Ánh Sáng Thế Gian, Cao-Bùi, 2000, trang 232-233)

Theo Tây lịch, kể từ Năm 2000, lịch sử loài người đã bước sang một thiên niên kỷ mới là ngàn năm thứ ba, một thế kỷ mới là thế kỷ 21. Một số người, căn cứ vào cách đếm từ số 1 và kết thúc ở số có con số 0, cho rằng thiên niên kỷ thứ ba và thế kỷ 21 phải được bắt đầu từ năm 2001. Vẫn biết chúng ta bao giờ cũng đếm từ số 1, song số 1 tự nó lại phải được bắt đầu từ số 0, tức là nếu không có số 0 thì cũng không có số 1, (phải sống qua đủ 365 năm ngày từ khi được sinh ra đời mới mừng sinh nhật 1 tuổi là vậy), do đó, thực tế cho thấy, chục thứ nhất không phải được bắt đầu từ số 10, dù số 10 được bắt đầu với con số 1, mà là từ 0 tới 9, và chục thứ hai từ hàng số (10-19) với mỗi số được bắt đầu với con số 1, cứ thế chục thứ ba bắt đầu từ hàng số với mỗi số được bắt đầu với con số 2 v.v. Bởi thế, từ trước tới nay chúng ta mới thấy những năm thiên kỷ hay thế kỷ có con số 1 đứng đầu lại thuộc về thế kỷ hay thiên niên 2. Chẳng hạn những năm thuộc thiên niên kỷ thứ hai bao gồm tất cả các năm có con số 1 dẫn đầu, tức từ năm1000 tới năm 1999; hay những năm thuộc thế kỷ thứ ba bao gồm tất cả các năm có con số 2 dẫn đầu, tức từ năm 200 tới 299 v.v. Do đó, nếu đếm thì đếm từ số 1 còn tính phải tính từ số 0 thế nào, thì theo cách tính số này Năm 2000 thực sự đã mở màn cho một thiên kỷ mới thứ ba cũng là một thế kỷ mới 21.

Thế nhưng, nhìn lại lịch sử loài người trong một ngàn năm qua, hay trong một thế kỷ qua, loài người chúng ta thấy được những gì, nếu không phải là trong khi con người càng ngày càng tiến bộ về văn minh vật chất, đến nỗi, chính con người văn minh hiện nay cũng không biết rằng mình sẽ đi về đâu và sẽ văn minh tới mức nào là cùng tận, là tuyệt đỉnh, thì xã hội loài người đồng thời cũng cứ có một cái gì đó không được ổn, ở chỗ không ngừng đối chọi nhau, kỳ thị nhau và sát hại lẫn nhau, để tranh giành quyền hành thống trị với những cuộc chiến tương tàn.

Tuyệt Đỉnh Đáy Vực

Điển hình nhất là Vụ Khủng Bố Hoa Kỳ vào sáng ngày 11/9/2001, một vụ khủng bố công khai chưa từng thấy tại chính thành phố New York của một quốc gia đệ nhất thiên hạ làm cho cả thế giới phải bàng hoàng sửng sốt, một cuộc khủng bố nhắm vào việc phá hủy World Trade Center là Trung Tâm Mậu Dịch Thế Giới vào lúc 8 giờ 45 và 9 giờ 3 phút, cũng như vào Pentagon là Ngũ Giác Đài vào lúc 9 giờ 43 phút cùng ngày, hai trụ sở tiêu biểu cho quyền lãnh đạo của Hoa Kỳ trên thế giới hiện đại về chính trị và kinh tế.

Nếu bảo cộng sản không có nhân quyền, thì thử hỏi tại sao tư bản lại càng phạm đến nhân quyền. Ở chỗ, cá lớn nuốt cá bé. Ở chỗ, viện trợ nhân đạo để khai thác và tân thực dân hóa nhau, biến nhau trở thành thị trường tiêu thụ cho mình. Ở chỗ, nước đã giầu lại càng giầu, nước đang nghèo lại càng khổ, dù đang thực hiện tiến trình toàn cầu hóa. Ở chỗ, nước nghèo đang lâm cảnh chết đói và thiếu dinh dưỡng, thì nước giầu lại giành ra những chi khoản khổng lồ cho vấn đề chế tạo vũ khí giết người, cho vần đề ngừa thai phá thai v.v.

Nếu bảo các chế độ quân chủ cũng không có nhân quyền, thì thử hỏi tại sao dân chủ lại càng phạm đến nhân quyền. Ở chỗ, ý dân là ý trời. Ở chỗ, người ta tưởng mình có toàn quyền định đoạt, toàn quyền pro choice, toàn quyền lập pháp, toàn quyền ban hành những đạo luật cho phép ly dị, cho phép phá thai, cho phép hôn nhân đồng tình, cho phép tạo sinh sao bản cloning (dù mới đầu chỉ là để trị liệu) v.v.

Vẫn biết con người chưa lên đến tuyệt đỉnh văn minh về vật chất, tức về khoa học và kỹ thuật, dù càng ngày con người càng tiến bộ về văn minh vật chất một cách gia tốc, nhanh đến độ họ không thể nào kiểm soát được nữa, nhanh đến nỗi làm cho họ quay cuồng choáng váng, thậm chí làm cho nhiều người trở thành quê mùa khờ khạo không theo kịp đà tiến của nó, nhưng về nhân bản, quả thực, sau hai trận Thế Chiến I và II, con người đã lên đến tột độ văn minh, ở chỗ họ đã biết mình là ai và có những quyền lợi cùng trách vụ nào thích hợp với thân phận cùng nhân vị làm người của họ.

Thế mà tại sao con người vẫn chưa đạt đến hạnh phúc như lòng mong muốn, xã hội loài người càng ngày càng sa đọa, thế giới loài người càng ngày càng hỗn loạn và bạo loạn?

Phải chăng vì loài người dù có khả năng (theo văn minh vật chất về khoa học và kỹ thuật), nhưng rất tiếc lại thiếu lòng đạo, chỉ biết sống bởi bánh kinh tế và chính trị, mà khinh thường hay không chịu sống những gì bởi trên cao, những gì thuộc về luân thường đạo lý là yếu tố chính yếu làm nên con người chân chính đích thực!

Phải chăng vì loài người dù biết ý thức bản thân (theo văn minh nhân bản về quyền làm người), nhưng lại thiếu chiều sâu, không biết trả về cho trần gian những gì của trần gian và trả về Đấng Tối Cao những gì của Ngài, cứ tưởng những gì mình làm được là do khả năng vô địch của mình, cứ tưởng những gì mình có là tuyệt đối của mình nên mình có toàn quyền quyết định!

Tuy nhiên, vì chưa đạt được mục đích phúc hạnh thực sự, trọn vẹn và bền vững của mình, con người đã, đang và sẽ không bỏ cuộc, vẫn tìm hết cách để vượt thoát khỏi vũng lầy sa đọa khốn cùng của mình. Tiếc thay, thực tế cho thấy, nếu không khéo, càng vùng vẫy, con người càng lún xuống bùn lầy thêm.

Không phải hay sao, loài người đã không lún sâu xuống vũng lầy sa đọa của mình hơn, khi giải quyết nạn bất công xã hội của mình ở thế kỷ 19 và 20 bằng chủ nghĩa và chế độ cộng sản, một chủ nghĩa và chế độ, như thực tế cho thấy, chỉ hạ thấp mức sống của con người, biến con người thành công cụ sản xuất!

Không phải hay sao, loài người cũng đang không càng lún sâu xuống vũng lầy sa đọa của mình hơn khi giải quyết nạn tân thực dân đế quốc bằng những cuộc khủng bố tấn công, một phản ứng vùng vẫy của một kẻ bị đẩy đến chân tường, một phản ứng liều mạng cho dù có phải lãnh đủ những cuộc tấn công khủng bố trả đũa sau đó!

Dầu sao, nếu con người nhận ra dấu chỉ thời đại qua những hiện tượng cộng sản ở thế kỷ 20, hay hiện tượng khủng bố ở thế kỷ 21 này mà nhận biết mình hơn, mà dứt khoát hoán cải những gì tiêu cực, những gì vi phạm đến công lý và tình đoàn kết, bằng cách loại trừ đi những căn nguyên gây ra nạn cộng sản và khủng bố, thì lịch sử loài người chắc chắn sẽ chóng tiến đến chân trời hòa bình và yêu thương, tiến đến một đời sống chung như một đại gia đình nhân loại.

Tuyệt Đỉnh Tối Thượng

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là liệu loài người nói chung, nhất là đương sự thực dân tư bản gây ra nạn cộng sản và khủng bố có biết được điều này hay chăng, tức có công nhận do lỗi lầm của mình đã khiến loài người lâm cảnh hỗn loạn và bạo loạn như thế hay chăng, khiến loài người tưởng rằng mình đang lên đến tuyệt đỉnh nhân quyền thì lại đang ở dưới đáy vực nhân quyền hay chăng?

Nếu quả thực họ không biết hay không cho những gì họ làm là lầm lỗi, thì làm sao họ có thể sửa mình được! Nghĩa là con người dù văn minh tuyệt đỉnh về vật chất và nhân quyền đi nữa, trong trường hợp này, họ tỏ ra vẫn còn mù tối, vẫn còn ấu trĩ, vẫn còn chưa hiểu gì, vẫn còn chưa sống trong sự thật! Bởi vậy, còn lâu con người mới có thể tiến đến chân trời hòa bình và yêu thương.

Cho dù họ biết rõ điều này đi nữa, biết rõ do mưu đồ lịch sử mờ ám của mình, do chính sách ngoại giao thất sách của mình, do những bất công phi nhân bản của mình như thế, song họ có dám nhận lỗi hay chăng, vì nhận lỗi nghĩa là có ý định đi đến chỗ sửa lỗi, có ý định đi đến chỗ cải thiện. Một khi biết lỗi mà lại không dám nhận lỗi và sửa lỗi là con người đang ở trong tình trạng, một là cố chấp, hai là quá yếu đuối nhu nhược. Cả hai tình trạng thái cực, cố chấp và nhu nhược này, đều cho thấy con người đã già yếu lắm rồi, hay đang bị tật nguyền không thể làm được những gì như một con người bình thường. Vậy thì cái gia tài kếch sù về văn minh vật chất và nhân bản do cha ông lưu lại mà họ đang nỗ lực kiến tạo thêm đây chẳng khác gì như một thứ bảo tàng viện để bảo tồn và ngắm nghía, hơn là một nguồn phúc lộc để chia sẻ và đồng hưởng.

Tôi không nghĩ là con người văn minh quá cỡ về vật chất và tuyệt đỉnh về nhân bản hiện nay lại rơi vào trường hợp thứ nhất, trường hợp mù tối, trường hợp ấu trĩ. Bởi vì, chính nơi loài người cũng đã có những thẩm quyền, chẳng hạn Giáo Hội Công Giáo Rôma, hay có những tổ chức bênh vực nhân quyền dân sự, vẫn mạnh mẽ lên tiếng cảnh giác những nhà lãnh đạo quốc gia và quốc tế về những chính sách hay những đường lối phi nhân hoặc phản luân thường đạo lý, thậm chí họ còn dám khẳng khái phản đối và chống đối những bất công và tệ đoan trong xã hội, dám bênh vực thành phần bị bóc lột, đàn áp và sát hại.

Vậy thì con người chỉ còn rơi vào tình trạng thứ hai, tình trạng cố chấp hay nhu nhược, bằng không, nếu họ vẫn không chịu chấp nhận mình cố chấp hay nhu nhược, họ sẽ lọt vào tình trạng thứ ba, tình trạng ngông cuồng, không cho rằng những điều được thành phần pro life hay thẩm quyền tôn giáo đề nghị hay khuyên dụ về quyền lực của luật lệ (power of law) là đúng, trái lại, họ biện minh cho những việc họ làm theo chiều hướng luật lệ của quyền lực (law of power), tức chiều hướng họ được quyền làm tất cả những gì tự do của họ cho phép và lợi ích của họ đòi hỏi.

Theo lập luận đơn phương thay vì song phương này, lập luận bay chết mặc bay thay vì lá lành đùm lá rách này, chúng ta thấy thành phần mạnh được yếu thua và cá lớn nuốt cá bé ấy quả thực đã lên đến tuyệt đỉnh nhân quyền, nơi họ đang một mình hoan hưởng tất cả những gì là vinh hoa phú quí của một bữa tiệc cao lương mỹ vị đầy văn minh vật chất và nhân bản. Thế nhưng, để tận hưởng và an hưởng bữa tiệc văn minh này, họ đã phải đặt những trạm kiểm soát (checkpoints) khắp nơi, như ở Iraq thời nhậu chiến, phải sử dụng đến những hệ thống an ninh (security systems/devices) tối tân nhất, như ở các phi trường quốc tế, để đề phòng khủng bố tấn công. Thử hỏi, ở trong tình trạng vừa hoan hưởng vừa âu lo ngờ vực bất an như thế, họ có thực sự sung sướng không?!

Có thể nói, thành phần văn minh sống ngông cuồng ở đây thuộc vào trường hợp của những kẻ say men chiến thắng, say đến túy lúy, đến nỗi không biết mình làm gì nữa, không biết những việc làm ấy có hợp với phẩm giá và nhân cách làm người của mình hay chăng! Cho đến khi tỉnh dậy thì đã muộn mất rồi. Thành phần cường quốc văn minh vật chất và nhân bản cứ phá thai đi, họ sẽ không còn gặp nạn quá đông dân số (overpopulation) nữa, nhưng sẽ phải đương đầu với nạn quá ít dân số (underpopulation), sản xuất nhiều tiêu thụ ít, nhất là tình trạng thiểu số (như người Mỹ da đen hay người Mễ ở Mỹ không phá thai) trở thành đa số, sau này, từ chỗ hạ cấp sẽ theo đà dân chủ lên lãnh đạo nắm đầu thành phần thượng đỉnh trước kia.

