GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BẢY 25/11/2006

 TUẦN XXXIII THƯỜNG NIÊN

 

?  Đức Thánh Cha Biển Đức XVI điểm mặt Văn Hóa Tây Phương: “tất cả những gì còn lại đó là một ít vết tích của vài ý nghĩ minh tri tân thời mà thôi”

?  “Nhng Th Nô L ca Ngàn Năm Th Ba …..”

?   Thánh Long Mộng Phố: “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” - Chương Một: Tôn Sùng Mẹ Maria Cần Thiết  - Tiết III. Những Thành Quả

 

 

? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI điểm mặt Văn Hóa Tây Phương: “tất cả những gì còn lại đó là một ít vết tích của vài ý nghĩ minh tri tân thời mà thôi”

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và tuyển dịch

 

(tiếp 21 Thứ Ba, 22 Thứ Tư24 Thứ Sáu)

 

3- Văn Minh Tây Phương: "Nghi ngờ là tình yêu Thiên Chúa tạo nên một thứ lệ thuộc"

 

(Bài Giảng Kỷ Niệm 40 Năm Bế Mạc Công Đồng Chung Vaticanô II 8/12/2005)

 

“Đoạn Sách Thánh này cho chúng ta thấy hình ảnh ra sao? Con người không tin tưởng Thiên Chúa. Bị con rắn cám dỗ, họ tỏ ra nghi ngờ rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ lấy đi một cái gì đó khỏi cuộc sống của họ, rằng Thiên Chúa là một tay đối thủ cướp mất tự do của chúng ta, và chúng ta sẽ thành một con người trọn vẹn chỉ khi nào chúng ta loại trừ Ngài đi; tóm lại, chỉ có thế chúng ta mới hoàn toàn chiếm đạt quyền tự do của mình mà thôi.

 

“Con người sống trong sự nghi ngờ là tình yêu Thiên Chúa tạo nên một thứ lệ thuộc và họ cần phải dứt mình ra khỏi sự lệ thuộc ấy nếu họ muốn hoàn toàn là mình. Con người không muốn lãnh nhận từ Thiên Chúa việc hiện hữu của họ và tầm vóc viên trọn của đời sống họ.

 

“Chính họ muốn từ cây biết lành biết dữ chiếm được quyền năng hình thành thế giới này, biến mình thành chúa tể, nâng mình lên tầm cấp Thiên Chúa, và chế ngự sự chết và tối tăm bằng nỗ lực riêng của mình. Họ không muốn cậy dựa vào tình yêu là những gì đối với họ không đáng tin cậy, họ chỉ tin  tưởng hoàn toàn vào kiến thức riêng của họ, vì nó ban cho họ quyền lực. Thay vì tin tưởng vào tình yêu thì họ lại tin tưởng vào quyền lực là những gì họ muốn sử dụng để tự động nắm trong tay sự sống của họ. Làm như thế là họ tin tưởng vào sự dối trá hơn là vào chân lý, do đó họ nhận chìm sự sống của họ vào cái trống rỗng, vào sự chết chóc. 

 

“Tình yêu không phải là một thứ lụy thuộc mà là một tặng ân làm cho chúng ta sống. Tự do của con người là thứ tự do của một hữu thể hữu hạn, bởi thế tự bản chất nó cũng hữu hạn. Chúng ta có thể chiếm hữu được nó chỉ như là một thứ tự do chia sẻ mà thôi, một thứ tự do hiệp thông mà thôi: Chỉ khi nào chúng ta sống một cách đúng đắn, với nhau và cho nhau, thì tự do mới có thể phát triển mà thôi.

 

“Chúng ta sống một cách đúng đắn nếu chúng ta sống theo sự thật của hữu thể chúng ta, tức là sống hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì ý muốn của Thiên Chúa đối với con người không phải là một thứ luật lệ bị áp đặt từ bên ngoài và là những gì kềm kẹp họ, mà là cái chuẩn mức nội tại thuộc bản tính của họ, một chuẩn mức đã được in ấn trong họ và làm cho họ trở thành hình ảnh Thiên Chúa, nhờ đó, thành một tạo vật tự do.

