GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 6/2004

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: “Xin cho tất cả mọi Kitô hữu được liên lỉ nhận thức được trách nhiệm của bản thân cũng như của cộng đồng trong việc làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa đối với loài người và đối với hết mọi con người nam nữ”.

 

Ý Truyền Giáo: “Xin cho quyền tự do tôn giáo, một quyền lợi căn bản của loài người, được tôn trọng hơn nữa ở các quốc gia Á Châu”.  

__________________

 NGÀY 5 THỨ BẢY

 

Thánh Tử Ðạo Việt Nam

        Ðaminh Huyên:

       5/6 Thứ Bảy

 

 

Những gì Bí Mật Fatima được tiết lộ đã liên hệ đến vận mệnh của loài người ra sao?

 

Như thế, Vị Giáo Hoàng xuất hiện từ một nước Cộng Sản Balan rất lạ lùng này, một vị giáo hoàng không phải người Ý từ năm 1523 (tức 445 năm) trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Rôma này, đã chính thức công nhận là lịch sử hiện đại của loài người có liên hệ đến chung Biến Cố Fatima và riêng Bí Mật Fatima. Bởi vì, tất cả những gì được tiên báo trong toàn bộ Bí Mật Fatima, đặc biệt ở phần thứ ba còn lại của bí mật, đều đã được ứng nghiệm, mà chính bản thân ngài là một chứng cớ sống động và hùng hồn nhất.

 

Thật vậy, thế giới đã không bàng hoàng chứng kiến thấy hai biến cố bất ngờ xẩy ra trong thập niên 1980 hay sao, một xẩy ra ở đầu thập niên và một xẩy ra ở cuối thập niên, song cả hai biến cố này lại hoàn toàn liên hệ với nhau một cách huyền nhiệm? Đúng thế, lịch sử thế giới đã ghi nhận thực sự có một biến cố bất thường xẩy ra ở đầu thập niên 1980 là vụ Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị (mật vụ Cộng Sản quốc tế) ám sát tí nữa mất mạng vào ngày 13/5/1981 tại Quảng Trường Thánh Phêrô ở Rôma, và lịch sử thế giới cũng ghi nhận còn có một biến cố lịch sử khác xẩy ra ở cuối thập niên 1980 này là sự kiện Khối Cộng Sản Đông Âu tự động sụp đổ một cách hết sức nhanh chóng và bất ngờ, chẳng những vượt ra ngoài dự tưởng của các nhà kinh tế lừng danh nhất, mà còn không hề bị áp lực bởi bất cứ một chiến thuật hay chiến lược quân sự và chính trị nào hết. Sở dĩ hai biến cố đầu và cuối thập niên 1980 này có liên hệ mật thiết với nhau là vì chính Gorbachev, nhân vật chủ chốt cuối cùng của Khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết nói riêng và của Đông Âu nói chung, cũng là nhân vật đã triều kiến Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị lãnh đạo thế giới Công Giáo, lần nhất ngày 1/12/1989 và lần hai ngày 18/11/1990, đã khẳng định như vậy bằng những lời đã được báo chí thế giới phổ biến vào tháng 3/1992:

 

        “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đóng một vai trò chính trị chính yếu trong cuộc sụp đổ của Cộng Sản ở Đông Âu... Tôi vẫn tin vào tầm mức quan trọng của những việc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm trong những năm ấy”.

 

(Documents on Fatima, Fatima Family Apostolate, United States of America, English edition, 1992, trang 10-11)

 

Trong bài báo dưới đầu đề “Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm cho việc thay đổi xẩy ra” ngày 3/3/1992, vị lãnh đạo Cộng Sản Liên Sô viết:

 

        “Đông Âu không thể nào xẩy ra mọi biến chuyển trong những năm gần đây mà lại  không có vị Giáo Hoàng này”.

 

(Documents on Fatima, Fatima Family Apostolate, United States of America, English edition, 1992, trang 68)

 

Về phần Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của mình, (ấn bản Anh ngữ, xuất bản năm 1994, trang 130, 131-132), để trả lời cho câu hỏi “Thiên Chúa có nhúng tay vào việc sụp đổ của Cộng Sản hay không? Was God at Work in the Fall of Communism?”, ngài đã qui hết mọi sự trực tiếp về cho Biến Cố Fatima và gián tiếp về cho Thiên Chúa như sau:

 