Lịch sử đã hiển nhiên cho thấy định luật tuần hoàn và đào thải này. Không một đế quốc nào, dù mạnh mẽ đến đâu, dù kéo dài đến mấy, có thể tồn tại với thời gian. Nguyên tắc tồn vong là thế này: nếu những gì hợp với định luật thiên nhiên đều tồn tại và phát triển, thì bất cứ những gì không hợp với định luật tự nhiên, tức không hợp với dự án của Đấng Hóa Công Tối Cao, với thượng trí của Đấng Làm Chủ vũ trụ và lịch sử loài người, đều sẽ bị đào thải, đều tiến đến chỗ suy vong, đều tự diệt, đều biến mất. Chẳng hạn tín ngưỡng đa thần, chế độ đa thê, chế độ nô lệ, chế độ quân chủ, chính sách thực dân, chế độ cộng sản v.v. Cũng thế, số phận của những thứ luật lệ phi nhân và vô luân phản tự nhiên như ly dị, phá thai, đồng tính hôn nhân, tạo sinh sao bản v.v. chắc chắn sẽ đi đến chỗ tận cùng, một thứ tận cùng đã xuất đầu lộ diện ngay trong tình trạng sa đọa và hỗn loạn nơi xã hội văn minh của loài người ngày nay.

Nhưng không phải chúng ta cứ ngồi nguyền rủa bóng tối và chờ cho đến khi “cùng tất biến” của tất cả những gì sai trái xẩy ra trên thế gian này. Chính những hỗn loạn và bạo loạn trên thế giới này cho thấy trận chiến thiện ác đang xẩy ra nơi xã hội con người. Trận chiến càng gay go và dữ dội, chưa bao giờ xẩy ra như hiện nay trong một thế giới đang theo chiều hướng toàn cầu hóa ngôi làng hoàn vũ (global village) này, càng chứng tỏ sự dữ đang hoành hành, lộng hành và bạo hành, và càng chứng tỏ sự dữ cũng đang gặp sức chống đối mãnh liệt của sự lành.

Bình thường, sự dữ bao giờ cũng mạnh hơn và thắng thế hơn trong bất cứ một chiến trận nào trong lịch sử loài người. Thậm chí nó cũng chính là kẻ chiến thắng cuối cùng, vì sự dữ nhất trên thế gian này là sự chết sẽ đến kết liễu tất cả mọi sự. Tuy nhiên, nếu tình yêu mạnh hơn sự chết và nếu chân lý là một thực tại bất biến, thì những ai sống trong sự thật và bênh vực sự thật sẽ như “cây ngay không sợ chết đứng”, hay những ai dấn thân hy sinh phục vụ tha nhân, thậm chí hiến mạng sống mình vì tha nhân, sẽ muôn đời tồn tại, không phải chỉ trong lòng người, trong lịch sử, mà trong chính sự thật, tức trong một thực tại là tột đỉnh tầm vóc hoàn thiện làm người viên mãn!
 

(Xin đón xem tiếp những bài tới: Văn Minh Khoa Học, Giấc Mộng Bá Chủ, Tâm Thức Triết Học, Chứng Từ Nhân Bản trong loạt bài Ơn Gọi Làm Người của cùng người viết, Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh)

 

12/2 Thứ Năm

Huấn Từ Buổi Triều Kiến Chung Hằng Tuần Thứ Tư 11/2 về Ngày Thế Giới Bệnh Nhân

Buổi triều kiến chung hằng tuần vào Ngày Thứ Tư được ĐTC sử dụng để dạy giáo lý, và loạt bài giáo lý của Ngài về việc cầu nguyện bằng Thánh Vịnh tới bài thứ 98 tuần vừa rồi. Tuy nhiên, vào những dịp đặc biệt, như gặp các ngày lễ hay các dịp ngoại lệ, Ngài cũng dùng buổi triều kiến chung này để nói đến ý nghĩa của từng dịp, chẳng hạn như Ngày Thế Giới Bệnh Nhân Lễ Đức Mẹ Lộ Đức trùng vào chính Ngày Thứ Tư 11/2/2004. Sau đây là nguyên văn bài huấn từ của Ngài.

1.     Hôm nay tinh thần chúng ta hướng về Đền Thánh Mẫu Lộ Đức ở Dẫy Núi Pyrenees là nơi vẫn lôi cuốn các nhóm đông hành hương trên khắp thế giới, trong đó có rất nhiều bệnh nhân. Biến cố chính của Ngày Thế Giới Bệnh Nhân năm nay đang được cử hành ở đó, một biến cố giờ đây đã trở thành truyền thống trùng hợp với việc phụng vụ cử hành lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria Lộ Đức.

Đền Thánh Mẫu này được chọn để cử hành Ngày Thế Giới Bệnh Nhân năm nay chẳng những vì mối liên hệ mạnh mẽ liên kết đền thánh ấy với thế giới bệnh nạn cũng như với các nhân viên hành sự thừa tác vụ mục vụ về sức khỏe. Nhất là vì Lộ Đức năm nay mừng kỷ niệm 150 năm tín điều Hoài Thai Vô Nhiễm Tội được công bố vào ngày 8/12/1854. Bốn năm sau, tức vào năm 1858, tại Lộ Đức, Trinh Nữ Maria, khi hiện ra với Bernadette Soubirous ở Hang Động Massabielle, đã tự xưng mình là vị “Hoài Thai Vô Nhiễm Tội”.

2.     Giờ đây chúng ta thực hiện cuộc hành hương thiêng liêng đến dưới chân Đấng được Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Lộ Đức để tham dự vào việc nguyện cầu của hành giáo sĩ và giáo dân, nhất là của thành phần bệnh nhân tập trung ở đó. Ngày Thế Giới Bệnh Nhân là một lời kêu gọi mạnh mẽ hãy tái nhận thức sự hiện diện quan trọng của những ai đang chịu đựng khổ đau trong cộng đồng Kitô hữu, và quí giá hơn nữa việc đóng góp cao quí của họ. Theo quan điểm thuần nhân loại thì đau đớn và bệnh tật chắc chắn là một thực tại không thể vô lý bất khả chấp: Tuy nhiên, khi chúng ta được ánh sáng Phúc Âm soi động, chúng ta sẽ tiến tới chỗ cảm nhận đực ý nghĩa cứu độ sâu xa của thực tại này.

Tôi đã nhấn mạnh trong sứ điệp Ngày Thế Giới Bệnh Nhân hôm nay là “Từ cái mâu thuẫn của Thập Giá đã phát xuất ra câu giải đáp cho những vấn đề rắc rối nhất của chúng ta. Chúa Kitô đã chịu khổ vì chúng ta. Người đã mang lấy nơi bản thân Người các thứ khổ đau của hết mọi người và cứu chuộc chúng. Chúa Kitô chịu khổ với chúng ta, cho chúng ta được thông phần đau khổ của chúng ta với đau khổ của Người. Liên kết với đau khổ của Chúa Kitô, đau khổ của nhân loại trở thành phương tiện cứu độ” (đoạn 4).

3.     Giờ đây Tôi hướng về tất cả những ai đang cảm thấy gánh nặng của khổ đau nơi thân xác cũng như trong tâm hồn. Với từng người trong họ, Tôi lập lại lòng cảm thương và liên kết của Tôi. Đồng thời Tôi cũng muốn nhắc nhở anh chị em là cuộc sống của nhân loại bao giờ cũng là một tặng ân của Thiên Chúa, ngay cả khi nó đầy những khổ đau đủ thứ về thể lý; một “tặng ân” cần phải được Giáo Hội và thế giới quí giá.

Chắc chắn là những ai đau khổ không bao giờ bị bỏ rơi cô độc một mình. Về khía cạnh này, Tôi hân hoan ngỏ lời cảm nhận sâu xa với những ai, bằng tinh thần chân thành phục vụ, ở bên thành phần bệnh nhân, tìm cách làm giảm bớt những đau khổ của họ, và bao nhiêu có thể, giúp họ thoát được bệnh tật nhờ sự tiến bộ của y khoa. Tôi đặc biệt nghĩ đến các nhân viên sức khỏe, các bác sĩ, y tá, khoa học gia và nghiên cứu viên, cũng như các vị tuyên úy bệnh viện và các thiện nguyện viên. Thật là một hành động yêu thương cao cả trong việc săn sóc cho những ai chịu khổ đau!

4.     "Sub tuum praesidium ...," chúng ta đã cầu nguyện khi mở đầu cuộc gặp gỡ của chúng ta đây. “Chúng con tìm nương náu trong sự chở che của Mẹ”, Trinh Nữ Vô Nhiễm Lộ Đức, Đấng đối với chúng con là mô phạm tuyệt hảo của tạo vật theo dự án nguyên thủy của Thiên Chúa. Chúng con xin ký thác cho Mẹ thành phần bệnh nhân, già yếu, những người cô độc lẻ loi một mình: xin Mẹ hãy xoa dịu nỗi đớn đau, hãy lau khô lệ sầu, và hãy xin cho mỗi người sức mạnh cần thiết để hoàn thành ý muốn thần linh.

Xin Mẹ hãy nâng đỡ những ai làm giảm đau đớn cho anh chị em họ mỗi ngày. Và xin Mẹ giúp cho tất cả chúng con tăng thêm kiến thức về Chúa Kitô, Đấng đã chiến thắng quyền lực sự dữ và tử thần bằng cuộc tử nạn và phục sinh của Người.

Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, xin cầu cho chúng con!
 

Các Phép Lạ ở Lộ Đức được công nhận ra sao?

Mỗi năm có hơn 6 triệu người đến hành hương Đền Thánh Mẫu Lộ Đức, một Đền Thánh Mẫu nổi tiếng làm phép lạ chữa lành bệnh nạn tật nguyền.

Năm 1905, ĐTC Piô X đã muốn tất cả mọi trường hợp được cáo trình là phép lạ hay chữa lành ở Lộ Đức cần phải được phân tích theo khoa học.

Theo màn điện toán của văn phòng y khoa ở Lộ Đức www.lourdes-france.com, có 4 tiêu chuẩn cần phải được căn cứ để có thể minh định phép lạ xẩy ra “một cách chắc chắn, tuyệt đối và không thể cắt nghĩa về y khoa”: “Trước hết là khám nghiệm và chẩn định sự kiện cùng triệu chứng của bệnh nạn”; “chứng bệnh phải vĩnh viễn hay nguy tử trong một thời gian ngắn”; “việc khỏi bệnh phải xẩy ra tức thời, không tái phát, khỏi hoàn toàn và vĩnh viễn”; “việc chữa trị ấy không thể được cho là nguyên nhân chữa trị hay là một hỗ trợ nào cho việc chữa trị này”.

Bệnh nhân đến hành hương Lộ Đức theo một phái đoàn hành hương được hộ tống bởi một bác sĩ có hồ sơ bệnh lý về tình trạng của họ để làm nền tảng cho việc cứu xét phép lạ nếu cho rằng xẩy ra.

Nếu phép lạ xẩy ra thật thì bệnh nhân hành hương và tập hồ sơ bệnh lý ấy phải trình cho văn phòng y khoa, để vị bác sĩ trực ở đó bấy giờ tập họp các chuyên viên y khoa cũng có mặt lúc ấy cùng nhau tham dự vào việc khảo nghiệm phép lạ.

Tuy nhiên, kết quả của cuộc khám nghiệm này ra sao không được tuyên bố ngay sao đó. Đương sự sẽ được mời gặp ủy ban y khoa năm sau đó hay có thể nhiều năm sau đó.

Sau nhiều cuộc khám nghiệm thành công, hồ sơ về việc lành bệnh này, nếu được ớ các bác sĩ thực hiện việc khám nghiệm đồng ý, sẽ được gửi đến cho Ủy Ban Y Khoa Quốc Tế Lọâ Đức, một cơ quan được thành lập từ năm 1947, mới đầu chỉ mang tên “quốc gia” cho tới năm 1954 mới mang danh “quốc tế”.

Ủy ban quốc tế này gồm có 30 chuyên viên, như về mổ xẻ và các giáo sư hoặc các vị làm đầu các phân khoa y học từ các quốc gia, hằng năm gặp nhau 1 lần. Vị đương kim chủ tịch của ủy ban này là giáo sư Jean-Louis Armand-Laroche.

Thường cuộc điều tra sẽ diễn tiến trong vòng mấy năm để xem đương sự diễn tiến ra sao đối với bệnh tình được cho là chữa lành. Nếu ủy ban quốc tế này đồng ý là phép lạ thì hồ sơ được gửi đến thẩm quyền Giáo Hội của đương sự, để Giáo Hội đi đến chỗ tuyên bố sự kiện chữa lành ấy có phải thực sự là phép lạ hay chăng.

Ở cấp địa phương, vị giám mục cần phải triệu tập một ủy ban giáo phận gồm các vị linh mục, các chuyên viên về giáo luật và các thần học gia để tiếp tục khảo sát sự kiện về phương diện siêu nhiên, căn cứ vào những qui định từ năm 1734 được phác họa bởi vị sau đó làm giáo hoàng là Đức Bênêđictô XIV trong văn kiện của ngài “Về Việc Phong Chân Phước và Phong Thánh Cho Các Đầy Tớ Chúa” (Book IV, Part I, Chapter VIII No. 2).

Tóm lại, các qui định đòi hỏi là tất cả những gì được gọi là phép lạ đều phải làm sao để vượt trên tất cả mọi giải thích hữu lý về ý khoa hay khoa học, về tự nhiên hay thường tình. Ủy ban giáo phận sẽ đi đến quyết định biến cố lành bệnh được các cấp khảo sát về y khoa khám nghiệm có thực sự là phép lạ hay chăng, do Chúa làm hay chăng, có quả thực là “một dấu hiệu từ Chúa”.