 

“Nếu chúng ta sống ngược với tình yêu và nghịch lại sự thật này – phản lại Thiên Chúa – thì chúng ta hủy hoại lẫn nhau và hủy hoại thế giới. Để rồi chúng ta không tìm thấy sự sống mà là tác hành theo những xu hướng của chết chóc. Tất cả những điều này là những gì lập lại các hình ảnh mãi tồn tại nơi lịch sử sa ngã từ ban đầu của con người cũng như nơi việc con người bị loại trừ khỏi vườn Địa Đường trần gian.

 

“Anh chị em thân mến, nếu chúng ta thành tâm suy nghĩ về mình và về lịch sử của chúng ta, chúng ta phải nói rằng trình thuật này đã cho thấy chẳng những lịch sử thời nguyên thủy mà còn lịch sử của mọi thời đại nữa, và tất cả chúng ta mang trong bản thân mình một giọt độc dược của cách thức suy tư được thấy rõ nơi các hình ảnh của Sách Khởi Nguyên này.

 

“Chúng ta gọi giọt độc dược này là ‘nguyên tội’. Chính trong ngày lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội này mà chúng ta thấy được mối ngầm ngờ vực là một con người không phạm tội thực sự phải nói rằng họ là một con người buồn tẻ, và đời sống của họ thiếu vắng một cái gì đó: đó là chiều kích bi thảm của việc sống tự động, đó là quyền tự do chối từ, quyền tự do đi sâu vào những vùng tăm tối của tội lỗi và tự do làm những gì mình muốn; đó là chỉ tới bấy giờ chúng ta mới có thể thực hiện tối đa tất cả những gì là to tát và sâu xa của hữu thể nam nữ chúng ta, của việc thực sự là mình; đó là chúng ta cần phải thử cái tự do của mình, cho dù có phản nghịch lại Thiên Chúa, để thực sự hoàn toàn trở thành chính bản thân mình.

 

“Tóm lại, chúng ta nghĩ rằng sự dữ căn bản là tốt, chúng ta nghĩ rằng chúng ta cần đến nó, ít là một chút, để cảm nghiệm được cái trọn vẹn của hữu thể. Chúng ta nghĩ rằng Mephistopheles – tên cám dỗ – đúng khi hắn nói rằng hắn là một quyền lực ‘luôn muốn sự dữ và luôn làm sự lành’ (J.W. von Goethe, “Fault” I,3). Chúng ta nghĩ rằng một chút mặc cả với sự dữ, khi giữ cho mình một chút tự do phạm đến Thiên Chúa, căn bản là một điều tốt, thậm chí là một điều cần thiết.

 

 “Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn vào thế giới bao quanh chúng ta, chúng ta có thể thấy rằng nó lại không phải là như thế; nói cách khác, sự dữ bao giờ cũng độc hại, không thăng hóa con người mà hạ giá và đầy đọa họ. Nó không làm cho họ cao cả hơn tí nào, tinh tuyền hơn hay sang giầu hơn, mà là tác hại họ và thu hẹp họ lại.

 

“Đó là những gì chúng ta thực sự cần phải học hỏi trong ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm: Con Người hoàn toàn phó mình vào bàn tay Thiên Chúa không trở thành người nộm của Thiên Chúa, một ‘con người xin vâng’ tẻ nhạt; họ không mất quyền tự do của mình. Chỉ có con người tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa mới được tự do thực sự, một thứ tự do hành thiện cao cả đầy sáng tạo.

 

“Con người hướng về Thiên Chúa không trở thành nhỏ bé hơn mà là cao cả hơn, vì nhờ Thiên Chúa và với Thiên Chúa, họ trở nên cao cả, họ trở thành thần linh, họ thực sự trở thành chính mình. Con người đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa không tách mình khỏi người khác, khi thu mình vào việc cứu độ tư riêng; trái lại, chỉ tới lúc ấy lòng họ mới thực sự bừng tỉnh và họ trở thành một con người nhậy cảm nhờ đó nhân hậu và cởi mở”.