        “Chúng ta phải nói sao về 3 trẻ ở Fatima, những em nhỏ, ngay trước cuộc bùng nổ của Cách Mạng Tháng Mười, đột nhiên nghe thấy rằng: ‘Nước Nga sẽ trở lại’ và ‘Cuối cùng, Trái Tim Mẹ sẽ thắng’…? Chúng không thể nào tạo ra những lời tiên đoán này. Chúng không biết đầy đủ về lịch sử hay địa dư, cũng không biết về những biến chuyển trong xã hội cũng như những phát triển về ý thức hệ. Thế mà, việc đã xẩy ra đúng như chúng đã nói. Có thể đây cũng là lý do tại sao mà một vị Giáo Hoàng từ ‘một xứ sở xa xôi’ đã được kêu gọi đến, đó có thể là lý do tại sao cần phải có một cuộc cố sát xẩy ra tại Công Trường Thánh Phêrô ngay vào ngày 13/5/1981, ngày kỷ niệm biến cố hiện ra lần thứ nhất ở Fatima – để tất cả mọi sự được trở nên thông suốt và thấu đáo, nhờ đó tiếng của Thiên Chúa nói trong lịch sử loài người qua những ‘dấu chỉ thời đại’ có thể dễ nghe và dễ hiểu hơn”.

 

Quả vậy, như cảm nhận của Gorbachev, Khối Cộng Sản Đông Âu sẽ không sụp đổ nếu không có Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, thì, theo chiều hướng của chính vị giáo hoàng này, nếu không có ngày 13/5/1981 cũng không có ngày 25/3/1984, một ngày then chốt ở ngay khoảng giữa hai biến cố đầu và cuối được đề cập đến trên đây, một ngày đưa đến biến động giải thể ở Đông Âu nói chung và ở Liên Sô nói riêng. Ngày 25/3/1984 này là ngày gì mà có một tầm quan trọng và mãnh liệt như vậy? Thưa, đó là ngày Giáo Hội Công Giáo Rôma kết thúc Năm Thánh Cứu Chuộc (25/3/1983-1984) để Mừng Kỷ Niệm 1950 Năm Chúa Kitô hy sinh chịu chết trên thập giá hầu giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết, ngày này cũng chính là ngày Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lợi dụng để cùng với các vị giám mục của Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ, như đã được nói đến trong phần thứ hai của Bí Mật Fatima trên đây: “Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình”. Đây là những lời trong bản kinh hiến dâng đã được ngài và các vị giám mục Công Giáo thế giới cùng hợp nhau đọc trong chính ngày 25/3/1984:

 

        “Chúng con xin hợp với tất cả mọi vị chủ chăn trong Giáo Hội (tức là các vị giám mục trên khắp thế giới Công Giáo) làm thành một thân thể và một tập đoàn, đúng như ý Chúa Kitô muốn các tông đồ hiệp nhất với Thánh Phêrô... Một cách đặc biệt, chúng con xin ký thác và hiến dâng cho Mẹ tất cả những người và những dân nước cần được ký thác và hiến dâng (ở đây đặc biệt có ý nói về Nước Nga, song vì tế nhị nên không gọi đích danh mà thôi)… Xin Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ chiếu tỏa ánh sáng hy vọng ra cho tất cả mọi người!”

 

(Documents on Fatima, Fatima Family Apostolate, United States of America, English edition, 1992, trang 82-83)

 

Theo Bí Mật Fatima phần thứ hai, quả thật sau khi “Đức Thánh Cha hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Mẹ” thì “Nước Nga (đã) trở lại” vào chính ngày Lễ Giáng Sinh 25/12/1991, khi Gorbachev chính thức từ chức, làm cho lá cờ đỏ búa liềm Cộng Sản trên đỉnh nóc của Điện Cẩm Linh bị hạ xuống, biểu hiệu cho việc Liên Bang Sô Viết hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản đã nhuộm đỏ phần đất cực bắc Âu Á khổng lồ này từ Cách Mạng Tháng Mười 1917, đúng vào thời điểm Biến Cố Fatima kết thúc (13/10/1917).

 

Tuy nhiên, biến cố “Nước Nga trở lại”, tức không còn theo Cộng Sản nữa, trước hết đã được mở màn bằng biến cố lịch sử có một không hai tại Liên Sô kể từ thời Cách Mạng Tháng Mười năm 1917, đó là cuộc bầu cử tự do đa đảng đầu tiên xẩy ra vào ngày 26/3/1989, một biến động không thể nào không ảnh hưởng tới Biến Cố Đông Âu cuối năm đó. Thế nhưng, sở dĩ có cuộc bầu cử có tính cách hoàn toàn dân chủ lạ lùng tại  chính đầu não thế giới Cộng Sản này là nhờ có nhân vật lịch sử Gorbachev, một nhân vật đã nỗ lực áp dụng chính sách Glasnot (cởi mở tư tưởng) và Perestroika (cải tổ cơ cấu kinh tế bắt đầu từ 10/1985) của mình trong thế giới Cộng Sản Âu Châu nói chung và Liên Sô nói riêng. Trong bức thư viết bằng tiếng Nga ký ngày 6/8/1989 để hồi âm bức thư của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ký ngày 7/6/1988 và gửi tay cho mình qua đức hồng y quốc vụ khanh Tòa Thánh Rôma bấy giờ là Casaroli, vào lúc 11 giờ 40 phút sáng ngày 13/6/1988 tại Spaskaya Tower ở Cẩm Linh, chủ tịch Gorbachev đã dứt khoát và minh nhiên nói lên lập trường của mình như sau:

 

        “Đã đến giờ của sự chân chính mới trên thế giới. Chúng tôi cho rằng đây là giờ biểu hiệu cho thấy một bước tiến mới hướng về tôn giáo và Giáo Hội, về trào lưu đại kết, về vai trò của các tôn giáo lớn trên thế giới... Chúng tôi đang vươn mình ra với thế giới và chúng tôi tin rằng những việc cùng nhau cởi mở sẽ tạo nên một bầu khí mới cho việc hợp tác quốc tế tốt đẹp cần thiết để canh tân và tiến bộ, mang lại lợi ích chung trong các lãnh vực chính trị, kinh tế và nhân bản”.

 

(George Weigel, Witness to Hope, Cliff Street Books, 1999, trang 575)

 

Thế nhưng, nhân vật then chốt Gorbachev 54 tuổi trẻ nhất trong số các lãnh tụ Cộng Sản Liên Sô từ Stalin này đã không xuất hiện trên cầu trường Cộng Sản và quốc tế trước biến cố “Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ” ngày 25/3/1984 mà là sau đúng một năm, tức vào tháng 3 năm 1985. Chắc chắn sẽ có người cho rằng đây không phải là một trùng hợp thiên định mà là một ngẫu nhiên tình cờ thôi, cũng như họ cho rằng Biến Cố Đông Âu và Liên Sô chỉ là hiện tượng “cùng tất biến” vậy. Nếu quả thực Đông Âu nói chung và Liên Sô nói riêng là đầu não Cộng Sản, là một kỳ phùng địch thủ hết sức đáng sợ của thế giới tự do và tư bản về phương diện vũ lực và ý hệ, mà còn “cùng tất biến” như thế thì chắc chắn một Cộng Sản Việt Nam bần cùng vào hạng gần bét thế giới bấy giờ, một nước đàn em đáng thương cần phải được đàn anh Liên Sô viện trợ và cho vay đến nỗi đã phải trả nợ bằng lao nhân, lại có thể đứng vững nổi cho tới bây giờ hay sao?!?

 

Ngoài ra, nếu con người khoa học thực nghiệm ngày nay chỉ tin vào những chứng cớ lịch sử thì thế giới nghĩ  sao về Bí Mật Fatima, về những gì đã được trời cao tiên báo từ ngày 13/7/1917 và cũng là những gì đã xẩy ra hoàn toàn ứng nghiệm như vậy. Chẳng hạn như những lời tiên báo 1, 2 và 3 trong phần Bí Mật Fatima thứ hai, cũng như những lời tiên báo 4 và 5 trong phần Bí Mật Fatima thứ ba sau đây (những chữ được in nghiêng trong ngoặc đơn là phần dẫn chứng hay giải thích riêng của người viết):

 

1.     Nếu những điều Mẹ dạy được thi hành thì nhiều linh hồn được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình. Chiến tranh sắp chấm dứt (quả thực Thế Chiến Thứ Nhất bắt đầu ngày 28/6/1914, khi Francis Fernando của Áo bị ám sát tại thủ đô Sarajevo, và đã chấm dứt ngày 11/11/1918, khi Đức ký đầu hàng đồng minh, tức hơn một năm sau khi Đức Mẹ tiên báo ở Fatima), nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ xẩy ra trong đời Đức Piô XI (Thế Chiến Thứ Hai chính thức xẩy ra vào ngày 1/9/1939 khi Đức xâm chiếm Balan, tuy nhiên, cuộc đại chiến này đã được khơi nguồn khởi sự từ năm 1938, khi ở Âu Châu, Đức tiến vào Nước Áo tháng 3 năm đó và vi phạm Hòa Ước Munich ký ngày 29-30/9/1938, rồi ở Á Châu, Nhật đã chiếm gần hết phần đất phía đông của Trung Hoa vào cuối năm 1938 sau cuộc tấn công nước này năm 1937, nghĩa là Thế Chiến Thứ Hai  quả thực đã “bùng nổ trong thời Đức Piô XI”, vị Giáo Hoàng lên ngôi năm 1922 và qua đời ngày 10-2-1939).