Học Viện Tòa Thánh Về Sự Sống sửa soạn mừng kỷ niệm thành lập 10 năm

Trong tháng kỷ niệm 10 năm thành lập này, được tổ chức vào ngày 19-22/2/2004, học viện sẽ thực hiện đại hội lần thứ 10. Ba đề tài sẽ được bàn luận đến là những hoạt động của học viện trong thập niên qua; tưởng niệm đệ nhất chủ tịch học viện này là nhà di truyền học người Pháp Jérôme Lejeune (qua đời từ tháng 4/1994), vị đã khám phá tính chất dị thường gây ra hội chứng lạc diện (Down Syndrome); và những giáo huấn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về sự sống con người.

ĐTC đã thành lập học viện này bằng tông thư Mầu Nhiệm Sự Sống “Vitae Mysterium”. Những mục tiêu của học viện này là nghiên cứu những vấn đề chính yếu của ngành y khoa sinh thể và luật lệ, liên quan đến việc cổ vỡ và bênh vực sự sống, theo chiều hướng luân lý Kitô giáo và các chỉ thị của huấn quyền Giáo Hội.

Từ sau khi vị đệ nhất chủ tịch qua đời, viện này được lãnh đạo bởi một y sĩ người Chí Lợi là Juan de Dios Vial Correa, vị được trợ giúp bởi một phó chủ tịch là ĐGM Elio Sgreccia cũng như bởi một hội đồng giám đốc gồm có 5 hàn lâm viên do ĐTC bổ nhiệm. Ngoài ra, ĐTC cũng chọn 70 phần tử nữa cho học viện này. Thêm vào đó còn có các phần tử “ad honorem” và các phần tử hoạt động qua văn thư.

Đề tài của cuộc đại hội năm nay là “Phẩm Giá của Việc Con Người Truyền Sinh và Các Kỹ Thuật Sản Sinh: Những Khía Cạnh Nhân Loại Học và Đạo Đức Học”.
 

11/2 Thứ Tư, Lễ Mẹ Lộ Ðức, Ngày Thế Giới Bệnh Nhân, Ngày Kỷ Niệm 75 Năm Thành Lập Quốc Ðô Vatican

Lễ Mẹ Lộ Đức, 11/2

 

Chúa Giêsu thực hiện phép lạ qua lời yêu cầu của Mẹ Maria (Bài Giáo Lý của ÐTC Gioan Phaolô II); Đức Mẹ Nói Cùng Tôi (Tường Thuật của Chị Thánh Bernadette); Hành Hương Thánh Mẫu Lộ Ðức (Cảm Nhận của Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)
 
Sứ Điệp của ĐTC GPII cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân 2004: "Ở Lộ Đức, thật là dễ dàng hiểu được việc Mẹ Maria đặc biệt tham dự vào vai trò cứu độ của Chúa Kitô"

Hôm Thứ Năm 5/2/2004, vào lúc 11 giờ 30 sáng, sứ điệp của ĐTC GPII cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân được chính thức phổ biến tại Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh, một ngày sẽ được tổ chức tại Lộ Đức năm nay, với đề tài “Việc Hoài Thai Vô Nhiễm và Vấn Đề Chăm Sóc Sức Khỏe theo những căn gốc Kitô Giáo ở Âu Châu”. Điều hành buổi phổ biến sứ điệp này gồm có ĐHY Javier Lazano Barragan, ĐGM Jose Luis Redrado, O.H, và Cha Felice Ruffini, M.I, là những vị chủ tịch, thư ký và phó thư ký của Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Việc Chăm Sóc Mục Vụ Về Sức Khỏe. Ngoài ra còn có sự hiệp diện của ĐHY Philippe Barvarin, TGM Lyon và là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp Quốc, và ĐGM Jacques Perrier giáo phận Tarbes và Lộ Đức.

Sau đây là nguyên văn sứ điệp của ĐTC GPII cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân 11/2/2004, Lễ Mẹ Lộ Đức

Kính gửi Huynh Khả Kính,
ĐHY Javier Lozano Barragán,
Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Viện Chăm Sóc Mục Vụ Về Sức Khỏe

1.     Ngày Thế Giới Bệnh Nhân, một biến cố được tổ chức hằng năm ở một Lục Địa khác nhau, có một ý nghĩa đặc biệt trong lần này. Thật vậy, nó sẽ diễn ra ở Lộ Đức, Pháp Quốc, địa điểm hiện ra của Đức Trinh Nữ vào ngày 11/2/1858, một địa điểm từ đó đã trở thành mục tiêu của nhiều người hành hương. Nơi miền đồi núi này, Đức Mẹ đã muốn bày tỏ tình yêu từ mẫu của mình, nhất là đối với thành phần khổ đau và bệnh nạn. Kể từ khi ấy, Mẹ tiếp tục hiện diện bằng lòng quan tâm của mình.

Đền Thánh Mẫu này được chọn là vì năm 2004 là năm kỷ niệm mừng 150 năm việc công bố Tín Điều Hoài Thai Vô Nhiễm. Chính vào ngày 8/12/1854, bằng Tông Sắc Tín Lý “Ineffabilis Deus”, Vị Tiền Nhiệm của Tôi là Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX đã xác nhận rằng “tín lý tin rằng Rất Thánh Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu tiên được hoài thai, bởi ơn riêng và đặc ân của Thiên Chúa Toàn Năng, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại, được gìn giữ khỏi tất cả mọi tì vết của nguyên tội, là một tín lý do Chúa mạc khải” (DS, 2803). Ở Lộ Đức, khi nói bằng thổ âm địa phương, Mẹ Maria đã tuyên bố: "Que soy era Immaculada Councepciou" (Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội).

2.     Bằng những lời này, Đức Trinh Nữ lại không muốn bày tỏ cho thấy mối liên hệ gắn bó Mẹ với sức khỏe và sự sống hay sao? Nếu sự chết đã đột nhập vào thế gian bởi nguyên tội, thì bằng công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ Maria khỏi mọi tì vết của tội lỗi, và ban cho chúng ta ơn cứu độ và sự sống (x Rm 5:12-21).

Tín Điều Hoài Thai Vô Nhiễm đưa chúng ta vào tâm điệm của mầu nhiệm Tạo Dựng và Cứu Chuộc (x. Eph 1:4-12, 3:9-11). Thiên Chúa muốn ban sự sống dồi dào cho loài người tạo sinh (x Jn 10:10), tuy nhiên, với điều kiện là việc làm này phải được tự do và ưu ái đáp ứng. Con người thảm thương thay đã cắt đứt cuộc trao đổi sống còn này với Đấng Hóa Công, bằng việc chối từ tặng ân ấy bởi việc bất tuân gây ra tội lỗi. Tiếng “không muốn” của con người, do bởi tính kiêu căng tự mãn của con người là dấu chỉ của sự chết (x Rm 5:19), đã phản lại với tiếng “xin vâng” của Thiên Chúa.

Toàn thể gia đình nhân loại đều bị liên lụy một cách nặng nề vào tình trạng đứt đoạn với Thiên Chúa ấy. Nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, chỉ có một mình Maria Nazarét là được thụ thai vô nhiễm nguyên tội và hoàn toàn sẵn sàng chấp nhận dự án thần linh để Cha Trên Trời có thể hoàn thành nơi Mẹ ý định Ngài giành cho loài người.

Việc Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội cho thấy mối liên kết hòa hợp giữa tiếng “xin vâng” của Thiên Chúa với tiếng “xin vâng” Mẹ Maria khi Mẹ thân thưa một cách không do dự khi thiên thần báo tin trời cao cho Mẹ (x Lk 1:38). Tiếng “xin vâng” Mẹ thân thưa nhân danh loài người đã tái mở cửa Thiên Đàng cho trần thế, nhờ việc Nhập Thể của Lời Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ theo tác động của Thánh Thần (x Lk 1:35). Nhờ đó, dự an nguyên thủy của việc tạo dựng đã được phục hồi và củng cố trong Đức Kitô; Trinh Nữ Maria cũng được tham phần vào dự án này.

3.     Nền tảng của lịch sử là ở chỗ này, đó là Việc Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria đã mở màn cho công cuộc Cứu Chuộc cao cả là công cuộc được nên trọn trong máu châu báu của Chúa Kitô. Nơi Người, hết mọi người đều được kêu gọi để đạt tới tầm vóc trọn hảo của sứ thánh thiện (x Col 1:28).

Bởi thế, việc Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội là rạng đông hứa hẹn cho một ngày quang sáng Chúa Kitô, Đấng đã phục hồi trọn vẹn mối hòa hợp giữa Thiên Chúa và nhân loại bằng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Người. Nếu Chúa Giêsu là nguồn sống chiến thắng tử thần thì Mẹ Maria là người mẹ quan tâm đến để đáp ứng các nhu cầu của con cái mình, bằng việc giúp họ chiếm được sức khỏe phần hồn cũng như phần xác. Đó là sứ điệp được Đền Thánh Mẫu Lộ Đức liên lỉ lập lại cho thành phần sùng mộ cũng như cho các người hành hương. Đó cũng là ý nghĩa ẩn nấp bên trong các cuộc chữa lành về thân thể và tinh thần xẩy ra tại hang động Massabielle.

Tại địa điểm này, từ ngày hiện ra với Bernadette Soubirous, Mẹ Maria đã “chữa lành” đau thương và bệnh nạn, bằng cách phục hồi sức khỏe phần xác cho nhiều người con nam nữ của mình. Tuy nhiên, Mẹ đã thực hiện những phép lạ lạ lùng hơn nữa nơi linh hồn các tín hữu, sửa soạn cho họ gặp gỡ Chúa Giêsu Con Mẹ là giải đáp thực sự cho những mong đợi sâu xa nhất của tâm can con người. Chúa Thánh Thần, Đấng đã bao phủ Mẹ vào lúc Lời Nhập Thể, biến đổi linh hồn của vô số bệnh nhân chạy đến với Mẹ. Ngay cả khi họ không nhận được ơn về sức khỏe phần xác, họ cũng có thể lãnh nhận được một ơn khác còn quan trọng hơn thế nữa, đó là ơn hoán cải tâm hồn, nguồn mạch của sự an bình và niềm vui nội tâm. Tặng ân này biến đổi đời sống của họ và làm cho họ trở thành những tông đồ của Thập Giá Chúa Kitô, biểu hiệu của hy vọng, cho dù ngay giữa những con thử thách dữ dội nhất và khó khăn nhất.

4.     Trong Tông Thư “Salvifici Doloris”, Tôi đã nhận định rằng đau khổ là những gì thăng trầm của con người nam nữ trong suốt giòng lịch sử mà họ cần phải biết chấp nhận và thắng vượt nó (cf. No. 2: [11 February 1984]; L'Osservatore Romano English Edition [ORE], 20 February, p. 1). Tuy nhiên họ làm sao có thể thực hiện được điều này nếu không nhờ Thập Giá Chúa Kitô?

Nơi cuộc tử nạn và Phục Sinh của Đấng Cứu Chuộc, khổ đau của nhân loại tìm thấy được ý nghĩa sâu xa nhất của mình cùng với giá trị cứu độ của nó. Tất cả mọi gánh nặng của khổ ải và đau đớn của nhân loại được tóm lại nơi mầu nhiệm của một Vị Thiên Chúa, khi mặc lấy bản tính loài người, đã “trở thành tội lỗi… vì chúng ta” (2Cor 5:21) một cách nhục nhã. Trên Golgotha Người đã gánh lấy tội lỗi của hết mọi con người tạo sinh, và Người đã kêu lên cùng Chúa Cha trong nỗi tủi thân và niềm phó thác là “Tại sao Cha lại bỏ rơi con?” (Mt 27:46).

Từ cái mâu thuẫn của Thập Giá đã phát xuất ra câu giải đáp cho những vấn đề rắc rối nhất của chúng ta. Chúa Kitô đã chịu khổ vì chúng ta. Người đã mang lấy nơi bản thân Người các thứ khổ đau của hết mọi người và cứu chuộc chúng. Chúa Kitô chịu khổ với chúng ta, cho chúng ta được thông phần đau khổ của chúng ta với đau khổ của Người. Liên kết với đau khổ của Chúa Kitô, đau khổ của nhân loại trở thành phương tiện cứu độ; đó là lý do tại sao tín hữu có thể cùng với Thánh Phaolô nói rằng “Giờ đây tôi vì anh em vui mừng chịu đựng đau khổ của mình, và tôi hoàn tất nơi xác thịt của mình những gì còn thiếu nơi những đau thương của Chúa Kitô phải chịu vì thân thể của Người là Giáo Hội” (Col 1:24). Được chấp nhận bằng đức tin, đau đớn trở thành cửa ngõ tiến vào mầu nhiệm khổ đau cứu chuộc của Chúa Kitô; một khổ đau không còn làm mất đi sự bình an và hạnh phúc vì nó được chiếu tỏa bởi ánh quang của Cuộc Phục Sinh.

5.     Đứng dưới chân Thập Giá, Mẹ Maria, trở thành mẹ của loài người, âm thầm chịu đựng, thông phần khổ đau của Con Mẹ, sẵn sàng cầu bầu để hết mọi người được ơn cứu độ (cf. John Paul II, Apostolic Letter "Salvifici Doloris" [11 February 1984], n. 25; ORE, 20 February 1984, p. 6).

Ở Lộ Đức, thật là dễ dàng hiểu được việc Mẹ Maria đặc biệt tham dự vào vai trò cứu độ của Chúa Kitô. Ơn lạ Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội nhắc nhở tín hữu về một sự thật nồng cốt, đó là tín hữu có thể đạt được ơn cứu độ chỉ cần bằng việc chân thành tham dự vào dự án của Chúa Cha, Đấng muốn cứu độ thế giới bằng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Người Con duy nhất của Ngài. Nhờ Phép Rửa, tín hữu trở nên thành phần của dự án cứu độ này và được giải thoát khỏi nguyên tội. Bệnh nạn và chết chóc, mặc dù hiện diện trong cuộc sống trần gian này, sẽ mất đi ý nghĩa tiêu cực của chúng, và theo ánh sáng đức tin, cái chết về phần xác, bị cuộc tử nạn của Chúa Kitô khắc chế (x Rm 6:4), trở thành một cửa ngõ cần thiết để tiến vào sự sống viên mãn vĩnh cửu.

