GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BẢY 11/3/2006

 TUẦN I MÙA CHAY

 

?  ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN” (tiếp)

?  Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Các Huấn Dụ Sống Mùa Chay (tiếp)

?  GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI CẢM NHẬN  VỀ MẸ MARIA (tiếp)

 

 

?  ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN” (tiếp ngày 7 Thứ Ba, 8 Thứ Tư, 9 Thứ Năm, 10 Thứ Sáu)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Viết để Tưởng Kính đầy năm khổ nạn cuối đời của

Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II

 

Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21)

(TIẾP)

 

Chưa hết, vị Giáo Hoàng mà chính bản thân ngài cũng là một bệnh nhân trường kỳ đã giành riêng một Ngày Mừng Đại Năm Thánh 2000 cho thành phần bệnh nhân là ngày Lễ Mẹ Lộ Đức 11/2/2000, và đã xức dầu cho riêng 200 bệnh nhân tiêu biểu rồi gặp gỡ chung họ với những lời huấn dụ theo chiều hướng của bức Tông Thư “Khổ Đau Cứu Độ”, như sau:

“Đau đớn và bệnh nạn là số phận nơi mầu nhiệm của con người trên trái đất này. Dĩ nhiên con người vẫn có quyền chiến đấu với bệnh nạn, vì sức khỏe là một tặng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, người ta cũng cần phải làm sao có thể nhận ra dự án của Thiên Chúa mỗi khi đau khổ đến gõ cửa nhà của chúng ta nữa. ‘Chìa khóa’ để có thể nhận thức được điều này ở nơi Thập Giá của Chúa Kitô. Lời nhập thể đã ôm lấy nỗi yếu đuối của chúng ta, mang lấy nó trong mầu nhiệm Thập Giá. Từ bấy giờ, tất cả mọi khổ đau có một ý nghĩa khả dĩ làm cho nó có một giá trị đáng kể. Từ ngày của Cuộc Khổ Nạn, qua 2000 năm rồi, Thập Giá vẫn chiếu sáng như là một cuộc bộc lộ tối hậu mối tình của Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Những ai có thể chấp nhận nó trong đời sống của mình đều cảm thấy rằng, theo ánh sáng đức tin, đau đớn đã trở thành nguồn hy vọng và cứu độ” (đoạn 3.1).

“Quí bệnh nhân thân mến, đây là giây phút tuyệt đỉnh của Cuộc Mừng Kỷ Niệm của anh chị em! Bằng việc bước qua ngưỡng Cửa Thánh, anh chị em hợp với tất cả những ai trên khắp thế giới đã bước qua đó và những ai sẽ bước qua đó trong Năm Mừng Kỷ Niệm này. Chớ gì việc bước qua Cửa Thánh là dấu hiệu của việc anh chị em thiêng liêng tiến vào mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc tử giá và phục sinh, Đấng vì yêu đã mang lấy ‘những sầu thương và gánh chịu những buồn phiền của chúng ta’ (Is 53:4)” (đoạn 4.2).

Sau nữa, về khía cạnh sự sống và vinh quang liên quan tới Mầu Nhiệm Cứu Chuộc nơi cuộc đời làm Giáo Hoàng của ngài, không phải hay sao, trước hết, nhờ cuộc ám sát này, hay nhờ ngài đã đáp lại lời yêu cầu của Trời Cao, trong việc cùng với hàng giáo phẩm trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngày 25/3/1984, mà sau khi nhà lãnh đạo cuối cùng của Khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết xuất hiện đúng 1 năm sau đó, năm 1985, cũng vào Tháng 3, Nước Nga đã từ bỏ chế độ và chủ nghĩa Cộng Sản vào chính ngày Lễ Giáng Sinh 25/12/1991.

Thế rồi, nếu ngài đã bị bệnh vào ngay trước Mùa Chay, nhất là trong suốt Mùa Chay 2005, đến nỗi, vào Chúa Nhật Phục Sinh, ngài bắt đầu bị câm nín, không thể nói được nữa, (ngay khi ngài muốn lên tiếng trước máy vi âm để ban huấn từ Chúa Nhật Phục Sinh), một thời điểm Mùa Chay mà cách đó đúng 26 năm, ngài đã ban hành bức Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, thì ngài đã được về với Đấng tuyên phán: “Thày là sự sống lại và là sự sống” (Jn 11:25) ngay trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh, áp Chúa Nhật Lễ Tình Thương.