 

2.     “Nếu người ta nghe lời Ta yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình. Bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới (từ khi có chế độ Cộng Sản tại Nga chủ nghĩa Cộng Sản phát xuất ở Đức từ bán thế kỷ 19 mới bắt đầu được truyền bá khắp thế giới), gây chiến tranh (điển hình nhất là vụ Nga muốn bảo vệ nước Cộng Sản đàn em Cuba của mình vào năm 1962 nên đã mang đầu đạn nguyên tử đến hải phận nước này để sẵn sàng nhắm thẳng vào Hoa Kỳ, làm cho cả thế giới nhắm mắt nín thở hết sức hồi hộp vì Thế Chiến Thứ Ba bùng nổ đến nơi rồi), và bách hại Giáo Hội (điều này quá hiển nhiên như ban ngày, Việt Nam là một ví dụ cụ thể nhất). Nhiều người lành sẽ chịu tử vì đạo, Đức Thánh Cha sẽ phải khổ (điều này đã được lập lại ở Bí Mật Fatima phần thứ ba); nhiều nước sẽ biến mất (chẳng hạn 3 nước ở vùng Baltic là Estonia, Latvia và Lithunia đã hoàn toàn bị sát nhập vào Liên Sô từ tháng 4/1940).

 

3.     Cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng (ở chỗ, cho dù loài người không nghe lời Đức Mẹ kêu gọi, như những gì được đề cập đến ở hai chi tiết 1 và 2 trên đây, “cuối cùng” Đức Mẹ vẫn thắng, tức vẫn chế ngự  được sự dữ do tội lỗi loài người gây ra, điển hình nhất là nạn Cộng Sản vô thần, khi Người làm cho “Nước Nga trở lại”, một việc mà không một quyền lực trần gian nào tự mình có thể làm nổi). Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ (việc “dâng hiến Nước Nga” đã được thực hiện ba lần mới xong, lần nhất do Đức Thánh Cha Piô XII ngày 7/7/1952 song không hợp cùng với các vị giám mục trên thế giới, lần hai do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tại Fatima ngày 13/5/1982, ngày kỷ niệm một năm ngài bị ám sát, song cũng không kịp có sự tham phần của các vị giám mục trên thế giới, nên ngài đã lập lại việc hiến dâng này ngày 25/3/1984), Nước Nga sẽ trở lại (ngày 25/12/1991 như trên đã đề cập đến), thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình (“hòa bình” đây là tình trạng thế giới hậu cộng sản, vì “Nước Nga đã trở lại” không còn “gây chiến” làm cho thế giới lo sợ Thế Chiến Thứ Ba xẩy ra nữa, một thế chiến một khi xẩy ra sẽ kinh hoàng hơn cả Thế Chiến Thứ Nhất và Thứ Hai, vì là Thế Chiến Nguyên Tử, thế chiến hoàn toàn hủy diệt loài người trên mặt đất này, tuy nhiên, “hòa bình” này chỉ kéo dài “một thời gian” thôi, sau đó là những gì liên quan tới phần Bí Mật Fatima thứ ba, phần sẽ được hoàn toàn tiết lộ sau khi Thánh Bộ Tín Lý về Đức Tin của Tòa Thánh Vatican dẫn giải thích đáng).

 

4.     Thị kiến Fatima này trước hết liên quan đến cuộc chiến gây ra bởi chế độ vô thần chống lại Giáo Hội cũng như thành phần Kitô hữu, thị kiến cũng diễn tả cho thấy cuộc khổ đau khôn xiết của các chứng nhân đức tin trong thế kỷ cuối cùng của thiên niên kỷ thứ hai (điều này đã được nhắc đến ở phần Bí Mật Fatima thứ hai: “nhiều người lành sẽ chịu tử vì đạo”, như thực tế rõ ràng chứng thực ở tất cả mọi chế độ Cộng Sản).

 

5.     Vị ‘giám mục mặc áo trắng’... đang tìm hết cách tiến đến Cây Thập Giá ở giữa các thi thể của những vị tử đạo... thì ngài cũng bị ngã xuống đất như chết trước một phát súng nổ (Giáo Hoàng cũng là vị giám mục cai quản giáo phận ở Rôma, và là vị giám mục duy nhất trên thế giới mặc áo trắng, y phục của một vị giáo hoàng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cảm thấy mình chính là “vị giám mục mặc áo trắng” bị ám sát đến trọng thương “ngã xuống đất như chết trước một phát súng nổ” của Mehmet Ali Agca ngày 13/5/1981 tại Quảng Trường Thánh Phêrô ở Rôma, ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra với ba thiếu nhi Fatima. Việc bị ám sát không chết đã làm Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhận ra bàn tay của Đức Mẹ gìn giữ ngài và đã là lý do thúc đẩy ngài thực hiện việc “hiến dâng Nước Nga cho Mẹ” ngày 25/3/1984, một việc hiến dâng đã thực sự làm cho “Nước Nga trở lại”, nhờ đó “thế giới được hưởng một thời gian hòa bình” như hiện nay...)