6.     Trong thời đại của chúng ta, việc hiểu biết về sự sống đã đạt được nhiều tiến bộ, một sự sống là tặng ân sâu xa của Thiên Chúa mà chúng ta là những quản trị viên. Sự sống cần phải được đón nhận, tôn trọng và bênh vực ngay từ ban đầu cho tới khi tự nhiên chết đi; gia đình, cái nôi của mỗi sự sống sơ sinh,
cần phải được bảo vệ cùng với sự sống.

Ngày nay, người ta nói đến “kỷ nghệ truyền giống”, tức họ muốn nói tới một khả năng phi thường do khoa học tân tiến cống hiến để can thiệp vào chính nguồn mạch của sự sống. Hết mọi tiến bộ chân chính thuộc lãnh vực này cần phải được khích lệ, nếu nó luôn tỏ ra tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của con người từ lúc hoài thai. Thật thế, không ai được cho rằng mình có quyền hủy diệt hay ẩu tả lạm hành sự sống con người. Nhiệm vụ đặc biệt của thành phần cán sự xã hội thuộc lãnh vực Chăm Sóc Mục Vụ về Sức Khỏe là làm cho những ai làm việc trong lãnh vực tinh tế này biết nhậy cảm, nhờ đó họ luôn dấn thân phục vụ sự sống.

Nhân dịp Ngày Thế Giới Bệnh Nhân, Tôi muốn cám ơn tất cả mọi phần tử thuộc Hội Đồng Đặc Trách Chăm Sóc Mục Vụ Về Sức Khỏe, nhất là các vị Giám Mục thuộc các Hội Đồng Giám Mục khác nhau cộng tác trong lãnh vực này; các vị tuyên úy, các linh mục giáo xứ và các vị linh mục khác dấn thân trong ngành này; các dòng tu hay tu hội; các thiện nguyện nhân và những ai không ngừng cống hiến chứng từ trung thực cho cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa trước khổ đau, đớn đau và chết chóc.

Tôi cũng xin tri ân thành phần cán sự xã hội chăm sóc sức khỏe, nhân viên y tế và cứu thương, các nghiên cứu viên, nhất là những ai dấn thân để tìm tòi khám phá ra những chữa trị mới, cùng với những ai làm việc trong ngành sản xuất thuốc men để cả người nghèo cũng được hưởng dụng.

Tôi xin ký thác tất cả anh chị em cho Trinh Nữ Rất Thánh, vị được tôn kính ở Đền Thánh Mẫu Lộ Đức như là Đấng Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội. Xin Mẹ giúp cho hết mọi Kitô hữu biết làm chứng rằng chỉ có một giải đáp duy nhất cho đớn đau, khổ đau và chết chóc đó là Chúa Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta.

Với tâm tình này, Tôi muốn gửi đến Huynh Đáng Kính, cũng như đến những ai tham dự vào cuộc cử hành Ngày Thế Giới Bệnh Nhân này một Phép Lành Tòa Thánh đặc biệt.

Tại Điện Vatican ngày 1/12/2003

JOHN PAUL II

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 1/2/2004.


 

Ngày Kỷ Niệm 75 Năm Thành Lập Quốc Đô Vatican

75 năm trước đây, vào ngày 11/2/1929 Lễ Đức Mẹ Lộ Đức, Hòa Ước Latêranô đã được ký kết giữa Ý Quốc (Benito Mussolini, đại diện Vua của nước Ý) và Tòa Thánh Vatican (ĐHY Pietro Gasbarri, Quốc Vụ Khanh thời ĐGH Piô XI) tại Dinh Lateranô.

Hòa Ước này đã chấm dứt “Vấn Đề Roma” liên quan đến mối liên hệ giữa các vị Giáo Hoàng và nước Ý. Qua nhiều thế kỷ, các vị Giáo Hoàng đã nắm trong tay quyền lực cả về trần thế lẫn thiêng liêng trên một lãnh địa rộng lớn. Khi các phần lãnh địa Giáo Hoàng này bị Vương Quốc Ý chiếm thu vào năm 1870, các vị Giáo Hoàng yêu cầu vương quốc này phải bù đắp, một yêu cầu đã được thỏa đáng ở Hòa Ước Latêranô 1929.

Ngoài những điều khác, hòa ước này đã thiết lập chủ quyền Quốc Đô Vatican, biến Công Giáo trở thành quốc giáo của Ý quốc, và qui định những mối liên hệ giữa Giáo Hội và Quốc Gia. Năm 2004 này cũng là năm kỷ niệm 20 năm Hòa Ước 1984 thiết định Công Giáo không còn là quốc giáo của Ý quốc nữa.

Hòa Ước Latêranô 1929 đồng thời còn thiết định tính cách quốc tế của Tòa Thánh. Tức là Tòa Thánh được công nhận bởi lề luật quốc tế và có những mối liên hệ ngoại giao với các quốc gia khác trên thế giới. Đó là lý do chúng ta thấy cho tới nay cả gần 200 quốc gia trên thế giới đang có tòa lãnh sự của mình bên cạnh tòa thánh và tòa thánh cũng có quan sát viên thường trực ở các văn phóng Liên Hiệp Quốc, được quyền tham dự và lên tiếng trong các cuộc hội nghị quốc tế do Liên Hiệp Quốc tổ chức và bàn luận. Năm 1954, Quốc Đô Vatican đã được liệt kê vào Danh Sách Gia Sản Thế Giới.

Quốc Đô Vatican là một nước nhỏ nhất thế giới, với một diện tích rộng 108.7 mẫu trên một khu tám ngọn đồi ở Rôma và được vây bọc bởi Những Bức Tường Leonine. Khu vực chính là Điện Vatican với Đền Thờ và Công Trường Thánh Phêrô. Dân số khoảng độ 700 người thuộc các quốc gia khác nhau, nhiều nhất là người Ý. Có 400 người là công dân Vatican, bao gồm cả những đấng bậc làm đầu các phân bộ của Tòa Thánh Rôma. Tất cả mọi vị hồng y tự động có quyền công dân Vatican song vẫn giữ quốc tịch riêng của các vị. Toàn quyền lãnh đạo Quốc Đô Vatican là các Đức Giáo Hoàng
 

Iraq hậu chiến hay nội chiến?
 

Biến cố mới nhất là vụ khủng bố tấn công hôm Thứ Ba 10/2/2004, một biến cố đã sát hại tối thiểu là 50 mạng người và gấp ba số người bị thương tích, biến cố đã xẩy ra ở gần trạm cảnh sát Isjandariyah và được lực lượng Hoa Kỳ cho là có dấu vết nhúng tay của nhóm khủng bố quốc tế Al-Qaeda (sẽ được đề cập dưới đây). Vấn đề điều tra nội vụ cho thấy vụ nổ này phát xuất từ một chiếc xe vận tải nhỏ chất khoảng 300 tấn thuốc nổ, một chiếc xe thuộc cơ quan tình báo của chế độ cũ, và vụ nổ xẩy ra vào lúc nhiều người đang xếp hàng xin làm việc ở trạm cảnh sát này.

Tình hình cho thấy càng gần đến ngày bầu cử đảc lập cuối tháng 6 lại càng xẩy ra nhiều vụ khủng bố tấn công, thường nhắm vào thường dân Iraq hơn là lực lượng Hoa Kỳ. Cũng trong cùng ngày Thứ Ba 10/2/2004 này còn hai vụ tấn công vào cảnh sát viên nữa, hai cặp cảnh sát bị sát hại khi họ đang trên đường đi làm đến thủ đô Baghdad. Bốn cảnh sát viên khác cũng bị bắn chết trên xe của họ, 2 người ở phía tây Baghdad và hai người ở phía đông thủ đô này.
 

Trong thời gian qua, ngoài hai vấn đề phụ là quyết định của lực lượng Hoa Kỳ ở Iraq hôm Thứ Hai 2/2/2004 không hủy hoại mà chỉ phong tỏa nơi ẩn trốn của nhà lãnh đạo Saddam Hussein, và văn phòng giáo sĩ của phái Hồi giáo Shittes hôm Thứ Sáu 6/2/2004 đã phủ nhận nguồn tin cho rằng đã có một cuộc ám sát hụt vị Đại Tôn Sistani, người đã gây nên vấn đề tuyển cử trực tiếp ở Iraq, còn thấy xẩy ra hai diễn tiến quan trọng, đó là sự hiện diện trở lại của nhân viên Liên Hiệp Quốc để cứu xét đến vấn đề tuyển cử trực tiếp ấy, và việc tìm thấy các văn kiện cho thấy Iraq liên lạc với nhóm khủng bố quốc tế Al-Qaeda.

Thật vậy, về vấn đề can thiệp của LHQ vào tình hình Iraq, hôm Thứ Bảy 7/2/2004, một nhóm nhân viên LHQ đã đến Iraq để xem xét tình hình dân chúng ở đây xem có thể thực hiện được cuộc tuyển cử trực tiếp hay chăng vào ngày 30/6/2004.

Biến cố trở lại Iraq này của nhân viên LHQ đã được ông Tổng Thư Ký Kofi Annan loan báo ở Nữu Ước: “Nhóm nhân viên LHQ sẽ cố gắng gặp gỡ các đại diện của tất cả mọi cơ cấu ở Iraq và lắng nghe mọi quan niệm và quan điểm về Iraq. Tôi hy vọng rằng nhóm nhân viên này sẽ giúp vào việc giải quyết cái bí tắc trong tiến trình chính trị chuyển giao quyền lực đưa đến việc thiết lập một chính phủ lâm thời cho Iraq”.

Vào Chúa Nhật 8/2/2004, nhân viên LHQ đã bắt đầu thực hiện cuộc gặp gỡ các phần tử của Hội Đồng Quản Trị Iraq về tính cách sống còn của việc để cho những người Iraq tổ chức những cuộc tuyển cử độc lập vào ngày 30/6 tới đây. Vị Tổng Thư Ký LHQ nói là việc xem xét tình hình và quyết định của LHQ liên quan đến cuộc bầu cử này kết quả ra sao sẽ được cho biết vào cuối tháng 2/2004.

Tiếp đến là vấn đề Iraq liên lạc với nhóm khủng bố quốc tế Al-Qaeda, được chứng tỏ nơi môt bản văn kiện 17 trang tìm thấy nơi một nhà ở thủ đô Baghdad yêu cầu nhóm khủng bố này giúp vào tình hình nội chiến ở Iraq, làm cho các người Hồi giáo phái Shiite chống người Hồi giáo phái Sunni.

Hôm Thứ Hai 9/2/2004, Tướng Mark Kimmitt của Hoa Kỳ đã cho biết các viên chức của ông tin rằng, văn kiện là 1 bức thư được viết bởi Abu Musab al-Zarquwi, một người Jordan, này có liên hệ tới nhóm Al Qaeda, Osama bin Laden và Ayman al-Zawahiri là phó của Bin Laden.

Văn kiện được xuất hiện đầu tiên trên tờ New York Times đã cho mình thành công 25 vụ tự sát khủng bố và cho biết quân đội Hoa Lỳ là những mục tiêu dễ tấn công. Tuy nhiên, tác giả bức thư cũng tiết lộ cho biết có ít nguời Iraq sẵn sàng ủng hộ những tay tấn công khủng bố này, ngoại trừ việc cho tạm trú, và còn nói thành phần khủng bố tấn công sẽ “mất tấm bình phong” khủng bố tấn công nếu có tân chính quyền Iraq vào cuối Tháng Sáu 2004.

Bởi thế, theo tường trình viên của tở báo này là Dexter Filkins, người đã được đọc văn kiện ấy, cho chương trình truyền hình “Good Morning” của CNN biết rằng “cứ cho là chuyện có thật đi… nó cũng là một thứ hoàn toàn công nhận là các sự việc xẩy ra không ngon lành cho họ lắm”.

Phát ngôn viên của Thẩm Quyền Lâm Thời Liên Minh là Dan Senor đồng ý rằng bức thư này “rõ ràng cho thấy những gì đang được thực hiện theo quan điểm của chúng ta. Bản văn kiện bày tỏ mối quan tâm lớn về những nỗ lực chúng ta muốn trao chủ quyền lại cho nhân dân Iraq. Thật thế, nó minh nhiên nói rằng một khi những người Iraq được kiểm soát bởi chính quyền của mình thì nó không còn thể nào xẩy ra những hoạt động của các tay khủng bố ngoại quốc.

 

         10/2 Thứ Ba

ĐTC GPII với vị tân lãnh sự Đài Loan về vai trò của truyền thống tôn giáo và văn hóa trong xã hội

Ngày 30/1/2004, Thứ Sáu, ĐTC GPII đã tiếp nhận vị tân lãnh sự của nước Cộng Hòa Trung Hoa, tức Đài Loan, là ông Chou-seng Tou, và Ngài đã nói với ông về vai trò quan trọng và tầm ảnh hưởng của các truyền thống tôn giáo và văn hóa đối với tình trạng phúc hạnh của xã hội loài người. Sau đây là nguyên văn những gì Ngài nói:

Thưa ông Lãnh Sự,

…….……… (chào đón mở đầu)

Tôi cám ơn ông Lãnh Sự về những lời lẽ ông đã nói lên lòng cảm mến trước những nỗ lực của Tòa Thánh trong việc cổ võ nền hòa bình trên khắp thế giới. Tòa Thánh chúng tôi thấy công việc này như là một phần của việc Tòa Thánh phục vụ gia đình nhân loại, một việc được thúc đẩy bởi mối quan tâm sâu xa đến tình trạng phúc hạnh của hết mọi người. Việc hợp tác giữa các dân tộc, các quốc gia và chính quyền là điều kiện thiết yếu trong việc bảo đảm một tương lai tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Cộng đồng quốc tế đang phải đương đầu với nhiều thách đố về vấn đề bảo đảm này, trong đó có những vấn đề nghèo khổ trầm trọng trên thế giới, vấn đề khước từ các thứ quyền lợi của dân chúng, và vấn đề có một số các phái nhóm thiếu cương quyết bảo trì nền hòa bình và tình trạng ổn định.