Và Thánh Lễ An Táng của ngài, được diễn ra vào Thứ Sáu 8/4/2005, có thể nói, vinh quang của Giáo Hội Công Giáo đã lên đến tột đỉnh trong lịch sử của riêng Giáo Hội và của chung thế giới. Thi thể của vị Giáo Hoàng, như hạt múa miến bị mục nát đi mới sinh nhiều hoa trái này (x Jn 12:24), chẳng những đã được dân chúng chờ chực cả nửa ngày trời hay hơn để được kính viếng trong vòng nửa phút trong Đền Thờ Thánh Phêrô, mà cho tới nay, cả 9 tháng sau, Quảng Trường Thánh Phêrô, vẫn còn những hàng người nhẫn nại hằng ngày chờ chực lâu giờ, không phải để viếng Đền Thờ Thánh Phêrô như đã xẩy ra trong Đại Năm Thánh 2000, mà là để được kính viếng thi thể của vị Giáo Hoàng đã được châm chước thời hạn 5 năm trong tiến trình phong chân phước cho ngài, vị Giáo Hoàng “totus tuus” sống động và hiện thực Mầu Nhiệm Cứu Chuộc như Cốt Lõi của một Giáo Triều ở vào cuối thiên niên thứ hai và đầu thiên niên thứ ba Kitô Giáo.

Vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trong bài chia sẻ ngày 19/4 tại Nguyện Đường Sistine với Hồng Y Đoàn ngay sau ngày được bầu làm Giáo Hoàng, cũng như trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XXIX Thường Niên ngày 16/10/2005, kỷ niệm 27 năm Đức Gioan Phaolô II được bầu làm Giáo Hoàng, đã nhận định về sự kiện “chết là vinh thắng” của vị tiền nhiệm yêu dấu khả kính của mình, như sau:

“Vào lúc này đây, ký ức của tôi nhớ lại cảm nghiệm không thể nào quên được mà tất cả chúng ta đã trải qua với cái chết và lễ an táng cho Đức Gioan Phaolô II tiếc thương. Quanh thi thể của ngài, nằm trên mặt đất trống, các vị lãnh đạo chư quốc đã qui tụ lại, cùng với dân chúng thuộc tất cả mọi giai cấp xã hội, nhất là giới trẻ, để tỏ lòng mãi mãi gắn bó quí mến và ca ngợi ngài. Toàn thể thế giới đã tin tưởng nhìn vào ngài. Đối với nhiều người thì việc tham dự đông đảo này, một cuộc tham dự được các phương tiện truyền thông phóng đại đến cả những nơi xa xôi của hành tinh này, như thể là việc nhân loại văn minh tân tiến, một nhân loại bị hoang mang sợ hãi và bất ổn, đang tự hỏi mình về tương lai, muốn đồng thanh yêu cầu vị Giáo Hoàng này giúp đỡ” (với Hồng Y Đoàn).

“Trước ngôi mộ của ngài trong hầm mộ Vatican, nhiều tín hữu vẫn không ngừng tiếp tục tuốn đến kính viếng, và điều này cho thấy một dấu hiệu hùng hồn là Đức Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta đã đi vào lòng người như thế nào, trước hết, là vì chứng từ yêu thương của ngài và việc ngài sẵn sàng chấp nhận khổ đau. Nơi ngài, chúng ta có thể ca tụng sức mạnh của đức tin và lời nguyện cầu của ngài, và cách ngài hoàn toàn phó thác bản thân ngài cho Đức Maria Rất Thánh, vị luôn đồng hành với ngài và bảo vệ chở che ngài, nhất là trong những lúc khốn khó nhất và bi thảm nhất cuộc đời của ngài” (Huấn Từ Truyền Tin).

Trong bài diễn từ tất niên ngỏ cùng Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005, vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nhận định về vị tiền nhiệm Gioan Phaolô II của mình theo chiều kích Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là mầu nhiệm đã được thể hiện qua chính cuộc đời và cảm nhận của vị tiền nhiệm của mình như sau:

“Không có một vị Giáo Hoàng nào như ngài đã để lại cho chúng ta một số lượng văn bản như ngài đã lưu lại cho chúng ta; không có một vị Giáo Hoàng nào như ngài đã có thể viếng thăm toàn thế giới và trực tiếp nói với dân chúng ở tất cả mọi châu lục.