 

Nếu những gì đã được Bí Mật Fatima tiết lộ đều thực sự xẩy ra đúng như vậy, thì những gì sắp được tiết lộ chắc chắn sẽ liên hệ đến “thời gian hòa bình” thế giới đang được hưởng đây và những gì sẽ xẩy ra sau đó... Thật ra Bí Mật Fatima không phải chỉ có giá trị ở tính cách tiên tri chính xác của mình liên quan đến chung vận mệnh thế giới, mà còn chính là chứng từ hùng hồn chân thực cho con người thấy rằng lịch sử loài người đang được trời cao hướng dẫn. Bởi đó, một khi thế giới nhận ra dấu chỉ thời đại qua những gì được Bí Mật Fatima tiết lộ, loài người sẽ vĩnh viễn sống trong bình an hạnh phúc, bằng không... xin chờ xem phần còn lại của Bí Mật Fatima là gì sẽ biết?

 

Dù phần Bí Mật Fatima sắp được tiết lộ có là gì đi nữa, mục đích và trọng tâm của bí mật này cũng chỉ là sứ điệp kêu gọi con người hãy nhờ Đức Maria trở về với Thiên Chúa, đúng như lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong buổi triều kiến chung ngày 17/5/2000 tại Đại Thính Đường Phaolô VI sau đây:

 

        “Sứ điệp cải thiện đời sống và hy vọng từ Fatima đã truyền đi khắp thế giới, một sứ điệp hợp với mạc khải Kitô Giáo đã được ăn sâu vào lịch sử loài người. Sứ điệp ấy mời gọi các tín hữu hãy thiết tha nguyện cầu cho hòa bình trên thế giới cũng như hãy hy sinh đền tội cho các tâm hồn biết sẵn sàng cải thiện đời sống. Đó thực sự là Phúc Âm của Đức Kitô, một Phúc Âm được trình bày một cách mới mẻ cho thế hệ đã bị các biến cố trong quá khứ đặc biệt thử thách của chúng ta. Ngày nay lời Thiên Chúa kêu gọi chúng ta qua Đức Trinh Nữ Maria tất cả vẫn còn tính cách hợp thời của nó”.

 

(Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 17/5/2000, đoạn 4)

 

 

(Bài viết này đã được phổ biến trên Nhật Báo Người Việt Orange County 29-31/2000, Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu 6/2000 và Dân Chúa Mỹ Châu 7/2000)


 
Tin và Sống Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi

 

TRÒ CHƠI CHÚA NHẬT LỄ THIÊN CHÚA BA NGÔI


BÀI ĐỌC II: 2 Cor 13:11-13

“Ân sủng của Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”
Bài trích thơ thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy vui lên, hãy nên trọn lành, hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và hòa thuận với nhau, thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an và tình yêu sẽ ở với anh em. Anh em hãy chào nhau bằng cái hôn thánh thiện. Tất cả các thánh ở đây gởi lời chào anh em. Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ơœ cùng tất cả anh em. Amen.
 

Hướng Dẫn:

Trong bài đọc hai hôm nay, như chúng ta vừa nghe, Thánh Phaolô đã chào chúc Kitô hữu ở Côrintô bằng công thức Thiên Chúa Ba Ngôi, cũng là câu chào chúc của linh mục trong phần mở đầu Thánh Lễ chúng ta thường nghe.

Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao cả nhất của Kitô giáo. Theo Mạc Khải Thần Linh, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dạy chúng ta rằng chúng ta tin có một Thiên Chúa chân thật duy nhất, nhưng Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này lại có Ba Ngôi, Ngôi Thứ Nhất là Cha, Ngôi Thứ Hai là Con và Ngôi Thứ Ba là Thánh Thần.

Ba Ngôi cũng như nhau về bản tính và cũng bằng nhau về ưu phẩm, như toàn thiện, toàn tri và toàn năng. Bởi thế Ngôi nào cũng là Thiên Chúa, nhưng lại không phải là Ba Thiên Chúa mà chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Theo Lịch Sử Cứu Độ, Ngôi Cha tỏ mình ra qua việc Tạo Dựng và Quan Phòng, Ngôi Con tỏ mình ra qua việc Nhập Thể và Cứu Độ, và Ngôi Ba tỏ mình ra qua việc Hiện Xuống và Thánh Hóa.

Trong toàn thể nhân loại, chỉ có một con người duy nhất đã sống trọn vẹn và phản ảnh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, đó là Trinh Nữ Maria. Maria là nữ tử chí thảo của Ngôi Cha, qua việc tự hạ và xin vâng; là thân mẫu chí nhân của Ngôi Con, qua việc thụ thai và hạ sinh Con Đấng Tối Cao; và là bạn tình chí ái của Ngôi Ba, qua cuộc sống vô nhiễm và trinh nguyên. Vậy, trong Ngày Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy sinh hoạt trò chơi Tin Và Sống Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

Trò Chơi:

1. Một trưởng nam đóng vai Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi và một trưởng nữ đóng vai Trinh Nữ Maria.