Các truyền thống tôn giáo và văn hóa của nước Cộng Hòa Trung Hoa đã làm chứng cho sự kiện là việc phát triển của con người không chỉ giới hạn ở việc thành đạt về kinh tế hay vật chất. Nhiều yếu tố về khổ chế và thần bí nơi các tôn giáo Á Châu dạy rằng không phải việc chiếm hữu được dồi dào về vật chất là những gì đánh dấu mức tiến bộ của cá nhân cũng như xã hội, mà là khả năng của một thứ văn minh nuôi dưỡng chiều kích nội tâm và ơn gọi siêu việt của con người nam nữ. Thật vậy, “một khi cá nhân cũng như cộng đồng không để ý tới việc triệt để tôn trọng những đòi hỏi luân lý, văn hóa và linh thiêng là những gì phát xuất từ phẩm giá của con người cũng như từ căn tính xứng hợp của mỗi cộng đồng, bắt đầu là cộng đồng gia đình và các tổ chức tôn giáo, thì tất cả những gì khác, như tình trạng tiện nghi thuận lợi của các sản vật, mức dồi dào của các nguồn kỹ thuật cần thiết cho cuộc sống hằng ngày, mức độ phúc hạnh nào đó về vật chất, sẽ cảm thấy không thỏa mãn và cuối cùng đi đến chỗ chán chường” (Encyclical Letter "Sollicitudo Rei Socialis," No. 33).

Bởi thế tất cả mọi xã hội cần phải nỗ lực để cống hiến cho công dân của mình quyền tự do cần thiết trong việc nhận thức được hoàn toàn ơn gọi thực sự của họ. Để đạt được điều ấy, quốc gia cần phải kiên quyết dấn thân cổ võ quyền tự do là những gì tự nhiên phát xuất từ giá trị riêng biệt của phẩm giá con người. Vấn đề dứt khoát phát động quyền tự do trong xã hội loài người này, trước hết và trên hết, đòi phải có quyền tự do thi hành tín ngưỡng trong xã hội (cf. Declaration on Religious Freedom, "Dignitatis Humanae," No. 1).

Thiện ích của xã hội đòi hỏi là quyền tự do tôn giáo phải được luật pháp tôn trọng và bảo vệ một cách hiệu nghiệm. Nước Cộng Hòa Trung Hoa đã chứng tỏ cho thấy họ tôn trọng những truyền thống tôn giáo khác nhau trong nước và nhìn nhận quyền lợi của tất cả mọi truyền thống trong việc thực hành tín ngưỡng của những truyền thống ấy. Tôn giáo là một phần trong sinh hoạt và văn hóa của một quốc gia, mang lại một cảm quan sâu xa về phúc hạnh cho cộng đồng, bằng việc cống hiến ở một mức độ nào đó vào trật tự xã hội, vào tình trạng quân bình, vào mối hòa hợp và vào việc trợ giúp thành phần yếu kém và bị bỏ rơi. Bằng việc chú trọng tới những vấn đề nhân bản sâu xa nhất, tôn giáo góp phần rất nhiều vào tình trạng tiến bộ thực sự của xã hội, và cổ võ một cách rất đặc biệt nền văn hóa hòa bình ở cả cấp độ quốc gia cũng như quốc tế.

Như Tôi đã nói trong Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 1992: “Niềm mong mỏi sống hòa bình được sâu xa bắt nguồn từ bản tính của con người và được thấy nơi các tôn giáo khác nhau” (đoạn số 2). Tân thiên niên kỷ này đang thách thức chúng ta hãy nỗ lực tiến đến chỗ hoàn thành một nhiệm vụ thực sự hữu trách đối với hết mọi người, đó là việc hợp tác với nhau hơn nữa trong việc nuôi dưỡng những giá trị của lòng quảng đại, của việc hòa giải, của đức công chính, của nền hòa bình, của sự can đảm và tính nhẫn nại, là những gì gia đình nhân loại hoàn cầu ngày nay cần hơn bao giờ hết (ibid).

Là thành phần của gia đình nhân loại này, Giáo Hội Công Giáo ở nước Cộng Hòa Trung Hoa đã góp phần đáng kể vào việc phát triển xã hội và văn hóa của Đất Nước ông, nhất là bằng việc Giáo Hội dấn thân trong việc giáo dục, chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ thành phần kém may mắn. Qua những hoạt động này và những hoạt động khác, Giáo Hội tiếp tục giúp vào việc duy trì nền hòa bình và hiệp nhất của tất cả mọi dân tộc. Nhờ đó, Giáo Hội theo đuổi sứ mệnh thiêng liêng và nhân đạo của mình, cùng góp phần vào việc xây dựng một xã hội công bình, tin tưởng và hợp tác.

Các chính quyền cũng thế, bao giờ cũng phải cố gắng để duy trì liên hệ với thành phần sống bên lề xã hội ở xứ sở mình cũng như với thành phần nghèo khổ và bị bỏ rơi trên thế giới nói chung. Thật vậy, tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm cần phải chú ý tới tình trạng khốn khổ của người nghèo, và trong tầm tay của mình, làm những gì có thể để làm giảm bớt tình trạng bần cùng và túng thiếu. Á Châu là “một đại lục đầy những nguồn lợi và có nhiều nền văn minh lớn, nhưng lại là nơi có những quốc gia nghèo nhất thế giới, và cũng là nơi có hơn một nửa dân số phải chịu cảnh thiếu thốn, bần cùng và khai thác” (Post-Synodal Apostolic Exhortation "Ecclesia in Asia," No. 34). Về vấn đề này Tôi lấy làm cảm phục nước Cộng Hòa Trung Hoa về nhiều hoạt động bác ái trên cầu trường quốc tế và nhất là nơi thế giới đang phát triển. Tôi hy vọng rằng nhân dân Đài Loan sẽ tiếp tục cổ võ những hoạt động bác ái, nhờ đó, góp phần vào việc xây dựng một nền hòa bình bền vững trên thế giới này.

……… (chào chúc kết thúc)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 30/1/2004.

 

Do Thái đang xoay hướng – số phận của cư dân Do Thái ở Gaza và của bức tường rào cản 

Thủ Tướng Sharon “ra lệnh hoạch định” việc tái định thế ở Gaza. Thật vậy, hôm Thứ Hai 2/2/2004, vị thủ tướng này đã nói với tờ nhật báo Ha’aretz rằng ông đã truyền lệnh phác họa để tháo gỡ những việc định cư của người Do Thái ở Gaza.

“Ý định của tôi là thực hiện một cuộc giải tỏa, xin lỗi, một cuộc tái định thế của những thứ định cư gây cho chúng tôi những rắc rối, cũng như của những nơi chúng tôi sẽ không muốn làm nơi định cư sau cùng, như những khu định cư ở Gaza”.

Ông nói: “Chúng tôi đang nói chuyện với một dân số 7.500 người. Đây không phải là vấn đề đơn giản. Chúng tôi đang nói tới cả ngàn cây số vuông của nhà cửa, hãng xưởng và các thứ cây cối. Dân chúng đã ở đó tới đời thứ ba. Điều đầu tiên là xin họ đồng ý, là tiến tới chỗ thỏa thuận với các dân cư… Tôi đang hoạt động với ý nghĩ là trong tương lai sẽ không còn người Do Thái ở Gaza”.

Tuy nhiên, các dân cư Do Thái ở đó liền bác bỏ dự án của vị thủ tướng này. Ông Bentzi Lieberman, chủ tịch Hội Đồng Các Cộng Đồng Do Thái ở Judea, Samaria và Gaza, đã nói với Đài Phát Thanh Do Thái rằng việc di chuyển này “chỉ làm cho nạn khủng bố càng lên nước mà thôi”.

Đảng Lao Động đối phương cũng ngờ vực về dự án của Thủ Tướng Sharon. Ông Ofir Pine thuộc đảng này đã nói với tờ Jerusalem Post rằng: “Sharon đã nói cả ngàn lần là ông ta có ý định giải tỏa các thứ định cư, song ông vẫn chưa thực hiện được một nơi nào”.

Vị Trưởng Ban Thương Thảo Palestine là Saeb Erakat đã nói với CNN rằng “nếu Sharon thực sự có ý rút khỏi Gaza thì họ sẽ không thấy một người Palestine nào cản trở đường đi nước bước của ông ta. Chúng tôi hy vọng rằng đây không phải là một thứ thủ đoạn PR. Chính phủ Do Thái và Sharon phải chọn giữa định cư và hòa bình. Họ không thể nào bắt cá hai tay được”.

Thủ Tướng Sharon nói với tờ nhật báo Ha’aretz rằng: “điều này cần phải thực hiện với sự đồng ý và ủng hộ của Hoa Kỳ. Chúng tôi cần họ nâng đỡ”. Ông cho biết Do Thái chưa bàn đến vấn đề tài trợ cho những thứ tái định thế với người Hoa Kỳ: “Chúng tôi sẽ bàn chuyện này với họ”. Ông cũng cho biết ông sẵn sàng thương thảo, có điều kiện, với những người Palestine về các khoản “lộ trình” hòa bình đã được phe tứ tượng quốc tế phác họa.

Trong những tháng gần đây, Thủ Tướng Sharon cũng nói rằng nếu những người Palestine không chấm dứt bạo lực và ngồi vào bàn thảo luận thì Do Thái sẽ đơn phương ra tay để phân tách Do Thái ra khỏi Tây Ngạn và Gaza. Dự án đơn phương này là việc hoàn thành một bức rào cản giữa Do Thái và Tây Ngạn. Gaza đã bị phân biệt khỏi Do Thái bởi bức tường rào cản, nhưng quân đội Do Thái vẫn ở miền này để canh giữ cho các khu định cư của người Do Thái.

Tối Cao Pháp Viện Do Thái, hôm Thứ Hai 9/2/2004, đã nghe thỉnh nguyện thư của hai nhóm quyền lợi lập luận rằng bất cứ kiến taọo nào ở miền đất chiếm đóng đều bất hợp pháp và bức tường rào cản là những gì vi phạm nhân quyền vì làm lũng đoạn đời sống của hằng ngàn người Palestine. Vị luật sư Michael Sfarad của Trung Tâm Bênh Vực Cá Nhân nói trước khi cuộc điều trần xẩy ra là “chúng tôi chấp nhận quốc gia có quyền bao bọc mình bằng hành rào kẽm gai nếu muốn nhưng chỉ ở trên phần lãnh thổ của mình mà thôi”.

Một viên chức cao cấp Palestine hôm Thứ Hai 9/2/2004 cho biết rằng chính phủ Yasser Arafat đang cứu xét vấn đề tuyên bố thành một quốc gia độc lập nếu Do Thái cố gắng áp đặt vấn đề biên giới với Palestine. Quốc gia Palestine này bao gồm vùng Tây Ngạn, Giải Gaza và phía đông Giêrusalem.

Những người Palestine nói rằng nếu Do Thái muốn thực hiện một bức tường rào cản thì nó phải thực hiện trên phần đất Do Thái có trước khi chiếm vùng Tây Ngạn trong Trận Chiến Trung Đông 1967. Cuối Tháng 2/2004 Tòa Công Lý Quốc Tế ở Hague sẽ phân xử vụ này.
 

9/2 Thứ Hai

Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 8/2 về Lễ Mẹ Lộ Đức và Đền Thánh Lộ Đức với Ngày Thế Giới Bệnh Nhân

Anh Chị Em thân mến!

1.     Thứ Tư tới đây, 11/2, lễ nhớ Mẹ Lộ Đức, là Ngày Thế Giới Bệnh Nhân. Những biến cố chính yếu này sẽ được diễn ra tại chính Đền Thánh Mẫu Lộ Đức, nơi Rất Thánh Nữ Maria đã hiện ra với Thánh Bernadette Soubirous, xưng mình là người được “Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Ngoài ra, năm nay kỷ niệm 150 năm tín điều Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được vị tiền nhiệm khả kính của Tôi là Chân Phước Piô IX công bố, vị được phụng vụ kính nhớ hôm qua.

2.     Chúng ta thấy Mẹ Lộ Đức và thế giới khổ đau cùng tật bệnh có một liên kết chặt chẽ với nhau. Nơi ngôi đền gần hang động Massabielle, thành phần bệnh nhân bao giờ cũng đóng vai chính của sự sống và của niềm hy vọng, vì thế theo giòng thời gian tháng năm, Lộ Đức đã trở nên một pháo đài thực sự của sự sống và niềm hy vọng. Làm sao Lộ Đức lại không phải là như thế? Thật vậy, Ơn Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là hoa trái đầu mùa của việc Chúa Kitô cứu chuộc và là bảo chứng của việc Người chiến thắng sự dữ. Mạch nước vọt lên từ đất mà Mẹ Maria muồn Bernadette uống làm trí khôn nghĩ đến quyền năng của Thần Linh Chúa Kitô là quyền năng hoàn toàn chữa lành con người và ban cho họ sự sống đời đời.