“Thế mà, cuối cùng, số phận của ngài là một cuộc hành trình đau thương và câm nín. Chúng ta không thể nào quên được những hình ảnh Chúa Nhật Lễ Lá, lúc mà, cầm trong tay cành lá cây dầu và cảm thấy đớn đau, ngài đã tiến đến cửa sổ để Ban Phép Lành của Chúa như chính bản thân ngài sắp sửa bước tới cây Thập Tự Giá.

“Sau đó là cảnh ở trong Nguyện Đường Riêng của ngài, lúc mà, cầm Thánh Giá trong tay, ngài tham dự Đường Thánh Giá bấy giờ đang diễn tiến ở Hí Trường Colosseum, nơi ngài rất hay thường vác Thập Giá dẫn đầu đoàn người diễn hành theo sau.

“Sau hết là Phép Lành âm thầm của ngài hôm Chúa Nhật Phục Sinh, nơi phép lành âm thầm này chúng ta đã thấy niềm hứa hẹn của cuộc Phục Sinh, của sự sống đời đời, rạng ngời tỏa sáng qua tất cả mọi nỗi đớn đau của ngài. Bằng cả lời nói và hành động, Đức Thánh Cha đã cống hiến cho chúng ta rất nhiều điều cao cả; bài học này cũng không kém phần quan trọng được ngài ban cho chúng ta từ ngai tòa khổ đau và câm nín.

“Trong cuốn sách cuối cùng của ngài là “Hồi Niệm và Căn Tính” (Weidenfeld and Nicolson, 2005), ngài đã để lại cho chúng ta một dẫn giải về khổ đau, không phải như một thứ lý thuyết về thần học hay triết lý mà là một hoa trái chín mùi qua cuộc hành trình khổ đau của bản thân ngài, một cuộc hành trình khổ đau ngài đã quyết chịu bằng niềm tin tưởng vào Vị Chúa tử giá. Lời dẫn giải này, một việc dẫn giải được ngài khai triển bởi đức tin và là việc dẫn giải mang lại ý nghĩa cho khổ đau của ngài, một khổ đau được ngài chấp nhận trong mối hiệp thông với nỗi khổ đau của Chúa, là việc dẫn giải đã được vang lên qua thái độ âm thầm chịu đựng của ngài, khi ngài biến việc chịu đựng này thành một sứ điệp quan trọng.

“Cả ở phần mở đầu và lập lại một lần nữa ở cuối cuốn sách được đề cập tới trên đây, vị Giáo Hoàng này đã cho thấy rằng ngài cảm thấy rất thấm thía trước cảnh tượng của quyền lực sự dữ, một quyền lực sự dữ chúng ta đã trải qua một cách thê thảm trong thế kỷ vừa chấm dứt. Ngài nói trong cuốn sách này rằng: ‘Sự dữ này… không phải là một thứ sự dữ có tầm mức nhỏ hẹp… Nó là một sự dữ có những tầm vóc khổng lồ, một sự dữ được tổ chức đàng hoàng để thực hiện hoạt động gian ác của nó, một sự dữ trở thành một cơ cấu’ (trang 189).

“’Phải chăng sự dữ là những gì bất khả thắng? Phải chăng nó là một quyền năng tối hậu của lịch sử?’ Vì kinh nghiệm về sự dữ, mà đối với Giáo Hoàng Wojtyla, vấn đề cứu chuộc đã trở thành thiết yếu và là vấn đề trọng yếu trong đời sống của ngài và được suy tưởng như là một Kitô hữu. Có một giới hạn nào đó chống lại những gì bị quyền lực sự dữ này hủy hoại hay chăng? ‘Có chứ’, vị Giáo Hoàng này đã trả lời trong cuốn sách ấy của ngài cũng như trong Thông Điệp về việc cứu chuộc của ngài.

“Quyền năng hạn chế sự dữ này là Lòng Thương Xót Chúa. Bạo lực, hình thức thể hiện của sự dữ, bị Lòng Thương Xót Chúa chống lại qua giòng lịch sử. Chúng ta có thể nói theo Sách Khải Huyền là Con Chiên mạnh hơn con rồng.

“Ở cuối cuốn sách, bằng việc ôn lại quá khứ về cuộc tấn công vào ngày 13/5/1981, và dựa vào căn bản của kinh nghiệm nơi cuộc hành trình của ngài với Thiên Chúa cũng như với thế giới, Đức Gioan Phaolô II còn giải đáp vấn đề này một cách sâu xa hơn nữa.