 

(xin xem tiếp loạt bài nghiên cứu tổng hợp hiện đại này vào những ngày tới hướng về chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ của ĐTC 28/11-1/12/2006)

 

 

TOP

 

 

?  “Nhng Th Nô L ca Ngàn Năm Th Ba …..”

 

Hôm 10/11/2006, hội dòng Đức Mẹ Tình Thương, một hội dòng được Thánh Peter Nolasco thành lập vào năm 1218 ở Barcelona, Tây Ban Nha, theo sau một cuộc hiện ra của Mẹ, lần đầu tiên tổ chức một hội nghị quốc tế ở Rôma, về chủ đề “Những Thứ Nô Lệ của Ngàn Năm Thứ Ba và Việc Đáp Ứng của Tu Sĩ Dòng Đức Mẹ Tình Thương”.

 

Dòng này, một hội dòng xuất phát từ công việc chính yếu là giải thoát thành phần Kitô hữu b ị làm n ô lệ cho tín đồ Hồi Giáo, đã phát triển một loạt những tổ chức theo tác động đặc sủng ấỵ Mục đích của hội nghị này là để chứng thực rằng:

 

“Vấn đề nô lệ không phải là một cái gì quái dị trong quá khứ mà chính chúng ta đã hoàn toàn  thoát khỏi, mà là một điều vẫn còn tiếp tục hiện hjữu khắp thế giới, bao gồm cả ở những quốc gia phát triển, như Pháp, Hoa Kỳ và Ý Đại Lợi”. Bản văn của ban tổ chức cho biết như thế.

 

“Ngoài tình trạng nô lệ theo truyền thống và việc buôn bán nô lệ, còn xẩy ra việc bán trẻ em, mãi dâm và hình ảnh mãi dâm trẻ em, khai thác lao công trẻ em, gây thương tật tình dục của các em gái, sử dụng các em vị thành niên cho những cuộc xung đột võ trang, tình trạng nô lệ bởi nợ nần, việc buôn bán con người và bán các cơ phận con người, việc khai thác mãi dâm, và một số hoạt động của những chế độ thuộc địa và ‘tách biệt chủng tộc Nam Phí.

 

Hội nghị này chú trọng nhiều tới việc buôn bán những bộ phận con ngườị Cha Dámaso Masabo, vị tổng đại diện của hội dòng này, đã nói:

 

“Việc buôn bán các bộ phận con người ở Trung Hoa là một thị trường rất có lợi – hai trái thận giá 62 ngàn Mỹ kim, hai buồng phổi giá 15 ngàn Mỹ kim, một giác mạc giá 30 ngàn Mỹ kim. Cả ở Á Châu, ở Pakistan, trên 65 ngàn trái thận được ban hằng năm. Theo dữ kiện thu thập được thì trong năm 2005 có trên 1 ngàn giác mạc được xuất cảng cho các nước khác nhau trên thế giớị

 

“Những cuộc điều tra mới đây ở Khối Hiệp Nhất Âu Châu đã làm sáng tỏ giá thị trường như sau: Thành phần bán – hầu hết là người Moldova hay Bulgaria – bán một trái thận là 1.900 Âu kim đến 3.800 Âu kim (tương đương với 2.400 tới 4.800 Mỹ kim). Kẻ mua để được thay cơ phận ở Istanbul với giá từ 100 ngàn đến 180 ngàn Âu kim.

 

“Trên 270 triệu người sống đời nô dịch hiện nay trên thế giới, một con số vượt quá 11 triệu 698 triệu bị trục xuất (và) bị bắt giữ ở Phi Châu giữa năm 1450 và 1900. Chưa kể tới 200 triệu trẻ em bị khai thác. Nguyên ở Á Châu đã có 50 triệu em.

 

“Hiện nay ước lượng có chừng từ 50 đến 70 ngàn phụ nữ ở Đông Phi, Mỹ Châu Latinh và Đông Âu, đang sống và làm việc ở các hè phố Ý quốc, hay trong các ổ đêm. Trong số đó có 30% đến 40% là vị thành niên, giữa 14 đến 18 tuổi”.