2. Trưởng nam làm ba cử chỉ tiêu biểu cho việc Tin Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, và trưởng nữ cũng làm ba cử chỉ biểu hiệu cho việc Sống Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

3. Ba cử chỉ của trưởng nam như sau: cử chỉ thứ nhất, giơ thẳng hai cánh tay về phía trước mặt, với hai bàn tay xoè ra và ngửa lên, tiêu biểu cho việc Ngôi Cha tạo dựng; cử chỉ thứ hai, giang hai tay ra hai bên vai, tiêu biểu cho việc Ngôi Con bị đóng đanh vào thập giá để cứu độ nhân loại; cử chỉ thứ ba, giơ một cánh tay về phía trước mặt, bàn tay úp xuống, như kiểu các tông đồ đặt tay trên đầu người ta để họ lãnh nhận Thánh Thần, tiêu biểu cho việc thánh hóa của Ngôi Ba.

4. Tham dự viên căn cứ vào mỗi cử chỉ tiêu biểu cho mỗi Ngôi Thiên Chúa này phải nói đúng Ngôi Thiên Chúa ấy. Chẳng hạn khi thấy trưởng đóng vai Thiên CHúa Ba Ngôi giang hai cánh tay ra hai bên vai thì phải nhận biết bằng cách hô lên rằng: “Ngôi Con” v.v.

5. Ba cử chỉ của trưởng nữ như sau: cử chỉ thứ nhất, chắp tay trước ngực và cúi đầu xuống, tiêu biểu cho việc tự hạ và xin vâng của Mẹ Maria đối với Ngôi Cha; cử chỉ thứ hai, khoanh hai tay lại và úp hai bàn tay vào trước ngực, tiêu biểu cho việc thụ thai, cưu mang và ấp ủ Ngôi Con; cử chỉ thứ ba, giang hai cánh tay hơi chúi xuống đất ra phía trước mặt, hai bàn tay mở ra và ngửa lên, tiêu biểu cho việc lúc nào cũng sẵn sàng hiến thân cho Ngôi Ba để Ngài hoạt động theo như ý của Ngài.

6. Tham dự viên cũng căn cứ vào mỗi cử chỉ tiêu biểu Sống Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi này để tuyên xưng từng Ngôi một. Chẳng hạn khi thấy trưởng nữ chắp tay cúi đầu thì hô: “Ngôi Con” v.v.

7. Ai nói sai thì bị loại, kể như chưa hiểu đủ hay chưa sống trọn Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

 

Thánh Tâm Chúa Giêsu Thỏ Thẻ với thánh nữ Magarita Alacốc

(Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, soạn dịch theo Tự Truyện đã được chia thành tiểu đoạn)

                         Con luôn luôn tỉ mỉ chú ý và coi chừng việc giữ kín tất cả những gì con hiện đang viết để sau này không gì có thể bị lộ, ngay cả việc cố gắng hồi tưởng về nó cũng vậy, con cứ để mặc tất cả cho Thày Nhân Lành nhớ. Bởi thế, con than phiền với Người về nỗi day dứt khó chịu ghê gớm này của con, song Người nói với con:

                        Hãy tiếp tục, hỡi con gái của Cha, hãy tiếp tục, đừng để ý gì đến tất cả những day dứt khó chịu to hay nhỏ này' Ý của Cha phải được hoàn thành.

                        "Nhưng ôi thôi! Lạy Chúa, làm sao con có thể nhớ được những gì đã xẩy ra cách đây cả 25 năm về trước?"

                        Con không biết rằng Cha là ký ức đời đời của Cha Cha trên trời hay sao, nơi Ngài không gì bị quên lãng và trước nhan Ngài quá khứ và tương lai đều là hiện tại? Do đó, đừng sợ, hãy viết theo như Cha đọc cho con viết, và Cha hứa với con Cha sẽ ghi dấu ấn tín ân sủng của Cha để nhờ đó Cha được vinh danh.

                        Cha muốn con làm điều này, trước nhất, để tỏ cho con thấy rằng Cha giải tỏa và vô dụng hóa tất cả những cẩn trọng Cha đã cho phép xẩy ra nơi con, những cẩn trọng chôn dấu muôn vàn ân sủng mà Cha lấy làm vui sướng trong việc thăng tiến một tạo vật quá ư nghèo khó và khốn cùng như con. Thế nên, con không bao giờ được quên mất điều này để con có thể liên tục dâng cho Cha niềm tạ ơn. 