“Cái hạn chế quyền lực sự dữ, cái quyền lực chế ngự nó, theo cách ngài nói, đó là nỗi khổ đau của Thiên Chúa, nỗi khổ đau của Người Con Thiên Chúa trên Thập Tự Giá: ‘Nỗi khổ đau của Vị Thiên Chúa Tử Giá không phải chỉ là một hình thức khổ đau duy nhất trong số những hình thức khổ đau khác…. Bằng việc hy sinh bản thân mình vì tất cả chúng ta, Chúa Kitô đã cống hiến cho đau khổ một ý nghĩa mới, mở ra một chiều kích mới, một tầm vóc mới, đó là tầm vóc yêu thương…. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô trên Thập Giá là những gì cống hiến cho đau khổ một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ, biến đổi nó tự bản chất… Chính cái đau khổ này thiêu đốt và làm tiêu hao đi sự dữ, bằng ngọn lửa yêu thương…. Tất cả khổ đau của loài người, tất cả mọi đớn đau, tất cả mọi yếu đuối bạc nhược đều chất chứa nơi mình một hứa hẹn cứu độ; …. Sự dữ hiện diện trên thế giới một phần là để khơi động lên lòng yêu thương trong chúng ta, một tình yêu trao hiến bản thân mình trong việc phục vụ cách quảng đại và vô tư những ai bị khổ đau dằn vặt… Chúa Kitô đã cứu thế giới: ‘Chúng ta đã được chữa lành nhờ những vết thương của Người’ (Is 53:5) (trang 189 và sau đó).

“Tất cả những điều này không phải chỉ là một thứ thuần kiến thức về thần học, mà là một bày tỏ của một đức tin sống động và trưởng thành qua đau khổ. Chắc chắn là chúng ta cần phải làm mọi sự có thể để giảm bớt khổ đau và ngăn ngừa tình trạng bất công là những gì gây cho thành phần vô tội khổ đau. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải làm mọi sự trong tầm tay của mình để giúp con người có thể khám phá ra được cái ý nghĩa của khổ đau, nhờ đó, họ biết chấp nhận khổ đau của họ và liên kết nó với khổ đau của Chúa Kitô.

“Có thế, nó mới hòa nhập với tình yêu thương cứu chuộc và nhờ vậy mới trở thành một quyền năng chống lại sự dữ trên thế giới này.

“Việc đáp ứng khắp thế giới trước cái chết của vị Giáo Hoàng này là việc nhiệt liệt bày tỏ lòng tri ân về sự kiện là ngài đã hoàn toàn hiến thân cho Thiên Chúa vì thế giới, khi thi hành thừa tác vụ của ngài; một lời tạ ơn cho sự kiện là trong một thế giới đầy hận thù và bạo lực này, ngài đã dạy một cách mới mẻ tình yêu thương và khổ đau trong việc phục vụ tha nhân; có thể nói ngài đã tỏ cho chúng ta thấy trong xác thịt Đấng Cứu Chuộc, việc cứu chuộc, và đã cống hiến cho chúng ta niềm tin tưởng rằng, thật ra sự dữ không phải là phán quyết tối hậu trên thế gian này”.

Tóm lại, đối với Đức Gioan Phaolô II, tác giả cuốn sách triết học nhân bản “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” năm 1994, và là Vị Giáo Hoàng của “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, nhờ “Người Mẹ của Đấng Cứu Chuộc”, đã nỗ lực mang “Vui Mừng và Hy Vọng” đến cho thành phần Thụ Nhân Cứu Chuộc là nhân loại tân tiến cuối thiên kỷ thứ 2 và đầu thiên kỷ thứ 3 Kitô Giáo, thì ngay cuối đường hầm sự dữ le lói ánh sáng sự sống, ngay trong tận cùng khổ đau nung nấu mầm hy vọng, hay nói ngược lại, khổ đau là kích tố hy vọng, sự dữ là cuộc vượt qua để vào sự sống, và sự dữ cùng khổ đau hướng về việc cứu độ và niềm vui, như chính ngài đã xác tín, khẳng định và loan truyền như thế trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” cuối đời của mình, những lời sau hết (ở trang 168 ấn bản Anh Ngữ) được ngài viết ra chẳng những để hoàn toàn kết thúc một tác phẩm triết học luân lý (đã bắt đầu được thai nghén từ năm 1993) của mình, mà tự chúng còn chứng thực cảm nhận “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lõi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II”:

“Tất cả mọi khổ đau của loài người, tất cả mọi nhược bại yếu hèn, đều chất chứa nơi chúng niềm hứa hẹn cứu độ, niềm hứa hẹn hoan lạc: ‘Tôi giờ đây hân hoan nơi những khổ đau của mình vì anh chị em’, Thánh Phaolô đã viết như thế (Col 1:24). Điều này áp dụng cho tất cả mọi hình thức khổ đau là những gì xuất phát từ sự dữ. Nó áp dụng cho cái sự dữ cả thể về xã hội lẫn chính trị đang xâu xé và hành hạ thế giới ngày nay: sự dữ chiến tranh, sự dữ đàn áp hành khổ cá nhân con người cùng các dân tộc, sự dữ của tình trạng bất công xã hội, của tình trạng phẩm giá của con người bị chà đạp, của tình trạng kỳ thị về chủng tộc và tôn giáo, sự dữ bạo động, khủng bố, thi đua võ trang – tất cả mọi sự dữ này, đang hiện diện trên thế giới đây, một phần, là để khơi động tình yêu của chúng ta, khơi động việc chúng ta hiến mình một cách quảng đại và vô vị lợi trong việc phục vụ những ai đang bị khổ đau day dứt. Nơi tình yêu xuất phát từ trái tim của Chúa Kitô, chúng ta thấy được niềm hy vọng của thế giới. Chúa Kitô đã cứu chuộc thế giới: ‘Chúng ta đã được chữa lành bởi các thương tích của Người’ (Is 53:5)”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

TOP

 

 ?  Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Các Huấn Dụ Sống Mùa Chay

 

 .-        (tiếp ngày 9 Thứ Năm, 10 Thứ Sáu)

 

9 Thứ    Mùa Chay là một mùa thuận lợi cho việc cẩn thận cải thiện đời sống trong suy tư, nguyện cầu và thống hối.

 

(Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật I Mùa Chay 5/3/2006)

 

Mùa Chay…, một mùa phụng vụ phấn khích Kitô hữu hãy dấn thân cho cuộc hành trình sửa soạn cho Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm nhắc nhở chúng ta hôm nay rằng, sau khi lãnh nhận phép rửa ở Sống Dược Đăng, Chúa Giêsu - được Thánh Thần ở nơi Người tác động, tỏ mình ra cho thấy Người là Đức Kitô – đã vào vùng hoang địa xứ Giuđêa 40 đêm ngày là nơi Người chống lại các chước cám dỗ của quỉ ma (x Mk 1:12-13). Theo gương vị sư phụ và là Chúa của mình, Kitô hữu cũng tiến vào một cách thiêng liêng vùng hoang địa Mùa Chay để cùng với Người đương đầu với “cuộc chiến chống lại thần dữ”.

 

Hình ảnh về hoang địa là mỹ từ rất sống động cho thân phận của con người. Sách Xuất Hành đã kể lại kinh nghiệm của dân Yến Duyên là, sau khi ra khỏi Ai Cập, đã đi lang thang trong sa mạc Sinai 40 năm trước khi tiến vào Đất Hứa.

 

Trong cuộc hành trình dài này, người Do Thái cảm thấy tất cả cái mãnh lực và dai dẳng của tên cám dỗ muốn dẫn họ tới chỗ mất đi niềm tin tưởng và quay trở lại; thế nhưng, cũng nhờ việc môi giới của Moisen, họ đã biết lắng nghe tiếng Chúa Đấng kêu gọi họ trở nên dân thánh của Ngài.

 

Suy niệm đoạn Thánh Linh này, chúng ta hiểu rằng để hoàn trọn cuộc sống của chúng ta trong tự do, cần phải thắng vượt cuộc thử thách là chước cám dỗ vốn bao hàm nơi quyền tự do của họ. Chỉ khi nào được thoát khỏi sai lầm và tội lỗi con người mới có thể, nhờ đức tin tuân phục hướng họ về chân lý, tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của việc họ hiện hữu và mới có bình an, yêu thương và hoan lạc.