3.     Xin Mẹ Maria trông đến tất cả những ai sẽ tham dự vào biến cố đực tổ chức ở Lộ Đức trong mấy ngày nữa đây, những cuộc họp về thừa tác vụ chăm sóc sức khỏe ở các quốc gia Âu Châu cunõng như về mối liên hệ đặc biệt giữa Trinh Nữ Vô Nhiễm và thành phần bệnh nhân. Trước hết chúng ta hãy hiến dâng cho Vị Thánh Trinh Nữ việc cử hành Thánh Thể long trọng sẽ được chủ sự bởi vị đại diện đặc biệt của Tôi là ĐHY Lazano Barragán, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Các Cán Sự Chăm Sóc Sức Khỏe.

Biệt chú: có một cuốn sách mới xuất bản bằng tiếng Ý nói về 67 phép lạ chính thức đã được Giáo Hội công nhận và khoảng 7 ngàn những thứ chữa lành không thể cắt nghĩa theo tự nhiên kể từ năm Mẹ hiện ra 1858. Cuốn sách này mang tựa đề "Il Medico di Fronte ai Miracoli" ("Bác Sĩ Trước Các Phép Lạ”), do Nhà Xuất Bản Thánh Phaolô phát hành, một tác phẩm được viết bởi Hiệp Hội Các Bác Sĩ Ý với sự hợp tác của ông Patrick Thiellier, giám đốc Văn Phòng Y Khoa, một trung tâm được thiết lập ở đền thờ Pháp để cứu xét về khoa học các trường hợp được trình báo chữa lành. Cuốn sách này đã được bàn đến ở Đài Phát Thanh Vatican hôm Chúa Nhật 8/2/2004.

ĐTC với Chủ Tịch Đại Hội Liên Hiệp Quốc về Vấn Đề Canh Tân Tổ Chức Quốc Tế LHQ này

Hôm Thứ Bảy 7/2/2004, ĐTC đã tiếp vị chủ tịch của Đại Hội Liên Hiệp Quốc lần thứ 58 là Julian Robert Hunte.

Thưa Ông Chủ Tịch,

Tôi vui mừng được đón tiếp ông ở Vatican với tư cách ông là Chủ Tịch của Đại Hội Lần Thứ 58 của Liên Hiệp Quốc.

Nhu ông biết, Tòa Thánh coi Tổ Chức LHQ như là một phương tiện quan trọng trong việc cổ võ công ích chung. Ông đã thực hiện một mục đích tái thiết để làm cho hoạt động của Tổ Chức được hiệu nghiệm hơn. Điều này chẳng những bảo đảm được kết quả hiệu nghiệm hơn đối với việc giải quyết chính đáng những vấn đề quốc tế, mà còn giúp cho Liên Hiệp Quốc trở thành một thẩm quyền luân lý đáng được tôn trọng hơn bao giờ hết trước cộng đồng quốc tế.

Tôi hy vọng rằng Các Quốc Gia Phần Tử sẽ coi việc canh tân này là “mộỉt trách nhiệm rõ ràng về luân lý và chính trị cần đến sự khôn ngoan và cương quyết” (Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2004, đoạn 7), và là một điều kiện tiên quyết cần thiết cho việc phát triển một trật tự quốc tế phục vụ toàn thể gia đình nhân loại.

Tôi xin nguyện chúc các nỗ lực riêng của ông hoạt động cho mục đích này, và Tôi xin Thiên Chúa ban các phúc lành khôn ngoan, sức mạnh và bình an xuống trên ông và các cộng sự viên của ông.

Tiểu Ban Anh Giáo và Công Giáo hoàn thành một văn kiện về Mẹ Maria

Ủy Ban Quốc Tế Anh Giáo Và Công Giáo Rôma (ARCIC: Anglican-Roman Catholic International Commission) đã hoàn thành một văn kiện mới về Trinh Nữ Maria, một yếu tố có thể là một dấu hiệu tích cực về mối hiệp thông giữa hai Giáo Hội.

Thật vậy, hôm Thứ Ba 3/2/2004, ngày kết thúc một cuộc họp kéo dài cả tuần lễ dưới sự đồng chủ tọa của ĐTGM Alexander Brunett ở Seattle và TGM Anh Giáo Peter Carnley ở Perth Úc Đại Lợi, ủy ban này đã phổ biến bản văn kiện mang tựa đề “Maria: Ân Sủng và Niềm Hy Vọng trong Chúa Kitô”, một văn kiện sẽ được đệ trình lên Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo cũng như TGM Anh Giáo ở Canterabury cùng với Hội Đồng Anh Giáo Tham Vấn.

Việc hoàn thành văn kiện này đã kết thúc giai đoạn hoạt động thứ hai của ARCIC, một ủy ban được thành hình theo ý muốn của ĐGH GPII cũng như của ĐTGM Anh Giáo Robert Runcie, từ năm 1982. ARCIC là phương tiện đối thoại về thần học duy nhất giữa hai Giáo Hội.

Vấn đề đối thoại giữa Anh Giáo và Giáo Hội Công Giáo dầu sao cũng gặp trục trặc trầm trọng hai lần, một vào trường hợp Anh Giáo phong chức linh mục và giám mục cho nữ giới vào giữa thập niên 1990, và phong chức giám mục cho thành phần công khai đồng phái tính vào Tháng 11/2003 vừa rồi.

ĐTC với Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin về việc trung thành với Huấn Quyền, về luật tự nhiên và về vệc áp dụng luật từng phạt

Hôm Thứ Sáu 6/2/2004, ĐTC đã tiếp tham dự viên hội nghị nhị niên của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin. Ngài đã nhắn nhủ thánh bộ này những điểm quan trọng sau đây, nhất là 3 điều chính, thứ nhất là việc giáo dân chấp nhận các văn kiện của huấn quyền, thứ hai là lề luật luân lý tự nhiện, và thứ ba là tình trạng “tăng lên đáng kể” con số những trường hợp liên quan đến nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục.

“Môi trường văn hóa ngày nay, một môi trường đầy những chủ nghĩa tương đối và khuynh hướng thực dụng thoải mái, hơn bao giờ hết đòi thực hiện một cuộc can trường loan báo một sự thật cứu độ con người cũng như cần đến một động lực mới truyền bá phúc âm hóa.

“Việc hoàn toàn gắn bó với sự thật của Công Giáo chẳng những không làm giảm sút mà còn làm thăng hóa tự do của nhân loại và đưa nó đến tầm mức thành toàn, trong một tình yêu tự do và đầy quan tâm đến thiện ích của tất cả mọi người.

“Việc chấp nhận các bản văn kiện của huấn quyền đối với người tín hữu Công Giáo, thành phần thường bị đánh lạc hướng hơn là được hướng dẫn bởi những phản ứng cấp thời theo truyền thông cũng như bởi những cắt nghĩa của truyền thông. Thật vậy, việc chấp nhận một bản văn kiện trước hết đòi phải được thấy như là một biến cố của Giáo Hội trong việc đón nhận huấn quyền trong niềm hiệp thông và chân thành chia sẻ tận tình với tín lý của Giáo Hội. Văn kiện của Giáo Hội thực sự là một thứ ngôn ngữ có thẩm quyền chiếu sáng cho thấy sự thật đức tin hay chiếu sáng một vài khía cạnh về tín lý Công Giáo đang bị thử thách hay đang bị bóp méo bởi những trào lưu đặc biệt về tư tưởng hay về hành động.

“(Lề luật tự nhiên) thuộc về đại gia sản của đức khôn ngoan con người được Mạc Khải, qua ánh sáng của mình, đã góp phần vào việc thanh tẩy và phát triển hơn nữa. Lề luật tự nhiên, một thứ lề luật khả tri đối với hết mọi tạo vật có lý trí, cho thấy những qui tắc đệ nhất và thiết yếu chi phối đời sống luân lý.

“Ngày nay, là hậu quả của cuộc khủng hoảng về siêu hình học, nhiều lãnh vực không nhìn nhận là có một sự thật được ghi khắc trong lòng của hết mọi con người. Do đó, một mặt, chúng ta thấy được nơi các tín hữu lan tràn một thứ luân lý mang tính chất fideistic, mặt khác, cái đang bị mất mát là một điểm qui chiếu khách quan cho những tác hành lập pháp thường dựa nguyên vào việc ưng thuận về xã hội.

“(Các qui tắc về giáo luật nếu được áp dụng một cách chính đáng và công bằng) có khuynh hướng bảo đảm việc thi hành quyền tự vệ của thành phần bị tố cáo cũng như các nhu cầu của công ích. Một khi có chứng cớ về tội ác”, cần phải cứu xét một cách thấu đáo “nguyên tắc chính đáng của tính cách cân xứng giữa tội lỗi và hình phạt, cũng như của nhu cầu rất cần phải được bảo vệ của dân Chúa.

“Điều này không chỉ lệ thuộc vào việc áp dụng luật trừng phạt theo giáo luật, mà còn phải tìm cách bảo đảm hơn nữa việc huấn luyện chính đáng và quân bình cho các linh mục tương lai được kêu gọi hiên ngang dấn thân một cách hân hoan và quảng đại sống một đời sống khiêm tốn, nết na và thanh tịnh là nền tảng thực tế cho đời sống độc thân của Giáo Hội. Bởi vậy, Tôi mời gọi thánh bộ của anh em hãy hợp tác với các phân bộ khác của Giáo Triều Rôma có trách nhiệm trong việc huấn luyện các chủng sinh cũng như hàng giáo sĩ, để chấp nhận những biện pháp cần thiết hầu bảo đảm là các linh mục sống hợp với ơn gọi của họ cũng như với việc họ dấn thân sống một cách trọn hảo và trọn đời đức thanh tịnh vì Nước Thiên Chúa”.
 

Khủng bố tấn công? - Một chiếc xe lửa bị nổ ở Moscow!

Phó Thị Trưởng của Thủ Đô Moscow là ông Valery Shantsev cho biết chuyến xe lửa đi từ trạm Paveletskaya đến trạm Avtozavodskaya, phía tây nam của trung tâm thủ đô Moscow, khoảng 8 giờ 40 phút sáng ngày Thứ Sáu 6/2/2004, giờ bận rộn đi làm của dân chúng, đã bị nổ “ở gần cửa thứ nhất của toa thứ hai”, làm cho toa thứ ba cũng bị ảnh hưởng luôn.

 

Ông phó nội vụ Nga là Alexander Chekalin cho biết, trái bom đã được để ở trong một cái cặp hay một cái túi xách và khi nổ đã sát hại 39 người và gây thương tích cho 129 người khác. Theo bộ phận chụp hình giám sát tự động cho thấy, như tin cảnh sát tường trình, thì có hai người bị tình nghi, một nam và một nữ, lên xe với những cái cặp.

Hãng Thông Tấn Interfax News Agency của Nga cho biết Tổng Thống Putin đã lên án vụ nổ này, và cho đó là một hành động khủng bố tấn công: “Chỉ liên kết nỗ lực với nhau trong cộng đồng thế giới chúng ta mới đối đầu lại được với nạn dịch tễ này của thế kỷ 21”. Ông lập lại chủ trương của ông là chính phủ sẽ không bao giờ điều đình với những tay khủng bố cả, dù họ có làm áp lực đến cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 14/3/2004 tới đây. Vị tổng thống này đã lấy vấn đề chống khủng bố như là vấn đề chính trong cuộc tranh cử tổng thống của mình, như bên Hoa Kỳ đảng Dân Chủ cũng đang lợi dụng chiến tranh Iraq để tấn công đảng Cộng Hòa của chính phủ Bush đương nhiệm.

Trong khi Tổng Thống Bush gọi điện thoại cho Tổng Thống Putin cho biết Hoa Kỳ sẵn sàng giúp Nga nếu cần, thì ở Gronzny, vị lãnh đạo nhóm ly khai Chenchen là ông Aslan Maskhadov đã phủ nhận là những người nổi loạn Chenchen đã chủ mưu gây ra vụ khủng bố này. Nếu Hoa Kỳ là mục tiêu khủng bố tấn công trên khắp thế giới bởi các tay khủng bố Ả Rập thì Nga Sô cũng là mục tiêu tấn công trong liên bang của mình từ nhóm dân ở Chechnya được ghi nhận như sau:

31/8/1999: Một vụ nổ ở một trung tâm thương mại dưới lòng đất gần Cẩm Linh làm thương tích cho 20 người.

9/1999: Những trái bom nổ làm hủy hoại các khu chung cư ở Moscow là Buynaksk và Volgodonsk, sát hại 200 người. Chính phủ đổ cho những tay nổi loạn Chenchen, thành phần tố lại hoạt động mật của Nga Sô. Thủ Tướng bấy giờ là tổng thống Putin bây giờ lần đầu tiên đã gửi quân tới Chechnya từ năm 1997.

7/6/2000: Trong cuộc tấn công đầu tiên ở nước cộng hòa Chechnya bị nạn nứt có hai cảnh sát Nga bị sát hại tại một cuộc nổ xe tự vẫn gần thủ đô Grozny.

2-3/7/2000: Những tay du kích Chechen thực hiện 5 cuộc tấn công nổ bom tự vẫn ở các địa điểm lực lượng của Nga trong 24 tiếng đồng hồ. Trong cuộc tấn công dữ dội nhất trong 5 vụ này đã sát hại 54 người ở một địa điểm cảnh sát gần Grozny.

8/8/2000: Một vụ nổ bom dưới một hầm đất đông người qua lại ở Moscow đã sát hại 8 người.

23/10/2002: Khoảng 50 tay phản loạn Chechen đã chiếm một rạp hát ở Moscow và bắt chứng 800 người làm con tin. Sau 3 ngày chiếm đóng, các lực lượng Nga đã phải dùng hơi để giải tỏa, sát hại hầu hết các tay khủng bố và 120 con tin.

27/12/2002: Những tay nổ bom tự vẫn Chechen đâm những chiếc xe hơi vào các hành dinh lớn của chính quyền địa phương ở Grozny, làm xập một dinh thự 4 lầu, làm thiệt mạng khoảng 80 người.