                        (Cha muốn con làm điều này) sau nữa là để dạy con biết con không được làm cho muôn vàn ân sủng của Cha thích dụng cho riêng một mình con, cũng như con không được dành lấy việc phân phát chúng cho các kẻ khác, vì Cha muốn sử dụng trái tim con làm máng chuyên các ơn Cha tuôn đổ vào các linh hồn theo như trù tính của Cha, nhờ đó lôi kéo nhiều linh hồn khỏi vực thẳm trầm hư đời đời, như Cha sẽ tỏ cho con thấy sau này.

                        (Cha muốn con làm điều này) sau hết là để tỏ ra Cha là Chân Lý đời đời và để ân sủng mà Cha ban tặng cho con có thể ứng phó được với tất cả mọi thứ trắc nghiệm và thử thách.

            (Tự Truyện đoạn 10).

                         Mặc dầu bản chất nhậy cảm của con ham ước tất cả những gì là nhục nhã và hãm mình, tuy nhiên, con vẫn chưa lấy làm mãn nguyện, và Vị Thần Sư của con luôn luôn thúc giục con kêu xin cho được những điều này. Việc cầu xin này mang lại cho con một ít điều lợi là, mặc dầu lời cầu xin của con  không được chấp nhận như thể con bất xứng thực hiện những điều ấy, thì xẩy ra có những điều con không muốn lắm lại áp đặt lên con, những điều áp đặt này ngược lại với những bản năng tự nhiên của con đến nỗi, trong gắng gỏi cố gắng của mình, con buộc phải kêu lên cùng Thầy Nhân Lành của con:  "Hỡi ôi! Chúa Trời con ơi, xin hãy đến cứu giúp con đi, vì Chúa là căn nguyên của chúng!" Ngài đã nhậm lời, nói rằng:

                        Con hãy nhìn nhận con không thể làm gì được ngoài Cha là Đấng không bao giờ để cho con phải thiếu ơn trợ giúp, bao lâu nỗi yếu hèn và trống không của con mất đi trong mãnh lực của Cha.

            (Tự Truyện: đoạn 40)

                         Vì lo ngại về tất cả những đường lối của con có vẻ như lầm lạc và hão huyền làm sao đó, nên con được bề trên cho biết là con rõ ràng không có khả năng theo đuổi tinh thần của dòng Thăm Viếng, Con trình bày điều này cho Đấng Cao Cả của con với lời than trách sau đây: "Thôi rồi! Chúa ơi, chẳng lẽ Chúa lại là nguyên cớ làm cho con bị loại hay sao?" Đáp lại, Người phán:

                        Hãy trình với mẹ bề trên của con rằng người không nên sợ chấp nhận con, Cha trả lời thay cho con, và nếu mẹ bề trên tin vào Cha, Cha sẽ là bảo đảm của con.

                        Khi con trình với mẹ bề trên điều này, mẹ truyền con phải xin Người một minh chứng bảo đảm là làm cho con trở nên hữu dụng trong đời sống tu trì thánh hảo, qua việc giữ kỹ tất cả những gì được qui định. Về điều này, Đấng Lòng Lành nhân ái đã trả lời:

                        Được lắm, hỡi con gái của Cha, Cha ban cho con tất cả những điều này, vì Cha sẽ làm cho con còn hữu dụng hơn mẹ bề trên của con nghĩ nữa, nhưng theo cách thức chỉ một mình Cha biết trong lúc này mà thôi. Do đó, Cha sẽ thích ứng các ân sủng của Cha với tinh thần của luật dòng con, với ý của các bề trên con và với nỗi yếu hèn của con' nên con phải coi chừng mọi sự có thể kéo con ra khỏi việc giữ kỷ luật dòng của con là điều mà Cha muốn con phải để ý trước hết mọi sự khác. Hơn nữa, Cha lấy làm hài lòng khi con trọng ý của các bề trên con hơn ý của Cha, bất cứ khi nào các ngài có cấm đoán con không được làm theo điều Cha truyền cho con. Chịu khó theo các ngài để thi hành như các ngài muốn nơi con' Cha sẽ thừa biết cách để hoàn thành các dự định của Cha, cho dù các dự định này vì thế có thể bị chống đối và xung khắc. Cha dành cho một mình Cha quyền dẫn dắt nội tâm con, đặc biệt là điều khiển trái tim của con, vì một khi đã thiết lập trong nó vương quốc tình yêu tinh tuyền của Cha, Cha sẽ không bao giờ chịu nhường nó cho những điều gì khác nữa.