 

Chính vì lý do này mà Mùa Chay là một mùa thuận lợi cho việc cẩn thận cải thiện đời sống trong suy tư, nguyện cầu và thống hối. Tuần phòng, theo truyền thống, sẽ được bắt đầu từ chiều hôm nay cho đến Thứ Bảy ở Tông Dinh này, sẽ giúp cho tôi cũng như cho những người hợp tác với tôi trong Giáo Triều Rôma tiến vào bầu khí đặc biệt của Mùa Chay này một cách ý thức hơn nữa.

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, Tổng Hợp và Tuyển Dịch

   

TOP

 

? GIÁO HOÀNG BIỂN ĐỨC XVI CẢM NHẬN  VỀ MẸ MARIA

 

(Tiếp ngày 4 Thứ Bảy)

 

Maria: Cửa Ngõ Thiên Chúa Vào Trần Gian

 

(Bài Giảng Giờ Kinh Phụng Vụ Tối Áp Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng 26/11/2005)

 

“Chúng ta phải tự hỏi mình ‘việc Chúa đến’ có nghĩa là gì? Theo Hy ngữ có nghĩa là ‘parousia’, theo La ngữ là ‘adventus’, là ‘vọng’, là ‘đến’. ‘Việc đến’ này là thế nào? Nó có liên hệ với chúng ta hay chăng?

 

“Vậy để hiểu được ý nghĩa của lời này, của lời Thánh Tông Đồ nguyện cầu cho cộng đồng này và các cộng đồng trong mọi thời đại – cả cho chúng ta nữa – chúng ta cần phải nhìn đến một con người đã làm cho việc đến của Chúa được hiện thực một cách đặc biệt, đó là Trinh Nữ Maria.

 

“Mẹ Maria thuộc về thành phần dân chúng Yến Duyên, trong thời điểm Chúa Giêsu, đang hết lòng mong đợi Đấng Cứu Thế tới. Và căn cứ vào những lời lẽ và tác hành được thuật lại trong Phúc Âm, chúng ta có thể thấy được cách thức Mẹ thực sự đã sống thấm nhuần các lời tiên tri; Mẹ hoàn toàn đợi trông Chúa tới.

 

“Tuy nhiên, Mẹ đã không thể nào ngờ được việc đến này diễn ra ra sao. Có lẽ là Mẹ đã mong đợi một việc đến trong vinh quang. Lúc mà Tổng Thần Gabiên vào nhà của Mẹ và nói cho Mẹ biết rằng Chúa, Đấng Cứu Tinh, muốn mặc lấy xác thịt trong lòng Mẹ, muốn thực hiện việc Ngài đến qua Mẹ, chắc chắn đã là tất cả những gì làm cho Mẹ lại càng bàng hoàng ngỡ ngàng.

 

“Chúng ta có thể tưởng tượng ra nỗi e dè của vị Trinh Nữ này. Mẹ Maria, bằng một tác động mãnh liệt của đức tin và lòng tuân phục, đã thưa ‘xin vâng’: ‘Tôi là tôi tớ của Chúa’. Nhờ đó, Mẹ đã trở thành ‘nơi cư trú’ của Chúa, là ‘đền thờ’ thực sự trên thế giới và là ‘cửa ngõ’ Chúa tiến vào thế gian”. 

 

 

Maria: “Mẹ của Giáo Hội”

 

(Bài Giảng Kỷ Niệm 40 Năm Bế Mạc Công Đồng Chung Vaticanô II 8/12/2005)

 

“Tôi không thể nào quên được lúc mà khi nghe thấy những lời của ngài: ‘Mariam Sanctissimam declaramus Matrem Ecclesiae’ – ‘Chúng tôi tuyên bố Maria là Mẹ Rất Thánh của Giáo Hội’, thì các Vị Nghị Phụ liền tự động đứng lên để tỏ lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của chúng ta, Mẹ của Giáo Hội, một cử chỉ đứng lên vỗ tay hoan nghênh.

 

“Thật vậy, bằng tước hiệu này, vị Giáo Hoàng ấy đã tóm tắt giáo huấn Thánh Mẫu của Công Đồng và đã cung cấp cái mấu chốt để có thể hiểu được công đồng. Mẹ Maria chẳng những có liên hệ đặc thù với Chúa Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng, là người, đã muốn trở nên Con của Mẹ. Vì Mẹ hoàn toàn được liên kết với Chúa Kitô mà Mẹ cũng hoàn toàn thuộc về chúng ta. Phải, chúng ta có thể nói rằng Mẹ Maria gần gũi với chúng ta hơn bất cứ một con người nào khác, vì Chúa Kitô đã trở nên con người cho tất cả mọi con người nam nữ, và toàn hữu thể của Người là ‘hữu thể cho chúng ta trên đời này’.