 

Tu sĩ dòng này hiểu vấn đề nô lệ là “bất cứ ai ở trong tình trạng bị tổn thương bởi áp lực về thể lý hay luân lý, bắt buộc phải làm việc mà không được hưởng thù lao, trong hoàn cảnh bị cướp đoạt tự do và trái với nhân phẩm của họ”.

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 21/11/2006

 

TOP

 

 

?   Thánh Long Mộng Phố: “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” - Chương Một: Tôn Sùng Mẹ Maria Cần Thiết  - Tiết III. Những Thành Quả

 

(Cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria này đã bị đứt quãng từ ngày 23-9 Thứ Bảy, vì các bài về Kinh Mân Côi trong Tháng 10 và các bài nhận định của ĐTC GPII về chính cuốn sách này)

 

43.          Nếu việc tôn sùng Đức Trinh Nữ là những gì cần thiết đối với tất cả mọi người chỉ vì họ muốn đạt đến ơn cứu độ của họ, thì lại càng cần hơn nữa cho những ai được kêu gọi nên trọn lành một cách đặc biệt. Tôi không tin rằng bất cứ người nào cũng có thể đạt được mối hiệp nhất thân tình với Chúa Kitô, và hoàn toàn trung thành với Thánh Linh, mà lại không liên kết rất chặt chẽ với vị Rất Thánh Trinh Nữ này, và không hoàn toàn lệ thuộc vào sự phù trợ của Mẹ.

 

44.          Một mình Mẹ Maria là người được ân sủng trước nhan Thiên Chúa mà không cần bất cứ một tạo vật nào khác giúp đỡ. Từ đó, tất cả những ai được ân sủng trước nhan Thiên Chúa đều nhờ Mẹ mà có. Mẹ là người đầy ân sủng khi Mẹ được Tổng Thần Gabiên chào kính, và được đầy ân sủng tới độ tràn lan nhờ Thánh Linh bao trùm Mẹ cách lạ lùng như vậy. Ngày qua ngày, từng phút từng giây, Mẹ đã gia tăng tình trạng tràn đầy gấp đôi này, cho tới độ Mẹ đã chiếm đạt được một mức độ ân sủng bao la không thể nào tưởng tượng nổi. Cho tới độ Đấng Toàn Năng đã làm cho Mẹ trở thành một quản gia duy nhất trông coi các kho báu của Ngài, và là vị phân phát duy nhất cho các ân sủng của Ngài. Giờ đây, Mẹ có thể làm cho nên cao cả, làm thăng hoa và làm trở thành phong phú tất cả những ai được Mẹ chọn lựa. Mẹ có thể dẫn dắt họ theo con đường hẹp về trời, và hướng dẫn họ qua cửa hẹp mà vào sự sống. Mẹ có thể ban vương tòa, vương trượng và vương miện cho những ai Mẹ muốn. Chúa Giêsu mãi là và ở đâu cũng là Con của Mẹ Maria, và Mẹ Maria ở đâu cũng là một cây đích thực trổ sinh Trái sự sống, một Người Mẹ thực sự sinh ra Người Con này.

 

45.          Thiên Chúa chỉ ban cho một mình Mẹ Maria chìa khóa hầm rượu yêu thương thần linh cùng với khả năng để có thể tiến vào những con đường trọn lành cao quí nhất và thần bí nhất, và dẫn những người khác đi theo những con đường ấy. Chỉ có một mình Mẹ Maria mới có thể làm cho thành phần con cái bất hạnh của một Evà bất trung tiến được vào địa đường trần thế là nơi họ có thể bước đi một cách đẹp lòng Thiên Chúa, và được nương náu một cách an toàn cho khỏi các kẻ thù địch của họ. Ở đó, họ có thể ăn hoa quả ngon lành của cây sự sống và cây biết lành biết dữ mà không sợ bị chết chóc. Họ có thể uống no thỏa những thứ nước thiên đình từ một nguồn mạch tốt đẹp tuôn chảy một cách tràn lan như thế. Vì chính Mẹ là địa đường trần thế này, một mảnh đất khiết trinh và ân phúc Adong và Evà đã bị tống khứ, mà Mẹ chỉ cho những ai được Mẹ chọn lựa vào lãnh giới của Mẹ, để Mẹ làm cho họ trở thành những vị thánh.