                        (Tự Truyện: đoạn 43)

                         Sau cùng rồi con cũng đạt được niềm hạnh phúc từ lâu hằng mong đợi là được khấn dòng, chính vào ngày hôm ấy Vị Thần Sư của con đã nhận con làm Hôn Thê của Người theo một thể thức mà con không thể tả được. Con chỉ biết nói là Người đã trang điểm cho con và đối xử với con như một hôn thê xứ Thabor. Đối với con, điều này làm con còn khổ hơn là chết, vì con thấy mình không giống với Hôn Phu của con, Đấng mà con thấy trên đồi Canvê hoàn toàn bị tan nát và tàn tạ dung nhan. Nhưng Người nói cùng con:

                        Hãy để Cha làm mọi sự khi đến thời điểm của nó' vì giờ đây Cha sẽ làm cho con thành một món đồ chơi của tình yêu Cha, khi Cha vui thỏa đối xử với con theo lòng nhân lành của Cha, như trẻ con nghịch các món đồ chơi của chúng' bởi thế, con phải nhắm mắt ngoan ngoãn bỏ mình đi để Cha được thoả nguyện nơi việc hy sinh của con' nhờ thế mà con sẽ không bị mất mát gì cả.

                        Người hứa sẽ không bao giờ bỏ con nữa, khi nói:

                        Con hãy luôn sẵn sàng cởi mở để nhận lấy Cha, vì từ đây, Cha sẽ cư ngụ trong con để Cha có thể thường xuyên tỉ tê với con.

                        (Tự Truyện: đoạn 44)

                         "Ôi Tôn Sư của con ơi, sao Người không để con sống theo một đường lối bình thường như các chị em dòng Thánh Nữ Maria? Chẳng lẽ Chúa đã đưa con vào nhà của Chúa đây là để hủy diệt con đi hay sao? (Vì các bề trên đã dùng hết cách để phá hủy tác động của Người trong con và con cũng được lệnh làm như vậy nữa). Con van nài Chúa hãy ban các ơn ngoại thường này cho các linh hồn ưu tuyển xứng hợp khác để làm cho Chúa được vinh danh hơn con, vì con chỉ chống cưỡng lại với Chúa mà thôi. Tất cả ước vọng của con là tình yêu Chúa và Thánh giá Chúa, những thứ đủ cho con để trở nên một tu sĩ tốt lành rồi, đó là tất cả những gì con ao ước". Người đáp:

                        Hỡi con gái của Cha, chúng ta hãy tiếp tục sự giằng co này, Cha rất ưng ý làm như vậy' chúng ta sẽ thấy ai sẽ là kẻ chiến thắng, Tạo Hóa hay tạo vật của Ngài' Mãnh Lực hay yếu đuối, Đấng Toàn Năng hay sự bất lực' Và ai là kẻ chiến thắng sẽ vĩnh viễn thắng cuộc.

                        Điều này càng làm cho con lẫn lộn, nên Người nói:

                        Hãy nhớ kỹ là Cha không thể bị xúc phạm bởi tất cả những trục trặc này cũng như bởi sự chống đối mà con thực sự gây ra cho Cha theo đức vâng lời, một nhân đức nhờ đó mà Cha đã hiến mạng sống Cha' nhưng Cha sẽ dạy cho con biết rằng Cha là vị Tôn Sư tối cao đối với những tặng ân của Cha cũng như với các tạo vật của Cha, không gì có thể ngăn cản Cha thực hiện các dự định của Cha. Bởi thế, Cha chẳng những muốn con phải làm theo điều các bề trên của con truyền khiến, mà còn không được làm tất cả những gì Cha lệnh cho con làm mà không có phép của các ngài. Cha yêu thích đức tuân phục, một nhân đức mà không có nó không ai có thể làm đẹp lòng Cha.

                        (Tự Truyện: đoạn 47)   

                         Một ngày kia, vì một số lỗi lầm mà con sa phạm, Vị Thần Sư của con đã ban cho con bài học sau đây:

                        Con hãy hiểu rằng Cha là một Thánh Sư và là Đấng dạy nên thánh, Cha tinh tuyền và không chịu nổi một tí vết ô nhơ nào cả. Bởi thế, con phải tác hành với một con tim đơn thuần cùng với một ý hướng trong sạch và ngay thẳng trước nhan Cha. Con hãy biết rằng Cha không thể chịu được một ước muốn không mấy ngay thật, và Cha sẽ làm cho con hiểu rằng, nếu sự quá độ của tình yêu Cha đã làm cho chính Cha nên Sư Phụ của con để dạy vẽ và khuôn đúc con theo cách thế cũng như dự định của Cha, chứ Cha không thể chấp nhận thứ linh hồn ương ương dở dở, và nếu Cha nhân hậu trong việc chịu đựng nỗi yếu hèn của con, thì Cha sẽ không kém phần nghiêm nghị và nghiêm chỉnh trong việc sửa chữa và trừng phạt những bất trung của con.

            (Tự Truyện: đoạn 51)