 

“Các Vị Giáo Phụ đã nói rằng Chúa Kitô là Đầu bất khả phân ly với Thân Thể của Người là Giáo Hội, có thể nói cùng với Giáo Hội làm thành một chủ thể sống động duy nhất. Mẹ của Đầu cũng là Mẹ của toàn Giáo Hội; có thể nói bản thân Mẹ hoàn toàn trống rỗng; Mẹ đã trọn vẹn hiến mình cho Chúa Kitô và cùng với Người hiến mình như một tặng vật cho tất cả mọi người chúng ta. Thật vậy, con người càng hiến mình thì càng là mình.

 

“Công Đồng này đã có ý nói với chúng ta là: Mẹ Maria được đan kết với đại mầu nhiệm Hội Thánh, đến nỗi Mẹ và Giáo Hội bất khả phân ly, như Mẹ và Chúa Kitô bất khả phân ly vậy. Mẹ Maria phản ảnh Giáo Hội, báo trước Giáo Hội nơi bản thân Mẹ, và trong tất cả mọi cuộc biến loạn ảnh hưởng tới một Giáo Hội chiến đấu khổ đau thì Mẹ bao giờ cũng vẫn là Ngôi Sao cứu độ. Nơi Mẹ chất chứa một tâm điểm đích thực cho chúng ta tin tưởng, dù những thứ ngoại vi của cái tâm điểm này rất thường là những gì gây tác dụng trên linh hồn của chúng ta…..

 

“Tuy nhiên, chiều kích “Phêrô” của Giáo Hội lại được bao gồm trong chiều kích “Thánh Mẫu” ấy. Nơi Mẹ Maria, Vị Vô Nhiễm Tội, chúng ta thấy được yếu tính của một Giáo Hội không bị méo mó lệch lạc. Chính chúng ta phải học nơi Mẹ để trở nên ‘hồn sống của giáo hội’, như các Vị Giáo Phụ đã nói, nhờ đó, cả chúng ta nữa cũng có thể, theo lời Thánh Phaolô, tỏ mình ‘một cách tinh tuyền’ trước nhan Chúa, như Chúa muốn chúng ta như thế ngay từ thuở ban đầu (x Col 1:21; Eph 1:4).

 

“Thế nhưng, giờ đây chúng ta cần phải tự hỏi mình rằng: ‘Maria, Vị Vô Nhiễm Tội’ đây nghĩa là gì? Phải chăng tước hiệu này có một cái gì đó muốn nói cho chúng ta? Hôm nay, phụng vụ chiếu tỏ nội dung của những lời này cho chúng ta nơi hai hình ảnh lớn lao.

 

“Trước hết là trình thuật tuyệt vời về biến cố truyền tin cho Mẹ Maria là Vị Trinh Nữ Nazarét biết đến việc Đấng Thiên sai tới. Lời chào của Vị Thiên Thần được đan kết với những chi tiết của Cựu Ước, nhất là của Tiên Tri Zephaniah. Tiên tri này cho thấy rằng Mẹ Maria, người thôn nữ tầm thường xuất thân từ một giòng dõi tư tế và mang nơi mình gia sản tư tế cao cả của dân Yến Duyên, là ‘truyền nhân thánh hảo’ của dân Yến Duyên, thành phần được các tiên tri nói tới trong tất cả mọi giai đoạn thử thách và tăm tối.

 

“Nơi Mẹ hiện diện một Sion đích thực là chốn cư ngụ tinh tuyền, sống động của Thiên Chúa. Chúa cư ngụ nơi Mẹ, Ngài tìm thấy nơi Mẹ chốn nghỉ ngơi của Ngài. Mẹ là gia cư sống động của Thiên Chúa, Đấng không cư trú ở các dinh thự bằng đá nhưng ở trong lòng trí của con người sống động. Mẹ là chồi nẩy lên gốc Đavít trong một đêm đông tăm tối của lịch sử. Những lời của Thánh Vịnh đã được nên trọn nơi Mẹ: ‘Mặt đất đã sản sinh ra hoa trái của nó’ (Ps 67:7). 

