GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ NĂM 6/4/2006

 TUẦN V MÙA CHAY

 

?  Với quí vị thành viên Quốc Hội Âu Châu dịp Những Ngày Học Hỏi Về Âu Châu 30/3/2006

?  Các Vị Giám Mục Hoa Kỳ hoan ngênh Dự Án Tha Nợ Quốc Tế Cho 17 Quốc Gia Nghèo

?  THỜI ĐIỂM GIOAN PHAOLÔ II (tiếp)

 

 

?  Với quí vị thành viên Quốc Hội Âu Châu dịp Những Ngày Học Hỏi Về Âu Châu 30/3/2006

 

Trọng Kính Quí Vị Thành Viên Quốc Hội,

Quí Vị Tôn Nữ và Tôn Nam,

 

Tôi hân hạnh được tiếp đón quí vị nhân dịp Những Ngày Học Hỏi Về Âu Châu này, những ngày được Nhóm Quốc Hội của quí vị tổ chức. Các vị Giáo Hoàng Rôma bao giờ cũng đặc biệt chú trọng tới châu lục này; cuộc triều kiến hôm nay đây cũng cho thấy điều ấy, và nó diễn tiến trong một chuỗi dài những cuộc gặp gỡ giữa các vị tiền nhiệm của tôi với các phong trào chính trị theo tinh thần Kitô Giáọ Tôi xin cám ơn Ông Pottering Khả Kính về những lời lẽ ngỏ cùng tôi thay cho quí vị, và tôi xin gửi đến ông cùng toàn thể quí vị lời chào thân ái của tôị

 

Hiện nay, Âu Châu cần phải giải quyết những vấn đề phức tạp có tầm vóc rất quan trọng, chẳng hạn như việc tăng trưởng và phát triển tình trạng hội nhập Âu Châu, việc gia tăng vấn đề xác định chính xác về chính sách cận thân trong Khối Hiệp Nhất và việc tranh cãi về mẫu thức về xã hội của nó. Để đạt tới những mục đích này, nó cần phải được tác động, với một lòng trung thành sáng tạo, bởi di sản Kitô Giáo là những gì đã thực hiện việc đóng góp đặc biệt vào vấn đề hình thành căn tính của châu lục đâỵ Bằng việc trân quí các căn gốc Kitô Giáo của mình, Âu Châu mới có thể cống hiến một hướng đi an toàn cho những chọn lựa nơi thành phần công dân và dân chúng của mình, nó mới có thể củng cố nhận thức của nó liên quan tới vấn đề thuộc về một nền văn minh chung, và nó mới có thể nuôi dưỡng việc dấn thân của tất cả mọi người hầu giải quyết những thách đố trong hiện tại cho một tương lai tốt đẹp hơn. Bởi thế, tôi ca ngợi việc Nhóm của quí vị nhìn nhận di sản Kitô Giáo của Âu Châu, một di sản cống hiến những hướng dẫn giá trị về đạo lý trong việc tìm kiếm một mẫu thức về xã hội có thể thích đáng đáp ứng với những đòi hỏi của một nền kinh tế đã được toàn cầu hóa, cũng như với những đổi thay về nhân khẩu học, bảo đảm cho tình trạng tăng trưởng và công ăn việc làm, cho việc bảo vệ gia đình, cho tình trạng bình đẳng về cơ hội giáo dục đối với giới trẻ, và cho mối quan tâm đến người nghèọ

 