12/5/2003: Hai người nổ bom tự vẫn lái 1 chiếc xe vận tải đầy thuốc nổ đâm vào một khu vực an ninh và quản trị của chính quyền ở Znamenskoye, miền bắc Chechnya, gây thiệt mạng cho 59 người.

14/5/2003: 16 người đã bị thiệt mạng và 145 người bị thương bởi một cuộc nổ bom tự vẫn trong một buổi lễ tôn giáo ở tỉnh LLiskhan-Yurt, phía đông Grozny.

5/6/2003: Một phụ nữ nổ bom tự vẫn phục kích môt chiếc xe buýt chở các phi công Nga ở gần Chechnya, sát hại 18 người, không kể chính đương sự.

5/7/2003: Hai phụ nữ nổ bom tự vẫn sát hại 15 người khác và 60 người bị thương ở một cuộc trình diễn nhạc rock ngoài trời ở Moscow.

1/8/2003: Một tay nổ bom tự vẫn sát hại ít là 50 người ở 1 bệnh viện quân đội thuộc tỉnh Mozdok miền Bắc Ossetia dọc biên giới Chechnya.

3/9/2003: Sáu người đã bị thiệt mạng trong một vụ nổ bom ở một trạm xe lửa gần Northern Caucasus tỉnh Pyatigorsk, nhưng cảnh sát cho biết không phải do những loạn quân Chechen gây ra.

5/12/2003: Một vụ nổ bom ở 1 trạm xe lửa ở Stavropol bắc Chechnya đã sát hại 36 người và gây thương tích cho 150 người.


9/12/2003: Sau cuộc tuyển cử quốc hội mấy ngày một nguời đàn bà ôm bom tự vẫn tấn công 6 người ở trung tâm Moscow ngoài National Hotel, gần Red Square.


ĐTGM Công Giáo Tadeusz Kondrusiewicz, giáo chủ TGP Mẹ Thiên Chúa ở Moscow, ngoài việc kêu gọi những người Công Giáo cầu nguyện cho những kẻ chết, bị thương và gia đình của họ, còn bày tỏ thương tiếc và nhận định về vụ khủng bố tấn công mới nhất 6/2/2004. Qua cơ quan Fides của Vatican rằng:


“Cuộc tấn công này cho chúng ta thấy 1 lần nữa bộ mặt ghê rợn của nạn khủng bố là hành động không có gì biện minh được. Tất cả mọi tín hữu, nhất là tất cả mọi phương tiện truyền thông, cần phải xác tín về điều này, hầu làm tất cả những gì có thể để thuyết phục những ai đang tìm cách trả đũa. Không có lý do nào biện minh cho việc khủng bố cả! Tất cả mọi tín đồ thuộc hết mọi tôn giáo, chúng ta phải hết sức cố gắng để cùng nhau cổ võ hòa bình và hòa hợp, nhớ rằng sự dữ có thể bị sự thiện khống chế, và chúng ta đừng rơi vào chước cám dỗ trả đũa”.


ĐTC GPII, qua ĐHY Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano, cũng đã gửi 1 điện tín hôm Thứ Bảy 7/2/2004 tới ĐTGM Antonio Mennini, khâm sứ tòa thánh ở Liên Bang Nga về vụ nổ bom này như sau:


“Hết sức đau lòng trước tin tân công thê thảm này, chúng tôi xin bày tỏ niềm chân thành phân ưu đến những người thân quyến của các nạn nhân. Phó dâng cho tình thương Chúa linh hồn của những người quá cố, cũng như tất cả mọi nạn nhân của hành động bạo động này, ĐTC xin phép lành tòa thánh an ủi cho tất cả những ai bị khổ nạn bởi một biến cố thảm khốc này”.

 

 

8/2 Chúa Nhật V Thường Niên Năm C

Ơn Gọi Tông Đồ – Ở Chỗ Nước Sâu

Ơn Gọi Tông Đồ: Lời Chúa

Trong thời điểm Giáo Hội đang cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô chính thức công khai tỏ mình ra nơi dân Do Thái, qua các bài Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đặc biệt tỏ mình ra cho các môn đệ của Người. Ở bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ hai Năm C, Người đã tỏ mình ra cho các vị qua việc hóa nước lã thành rượu ngon. Ở bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ năm tuần này, Người lại đặc biệt tỏ mình ra cho các vị, một việc tỏ mình không phải chỉ liên quan đến niềm tin của các vị như lần ở tiệc cưới Cana, cho bằng liên quan trực tiếp đến sứ vụ chứng nhân tông đồ của các vị.

Thật vậy, bài Phúc Âm Chúa Nhật V Thường Niên Năm C tuần này thuật lại việc Chúa Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ tiên khởi qua chính nghề nghiệp chuyên môn của các vị. Các vị là những tay đánh cá chuyên nghiệp, biết đánh ở đâu và vào lúc nào thì bắt được nhiều cá, nhưng lần này đã cố gắng suốt cả đêm mà chẳng bắt được gì cả. Thế mà chỉ vì tin Thày, dù biết Thày không rành nghề đánh cá bằng mình, và mình đã đánh cá ở cả khu vực Thày bảo rồi mà vẫn không được, các ông cứ nhắm mắt làm theo, và quả thực đã bắt được một mẻ cá hết sức lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng của các vị, làm các vị càng khâm phục Đấng các vị đã bỏ mọi sự để đi theo làm môn đệ của Người. Trước tinh thần tin tưởng và thái độ tuân phục của các vị, Chúa Giêsu đã hứa huấn luyện các vị trở thành những tay chài lưới thiêng liêng, những tông đồ cứu vớt linh hồn con người.

Đúng thế, Mầu Nhiệm Chúa Kitô về đời sống công khai của Người chúng ta đang cùng với Giáo Hội cử hành trong Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Thường Niên Năm C này là việc Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ thuộc thành phần hành nghề đánh cá biết ý định Người muốn tuyển chọn các vị làm những tay chuyên nghiệp chài lưới người. Đó là lý do chủ đề Ơn Gọi Tông Đồ của Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh tuần này chẳng những được thể hiện rõ ràng qua bài Phúc Âm, mà còn qua cả hai bài đọc một và hai nữa.

Trong bài đọc một, Tiên Tri Isaia đã thuật lại Ơn Gọi Tông Đồ của mình như sau: “Bấy giờ tôi nói: ‘Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn…’ Lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến bay đến chỗ tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp lửa gắp ở bàn thờ. Ngài đặt than lửa vào miệng tôi mà nói: ‘Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi đã được xóa bỏ, và tội của ngươi được thứ tha’. Và tôi nghe tiếng Chúa phán bảo: ‘Ta sẽ sai ai đi đây? Và ai sẽ đi cho chúng ta?’. Tôi liền thưa: ‘Này con đây, xin hãy sai con’”.

Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô cũng chia sẻ về Ơn Gọi Tông Đồ của mình như sau: “Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em in Mừng mà tôi đã rao giảng cho anh em… Đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta… được mai táng và sống lại… Người đã hiện ra với Kêpha… Sau cùng Người cũng đã hiện ra với chính tôi như với một đứa con đẻ non. Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng danh được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa…”.

Ơn Gọi Tông Đồ: Ý Nghĩa và Cảm Nhận

Ơn Gọi Tông Đồ như ba bài đọc trong phần Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh cho thấy có 3 ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất của Ơn Gọi Tông Đồ, đó là việc thành phần được tuyển chọn đều cảm thấy mình thực sự và hoàn toàn bất xứng: Tiên Tri Isaia kêu lên trong bài đọc một: “Vô phúc cho tôi, lưỡi tôi dơ bẩn”; Thánh Phaolô thú nhận trong bài đọc hai: “Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong ácc tông đồ và không xứng đáng được gọi là tông đồ”; và Thánh Phêrô trong bài Phúc Âm cảm nhận: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.

Ý nghĩa thứ hai của Ơn Gọi Tông Đồ, đó là nếu Chúa thực sự muốn tuyển chọn ai thì Ngài sẽ làm cho họ nên xứng đáng và có đủ khả năng để thực hiện sứ vụ của họ: Tiên Tri Isaia trong bài đọc một đã được cục than lửa do một thiên thần gắp từ bàn thờ Chúa đặt vào miệng lưỡi của ông; Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã cho biết: “Nhưng nay tôi là người thế nào là nhờ ơn của Thiên Chúa”; Thánh Phêrô trong bài Phúc Âm đã được Chúa Kitô trấn an: “Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ đáng cá người ta”.

Ý nghĩa thứ ba của Ơn Gọi Tông Đồ, đó là thái độ sẵn sàng đáp ứng một cách trọn vẹn của thành phần được tuyển chọn: Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã mau mắn thưa: “Này con đây, xin hãy sai con”; Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã khẳng định “và ơn của Người không vô ích nơi tôi”; Thánh Phêrô và đồng nghiệp được Phúc Âm Thánh Luca cho biết: “Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.

Tóm lại, áp dụng vào trường hợp Kitô hữu chúng ta, một khi được Thiên Chúa tuyển chọn để sống hay thực hiện một Ơn Gọi Tông Đồ đặc biệt, như đi tu làm tu sĩ hay giáo sĩ, hay nhận lãnh một trách nhiệm hoạt động Tông Đồ Giáo Dân ngoài khả năng và vị thế của mình, chúng ta hãy tỏ thái độ khiêm nhượng tín thác “xin vâng” theo Thánh Ý Chúa như Mẹ Maria. Tuy nhiên, thực tế cho Kitô hữu chúng ta thường có ba cảm nhận sau đây.

Cảm nhận thứ nhất, đó là đôi khi chúng ta từ chối một trọng trách vinh dự nào đó vì mục đích để tránh né gánh vác và hy sinh nhiều hơn là thực sự sống đức khiêm nhượng. Bởi vì, theo nguyên tắc Phúc Âm hay lời Chúa dạy, nếu cho phép chọn hay được tự do chọn, nghĩa là lúc chúng ta chưa biết rõ ý Chúa định về mình thế nào, thì mình phải chọn chỗ cuối rốt, tức đừng tự đưa mình lên, song một khi được mời lên chỗ cao hơn ngoài ý muốn của mình, bấy giờ chúng ta phải bỏ mình đi, tức phải bỏ chỗ mình chọn lựa để ngồi vào đúng chỗ được dành cho mình. Chỗ của chúng ta là chỗ Chúa đặt định cho chúng ta chứ không phải là chỗ chúng ta tự chọn lựa lấy cho mình.

Cảm nhận thứ hai về vấn đề Ơn Gọi Tông Đồ, liên quan đặc biệt đến thời điểm Tông Đồ Giáo Dân đang tưng bừng náo nhiệt hơn bao giờ hết từ sau Công Đồng Vaticanô II này. Đó là có nhiều người Kitô hữu giáo dân trong chúng ta tỏ ra rất hăng say, không sợ hy sinh, vất vả, mất giờ, tiêu hao tiền bạc, để lo cho cộng đoàn, cho cộng đồng, cho hội đoàn v.v. Thế nhưng, bất cứ lúc nào xẩy ra một cái gì đó không được như ý muốn, ý nghĩ, ý thích của mình, liền bỏ cuộc, thậm chí còn tỏ ra thái độ chống đối và hành động phá đám nữa là đàng khác, là những thái độ và hành động chứng tỏ chúng ta khi được mời đến dự tiệc đã tìm chỗ cao nhất mà ngồi nên đã bị mời xuống cuối rốt vậy.

Cảm nhận thứ ba về Ơn Gọi Tông Đồ là chúng ta đừng bao giờ tự mãn, lầm tưởng là mình đầy đủ, theo chủ trương của một số người trong chúng ta cho rằng ‘chúng ta đừng mang đạo vào nhà thờ’, như kiểu ‘đem củi về rừng’, bởi vì, nếu mỗi người và mọi người Kitô hữu chúng ta thực sự “là ánh sáng thế gian” như Mẹ Têrêsa Calcutta, thì thế gian đã không đi đến tình trạng “văn hóa chết chóc” hết sức thảm thương như ngày nay, tức là chúng ta hãy tự truyền bá phúc âm hóa cho chính mình đã, cho nhau đã, nghĩa là chúng ta hãy luôn là muối mặn ướp thế gian đã, rồi hãy lên tiếng trách thế gian tại sao càng ngày càng trở nên nguội lạnh và băng hoại.

Ơn Gọi Tông Đồ: Dấn Thân Sâu Xa

Bài Phúc Âm hôm nay còn cho chúng ta thấy một kinh nghiệm dấn thân sống đạo rất thực tế nữa là Thiên Chúa luôn kêu gọi chúng ta, bằng cách liên lỉ tỏ mình cho chúng ta qua nhiều hình thức, và nếu chúng ta nhận biết Người, chúng ta chẳng những biết được chính bản thân mình mà còn có thể tiến đến chỗ sống trọn ơn gọi ban đầu của mình.

Thật vậy, tay chài lưới mang tên Simon Phêrô trong bài Phúc Âm hôm nay, thực ra, đã đến gặp Chúa Giêsu một lần với người anh em ruột thịt Anrê của mình, và đã được Người đổi tên cho là Phêrô, như Phúc Âm Thánh Gioan ghi nhận (1:42), nhất là đã được Người chính thức kêu gọi theo Người cùng với Anrê và cặp anh em Gioan-Giacôbê khi Người đi dọc theo bờ biển Galilêa, sau khi Người công bố Lời Rao Giảng Tiên Khởi, và trước khi Người đi giảng dạy ở Galilêa, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại (4:17-23). Trong trường hợp này, Thánh Mathêu đã ghi rõ cả hai cặp anh em này “đã lập tức bỏ lưới (hay) thuyền bè và thân phụ mà theo Người” (4:20,22). Riêng trường hợp của hai anh em Simon-Anrê, Người đã kêu gọi họ bằng câu: “Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những tay đánh cá người” (4:19). Các vị quả thực sau đó đã theo Người đi rao giảng và Người đã ghé về nhà của nhạc mẫu Simon để chữa lành cho bà, như Phúc Âm Thánh Luca cho thấy (4:38-39). Thế nhưng, mãi cho tới sau biến cố mẻ cá lạ được Thánh Ký Luca ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay, “họ đưa thuyền vào bờ, và từ bỏ mọi sự để đi theo Người”.