 

“Mẹ là cái chồi từ đó mọc lên cây cứu chuộc và thành phần được cứu chuộc. Thiên Chúa đã không thất bại, như thể trước đây đã xẩy ra vào lúc mở màn lịch sử với Adong và Evà, hay như trong giai đoạn lưu đầy ở Babylon, và như được tái diễn vào thời của Mẹ Maria, lúc mà dân Yến Duyên đã trở thành một dân chẳng có giá gì ở trong một vùng bị chiếm cứ, với rất ít dấu hiệu cho thấy thánh đức của dân này.

 

“Thiên Chúa đã không thất bại. Trong cảnh hèn mạt của ngôi nhà ở Nazarét có một con người Yến Duyên thánh hảo, một truyền nhân tinh tuyền. Thiên Chúa đã cứu độ và đang cứu độ dân của Ngài. Từ một thân cây đổ xuống, lịch sử của Yến Duyên đã lại chiếu ngời, trở thành một quyền lực sống động hướng dẫn và thấm nhập thế giới. Mẹ Maria là nhân vật Yến Duyên thánh hảo: Mẹ thưa ‘vâng’ cùng Chúa, Mẹ hoàn toàn phó mình cho Ngài sử dụng, nhờ đó trở thành đền thờ sống động của Thiên Chúa……

 

“Một người càng gần Thiên Chúa họ càng gần với con người. Chúng ta thấy điều này nơi Mẹ Maria. Sự kiện Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa là lý do tại sao Mẹ rất gần gũi với con người. Vì thế mà Mẹ có thể là Mẹ của mọi niềm ủi an và mọi sự trợ giúp, một Người Mẹ mà bất cứ ai cũng có thể nói đến bất cứ loại nhu cầu nào về yếu đuối và tội lỗi, vì Mẹ hiểu biết mọi sự và, đối với mọi người, Mẹ là thứ quyền năng cởi mở của sự thiện hảo sáng tạo.

 

“Nơi Mẹ, Thiên Chúa đã in ấn hình ảnh của Ngài, hình ảnh của Đấng theo con chiên lạc của mình cho tới tận các đồi núi và giữa các bụi gai tội lỗi trên thế giới này, để mình bị xâu xé bởi mạo gai những tội lỗi ấy hầu vác chiên trên vai mang về nhà.

 

“Là một người mẹ xót thương, Mẹ Maria là hình ảnh tiền thân và là bức chân dung vĩnh viễn của Người Con. Như thế, chúng ta thấy rằng hình ảnh của Người Trinh Nữ Sầu Thương, của Người Mẹ, vị chia sẻ khổ đau của mình và tình yêu của mình, cũng là hình ảnh thực sự của Mẹ Vô Nhiễm. Trái tim của Mẹ đã được nới rộng bằng việc Mẹ cùng với Thiên Chúa hiện hữu và cảm nhận. Nơi Nẹ, sự thiện hảo của Thiên Chúa trở nên rất gần gũi với chúng ta.

 

“Vậy Mẹ Maria đứng trước chúng ta như một dấu hiệu của niềm ủi an, phấn chấn và hy vọng. Mẹ hướng về chúng ta mà nói: “Hãy can đảm thách thức Thiên Chúa! Hãy thử làm như thế! Đừng sợ Ngài! Hãy can đảm liều mình sống đức tin! Hãy can đảm liều mình sống thiện hảo!  Hãy can đảm liều mình sống bằng một con tim tinh tuyền! Hãy dấn thân cho Thiên Chúa thì các con sẽ thấy rằng chính nhờ làm thế mà cuộc sống của các con mới trở nên nẩy nở và nhẹ nhàng, không tẻ nhạt mà tràn đầy vô vàn những hào hứng phấn khởi, vì sự thiện hảo vô cùng của Thiên Chúa không bao giờ hao mòn!”

 

“Vào ngày lễ này đây, chúng ta hãy cảm tạ Chúa về dấu hiệu cả thể của sự thiện hảo Người đã ban cho chúng ta nơi Mẹ Maria, Mẹ của Người và Mẹ của Giáo Hội. Chúng ta hãy cầu xin Người hãy đặt Mẹ Maria trên con đường chúng ta đi như một thứ ánh sáng cũng giúp chúng ta trở thành ánh sáng và chiếu ánh sáng này vào đêm tối lịch sử. Amen”.

 

(còn tiếp vào Thứ Bảy tuần tới)

 

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và tuyển dịch

 

 

     

GIÁO HỘI HIỆN THẾ