 

46.          Tất cả mọi kẻ giầu sang trong quần chúng, nếu sử dụng lời diễn tả về Thánh Linh của Thánh Bênađô, tất cả mọi thành phần giầu sang trong quần chúng sẽ thiết tha nhìn lên dung nhan của Mẹ qua mọi thời đại, nhất là vào lúc thế giới tiến đến ngày cùng tháng tận của nó. Tức là những vị thánh cao cả nhất, thành phần giầu sang nhất trong ân sủng và nhân đức sẽ là thành phần chuyên tâm nguyện cầu cùng Rất Thánh Trinh Nữ, biết nhìn lên Mẹ như một mô phạm tuyệt hảo để noi gương bắt chước và như là một vị phù trì quyền năng hỗ trợ họ.

 

47.          Tôi đã nói rằng điều này sẽ xẩy ra nhất là vào thời tận thế, mà thực sự chẳng còn bao lâu nữa, vì Thiên Chúa Toàn Năng cùng với Mẹ của Người đang làm nổi lên những vị đại thánh, thành phần sẽ trổi vượt về thánh đức, hơn hầu hết các vị thánh khác, như những cây hương bá Lebanon đối với những bụi cây thấp bé vậy. Điều này đã được tỏ cho một tâm hồn thánh đức biết, một tâm hồn có cuộc sống được tác giả M. de Renty ghi lại.

 

48.          Những linh hồn cao cả tràn đầy ân sủng và lòng nhiệt thành này sẽ được tuyển chọn để chống lại với các kẻ thù của Thiên Chúa, thành phần đang hoành hành phá hoại ở khắp mọi nơi. Những linh hồn ấy sẽ đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ. Được sáng soi bằng ánh sáng của Mẹ, được kiên cường bằng lương thực của Mẹ, được hướng dẫn bởi tinh thần của Mẹ, được dìu dắt bởi cánh tay của Mẹ, được nương náu dưới sự chở che của Mẹ, họ sẽ một tay chiến đấu và một tay xây dựng. Bằng một tay, họ sẽ chiến đấu, lật đổ và khống chế thành phần lạc giáo cùng những thứ lạc đạo của họ, những kẻ ly giáo cùng những thứ ly khai của họ, những kẻ ngẫu tượng cùng những thứ ngẫu tượng của họ, những kẻ tội lỗi cùng những gian ác của họ. Với tay kia, họ sẽ dựng xây đền thờ Solomon chân thực và thành đô huyền nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Trinh Nữ, vị được các Giáo Phụ Giáo Hội gọi là Đền Thờ Solomon và là Thành Đô của Thiên Chúa. Bằng lời nói và gương mẫu, họ sẽ lôi kéo tất cả mọi người đến với lòng thành thực tôn sùng Mẹ, và cho dù điều này có tạo nên đa thù lắm địch chăng nữa, nó cũng sẽ mang lại nhiều chiến thắng và vinh quang cho một mình Thiên Chúa. Đó là những gì Thiên Chúa đã tỏ ra cho Thánh Vincent Ferrer biết, vị tông đồ nổi bật vào thời của ngài, như ngài đã trọn vẹn cho thấy ở một trong những tác phẩm của ngài.

 

Điều này dường như đã được Thánh Linh báo trước trong Thánh Vịnh 58: “Chúa sẽ cai trị trong nhà Giacóp cho tới tận cùng trái đất. Họ sẽ được hoán cải về đêm, họ sẽ cảm thấy đói như đám khuyển, và họ sẽ rảo quanh thành phố để kiếm ăn”. Thành phố mà con người sẽ lang thang vào ngày cùng tháng tận của thế giới này để tìm cách hoán cải và làm giảm bớt cơn đói công lý đây, đó là Rất Thánh Trinh Nữ, vị được Thánh Linh gọi là Thành Đô Thiên Chúa.

 

(còn tiếp vào các Ngày Thánh Mẫu Thứ Bảy hằng tuần)

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