Thật ra, nếu căn cứ vào câu Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Đừng sợ. Từ nay trở đi, các anh sẽ là những tay đánh cá người”, thì bài Phúc Âm của Thánh Luca hôm nay có thể trùng với bài Phúc Âm của Thánh Mathêu được trích dẫn trên đây về trường hợp Chúa Giêsu kêu gọi những môn đệ tiên khởi. Tuy nhiên, căn cứ vào lời của tay chài lưới mang tên Simon Phêrô ở cuối bài Phúc Âm sau khi ông và đồng nghiệp bắt được mẻ cá lạ: “Lạy Chúa, xin tránh xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi”, thì cũng có thể suy luận rằng, trước đây các vị tuy đã “lập tức” bỏ mọi sự mà theo Người rồi, song hình như sau đó vẫn còn luyến tiếc nghề nghiệp của mình, chưa dứt khoát theo Người, cho đến khi Người làm họ thấy họ hoàn toàn bị thảm bại trong nghề nghiệp chuyên môn của họ, “cả đêm mà không bắt được gì”, trái lại, nhờ “có những lời ban sự sống” (Jn 6:68) của Người, họ đã bắt được mẻ cá lạ, nên cảm thấy có lỗi với Người, cảm thấy mình “tội lỗi”, cảm thấy không xứng đáng với Người. Thế nhưng, Chúa Giêsu muốn cho họ biết mình họ để tin vào Người hơn, một điều kiện để Người có thể thực hiện lời Người khẳng định với các vị ngay sau khi các vị biết mình như thế: “Đừng sợ, Từ nay trở đi, các anh sẽ là những tay đánh cá người”. Nghe thấy thế, “họ đã mang thuyến vào bờ, và bỏ mọi sự để trở thành môn đệ của Người”.

Cũng thế, sau khi đã lãnh nhận phép rửa, Kitô hữu chúng ta nói chung đã không sống xứng đáng với ơn gọi làm môn đệ của Chúa Kitô, qua những hành động phản tinh thần Phúc Âm, phản Kitô giáo. Đặc biệt là trường hợp của thành phần tận hiến tu trì, sau khi đã bỏ mọi sự để đáp lại ơn gọi theo Người sống tinh thần Phúc Âm trọn lành hơn, qua lời khấn dòng hay thiên chức linh mục, sau đó vẫn có những hành động quyến luyến thế gian phản chứng nhân, thậm chí gây gương mù gương xấu. Hay trường hợp của thành phần Kitô hữu lập gia đình với nhau, đáp ứng ơn gọi của Người để phản ảnh mầu nhiệm cao cả là Chúa Kitô và Giáo Hội của Người (x Eph 5:32), sau đó lại ly dị hay phá thai v.v. Thế nhưng, có những trường hợp, Người đã lợi dụng chính những thất bại của bản tính yếu đuối loại người ấy nơi Kitô hữu môn đệ Người, để làm cho họ biết mình họ hơn, nhờ đó họ ý thức được ơn gọi tông đồ của họ hơn, rồi dấn thân sống xứng đáng với tư cách làm môn đệ của Người và sứ mệnh làm chứng nhân cho Người.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã lấy 1 câu của bài Phúc Âm Chúa Nhật V tuần này để làm câu tâm niệm sống cho Giáo Hội trong ngàn năm thứ ba. Thật vậy, trong Tông Thư Mở Màn Tân Thiên Kỷ ban hành vào chính dịp bế mạc Đại Năm Thánh 2000 ngày Lễ Hiển Linh 6/1/2001, ĐTC đã kêu gọi toàn thể Giáo Hội hãy “duc in altum”, tức hãy “thả lưới ở chỗ nước sâu”:
Vào lúc mở màn cho một tân thiên niên kỷ, cũng như vào lúc kết thúc cho Cuộc Đại Hỷ Kỷ Niệm được chúng ta cử hành mừng hai ngàn năm Chúa Giêsu giáng sinh đây, và vào lúc bắt đầu cho một giai đoạn hành trình mới của Giáo Hội, chúng ta dường như đang nghe thấy những lời của Chúa Giêsu vang lên trong lòng, những lời mà, hôm ấy, sau khi ngồi trên thuyền của Simon nói với dân chúng, Người đã kêu vị Tông Đồ này hãy thả lưới đánh cá ‘ở chỗ nước sâu’ù: ‘Duc in altum’ (Lk 5:4). Tông đồ Phêrô và đồng bạn của ngài đã tin vào lời Chúa Kitô nói mà thả lưới, để rồi, ‘khi làm theo như vậy, họ đã bắt được một mẻ cá to’ (Lk 5:6)”.

Tại sao? Tại vì, căn cứ vào nội dung và chiều hướng của bức Tông Thư quan trọng này, để hoàn thành sứ mạng truyền giáo bất khả châm chước của mình trong ngàn năm thứ ba, một công cuộc truyền giáo khẩn trương hơn bao giờ hết trong thời điểm thế giới đang sống trong một nền văn hóa sự chết, Giáo Hội cần phải sống đời cầu nguyện, bằng việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, chẳng những qua phụng vụ, như Ngài đang chia sẻ với Giáo Hội loạt bài Giáo Lý Về Thánh Vịnh từ ngày 23/1/2002 tới nay (Thứ Tư vừa rồi 4/2/2004) đã được 98 bài, mà còn qua việc cầu kinh Mân Côi, cùng Mẹ chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, như Người kêu gọi qua Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria được Ngài ban hành vào ngày kỷ niệm đúng 24 năm làm giáo hoàng của mình, 16/10/2002, mở màn cho Năm Mân Côi, cho tới ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, 19/10/2003. Việc Năm Mân Côi kết thúc vào Chúa Nhật Truyền Giáo của Giáo Hội cho thấy ý nghĩa và chiều hướng của những gì ĐTC đã kêu gọi Giáo Hội của Ngàn Năm Thứ Ba Kitô Giáo phải duc in altum, tức phải chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô trước rồi mới có thể tỏ dung nhan của Người ra, mới có thể làm chứng nhân cho Người, trong một thời điểm chính Kitô giáo Âu Mỹ đang bị phá sản về đức tin và đang cần phải tái truyền bá phúc âm hóa cho chính mình.

Lạy Đấng đã đến để cứu vớt những gì đã hư trầm, và đã dùng hết cách để tỏ mình ra cho chúng con là thành phần môn đệ của Chúa, không phải chỉ để cho chúng con tin vào Chúa mà còn để chúng con sống cho Chúa nữa. Xin Thần Linh Chúa đã ban cho chúng con qua các bí tích làm chủ con người và điều khiển cuộc đời Kitô hữu chúng con, để như Mẹ Maria đầy ơn phúc luôn lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, chúng con trở thành những tay đánh cá người chuyên nghiệp, cho Nước Cha muôn đời trị đến. Amen.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


NGƯ PHỦ VÀ MẺ CÁ

Cảnh sinh hoạt bên bờ hồ Giênêsarét sáng hôm ấy bỗng trở nên nhộn nhịp khác thường. Người người lũ lượt đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng, nhưng nhất là mọi người có mặt hôm đó đều sửng sốt chứng kiến một mẻ cá rất lạ lùng. Tin tức được truyền miệng cứ thế mà lan mau, vì trên thực tế, đó là một tin rất đáng chú ý, không chỉ ở chiều sâu ý nghĩa, mà còn là một câu truyện xẩy ra ngoài khả năng con người bình thường có thể làm được. Một nhóm ngư phủ với kinh nghiệm đầy mình vất vả cả đêm không được gì, nhưng chỉ nghe lời khuyên của một bác phó mộc đem thuyền ra khơi, buông lưới mà lại bắt được nhiều cá: “Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách” (Luc 5: 6). Biến cố này khiến ta tự hỏi: Ai là người ngư phủ của mẻ cá lạ lùng ấy, và những con cá đó là cá gì?

- Ai là ngư phủ: Nếu đọc một cách cẩn thận đoạn Tin Mừng này, ta sẽ thấy hiện lên hình ảnh một người ngư phủ khác chứ không phải là Phêrô và các đồng nghiệp của ông. Hình ảnh người ngư phủ ấy được tìm thấy qua câu nói của chính Ngài đã nói với Phêrô: “Đừng sợ. Từ đây con sẽ là kẻ chài lưới người” (Luc 5:10).

Nếu không phải là một ngư phủ lành nghề, giầu kinh nghiệm, và trổi vượt hơn Phêrô và các bạn hữu của ông, chắc chắn Ngài không thể chinh phục được sự tin tưởng một cách tuyệt đối của ông. Ai cũng biết rằng, Phêrô và các đồng nghiệp của ông là những người chài lưới chuyên nghiệp. Họ sống bằng nghề đánh cá, và rất quen thuộc với sóng nước, biển khơi. Thế mà khi nghe Chúa Giêsu nói, ông đã thưa với Ngài: “Chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Luc 5: 5).

Khi nói “vì lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”, hẳn là Phêrô đã nhận ra Chúa Giêsu là ai, và khả năng chuyên nghiệp như thế nào. Sự hàng phục của một tay chài lưới kinh nghiệm như Phêrô chứng tỏ tay nghề của bậc thầy này cao hơn, và đáng để được ông nể trọng.

Như vậy, người thả mẻ lưới lạ lùng hôm ấy không phải là Phêrô, Giacôbê, Gioan hoặc các bạn hữu của các ông, mà chính là Chúa Giêsu. Ngài là ngư phủ của Thiên Chúa Cha. Ngài xuống thế để chài lưới các linh hồn về cho Thiên Chúa. Phêrô và các đồng nghiệp của ông bắt cá ở biển, Chúa Giêsu bắt cá tâm hồn. Phêrô và các bạn ông chỉ mới biết nghề đánh cá mới này khi nghe Chúa nói với các ông mà thôi.

- Cá gì? Như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, và như thái độ của Phêrô đối với Ngài, thì mẻ cá lạ lùng mà Thánh ký Luca kể lại, chính là hình bóng của một mẻ cá tâm linh, mà con cá lớn nhất Chúa Giêsu bắt được hôm đó là Phêrô và các bạn hữu của ông. Chắc là Phêrô không bao giờ ngờ rằng những con cá ông lôi lên từ biển hôm đó lại là hình bóng của chính ông. Điều này đã được tìm thấy qua lời ông thưa với Chúa Giêsu khi kéo cá lên thuyền: “Lạy Chúa, xin tránh xa tôi, vì tôi là người tội lỗi” (Luc 5: 8).

Trong trường hợp đặc biệt hôm đó, chính ra Phêrô phải bày tỏ niềm biết ơn người đã chỉ cho mình ngón nghề mới, và chỗ thả lưới, nhưng ông lại sửng sốt xin Chúa Giêsu rời xa ông, vì ông cảm thấy mình tội lỗi. Đó chẳng phải là vì Phêrô đã nhận ra thân phận mình, một con cá đang bơi lội giữa biển trần đầy nguy hiểm, tội lỗi và xấu xa, hôm nay may mắn được Chúa vớt lên thuyền. Cảm khích về thân phận mình và về lòng thương của Thiên Chúa, ông thật sự thấy mình có phúc được nằm trong mẻ lưới đầu tiên của Chúa Giêsu trong muôn mẻ lưới mà Ngài sẽ buông xuống để thu hút các linh hồn.

Và dường như ông cũng cảm thấy qua ánh mắt Chúa, điều mà Chúa muốn ông làm. Phêrô đã không lầm khi chính tai ông nghe Chúa nói với ông: “Đừng sợ. Từ đây con sẽ là kẻ chài lưới người” (Luc 5:10).

Con cá Phêrô hôm ấy được Chúa vớt lên khỏi vùng biển trần gian, cũng như sau này được vớt lên từ vụng về, sa ngã, sẽ trở thành con cá lớn Chúa Giêsu đã bắt được. Không những thế, Ngài còn biến Phêrô thành ngư phủ chài lưới người và đã truyền nghề cho ông khi ông bỏ lại tất cả sau lưng để theo Ngài. Tóm lại, mẻ cá lạ lụng mà Thánh Luca vừa thuật lại cho ta ít nhất hai bài học cần được ứng dụng:

- Chúa Giêsu là ngư phủ đang vất vả thả lưới bắt các linh hồn về cho Chúa Cha. Ngài cũng đang kêu gọi mọi Kitô hữu chúng ta chia sẻ công việc ấy như đã kêu gọi Phêrô và các bạn hữu ông ngày xưa. Biển trần gian rất rộng lớn. Không những chỉ có Chúa Giêsu và các bạn hữu Ngài thả lưới, mà còn có Satan và bè lũ chúng cùng tranh nhau bắt các linh hồn. Muốn cộng tác với Chúa thì điều cần thiết là không ngại vất vả, và cũng như Phêrô, chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa: “Chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Luc 5: 5).

- Trong khi thả lưới với Chúa Giêsu, thì chính chúng ta cũng là những con cá được Ngài vớt lên từ biển trần tội lỗi. Ý tưởng này sẽ giúp ta nhận ra được thân phận và xuất xứ của mình, để trong mọi lúc chúng ta khiêm tốn nhận mình yếu đuối và tội lỗi. Vì khi nhận ra giới hạn của mình, ta sẽ biết đặt trọn niềm tin và cậy trông nơi Chúa. Nhưng nhất là hạnh phúc vì được ở trong mẻ lưới cứu độ của Ngài.

 

Trần Mỹ Duyệt

 

(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)