Ngoài ra, việc quí vị ủng hộ di sản Kitô Giáo còn có thể góp phần một cách đặc biệt đến vấn đề đánh bại một nền văn hóa hiện nay đang khá lan tràn ở Âu Châu, một thứ văn hóa đẩy việc biểu lộ các niềm xác tín về tôn giáo của mình vào lãnh vực riêng tư và chủ quan. Các chính sách được căn cứ vào thứ văn hóa này chẳng những bao gồm việc bác bỏ vai trò công cộng của Kitô Giáo; mà còn, tổng quát loại trừ đi tính cách dính dáng với truyền thông đạo giáo của Âu Châu, một truyền thống quá rõ ràng là, bất chấp những biến dạng về hệ phái của nó, đe dọa tới chính nền dân chủ là chế độ có quyền lực lệ thuộc vào các thứ giá trị được truyền thống này cổ võ (cf. Evangelium Vitae, 70). Nếu truyền thống này, chính ở nơi những gì được gọi là mối hiệp nhất đa âm của nó, chuyên chở những thứ giá trị là nền tảng cho sự thiện của xã hội, thì Khối Hiệp Nhất Âu Châu chỉ có thể thăng tiến khi liên kết với nó mà thôị Nếu chọn những gì ngược với nó hay loại bỏ nó đi, thay vì đối thoại với nó, thì đó là dấu hiệu còn non dại chưa trưởng thành, nếu khgông muốn nói thực sự là yếu kém. Về khía cạnh này, người ta cần phải nhìn nhận rằng đang có một tình trạng bất khoan nhượng trần thế tỏ ra thù địch với sự khoan nhượng cũng như với nhãn quan trần thế lành mạnh về quốc gia và xã hộị Bởi thế, tôi cảm thấy vui là bản hiệp ước hiến pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu phác họa mối liên hệ theo cơ cấu và liên tục với các cộng đồng tôn giáo, khi nhìn nhận căn tính của các cộng đồng này cùng với việc góp phần chuyên biệt của chúng. Nhất là tôi tin tưởng rằng việc áp dụng một cách hiệu nghiệm và xác đáng mối liên hệ này giờ đây sẽ được bắt đầu, với sự hợp tác của tất cả mọi phong trào chính trị bất kể chiều hướng đảng pháị Cũng không được quên rằng, khi các Giáo Hội hay các cộng đồng giáo hội can thiệp vào cuộc tranh cãi công khai, bày tỏ những cân nhắc hay nhắc nhở những nguyên tắc khác nhau, thì điều ấy không phải là những gì tạo nên một hình thức bất dung nhượng hay là một thứ pha mình, vì những cuộc can thiệp như thế chỉ có một mục đích duy nhất đó là soi động lương tâm, giúp cho lương tâm có thể tác hành một cách tự do và hữu trách, theo những đòi hỏi thực sự của công lý, ngay cả khi điều này có xung khắc với những trường hợp về quyền lực và tư lợi chăng nữạ

 

Riêng với Giáo Hội Công Giáo thì việc quan tâm chính yếu của những lần Giáo Hội can thiệp vào lãnh vực quần chúng là để bảo vệ và cổ võ phẩm vị của con người, và bởi thế Giáo Hội cố ý kéo chú ý tới những nguyên tắc bất khả thương thuyết. Trong số những nguyên tắc ấy là những nguyên tắc sau đây rõ ràng xuất hiện là:

 

·        Bảo vệ sự sống ở tất cả mọi giai đoạn của nó, từ giây phút nó mới được thụ thai cho tới khi nó tự nhiên qua đi;

 

·        Nhìn nhận và cổ võ cơ cấu tự nhiên của gia đình – như một liên kết giữa một người nam và một người nữ theo cơ cấu hôn nhân – và bảo về gia đình khỏi những nỗ lực làm cho nó tương đương theo pháp lý với những hình thức liên kết cấp tiến khác thực sự chỉ tác hại nó và làm cho nó trở thành bấp bênh, làm lu mờ đi tính chất riêng biệt của nó và vai trò xã hội bất khả thay thế của nó;

 

·        Bảo vệ quyền lợi của cha mẹ trong việc giáo dục con cái của họ.

 

Những nguyên tắc này không phải là những chân lý đức tin, cho dù chúng có được đức tin làm sáng tỏ hơn và củng cố hơn; chúng là những gì được ghi khắc nơi chính bản tính con người, do đó chúng là những gì chung đối với tất cả loài ngườị Hoạt động của Giáo Hội trong việc phát động chúng như thế không có tính cách tôn giáo theo tính chất, mà là được ngỏ cùng tất cả mọi dân nước, bất kể họ thuộc về tôn giáo nàọ Trái lại, hoạt động ấy lại càng cần thiết hơn nữa khi những nguyên tắc ấy bị chối bỏ hay hiểu lầm, vì điều này tạo nên những gì vi phạm tới sự thật về con người, một vết thương trầm trọng gây ra cho chính công lý.

 

Quí bạn thân mến, trong việc kêu gọi quí bạn hãy trở thành những chứng nhân khả tín và kiên định cho các chân lý căn bản này qua hoạt động chính trị của quí bạn, nhất là qua việc quí bạn sống một đời sống chân thực và kiên định, tôi xin Thiên Chúa tiếp tục nâng đỡ quí bạn và hoạt động của quí bạn, và để làm bảo chứng cho việc nguyện cầu này, tôi thân ái ban Phép Lành cho quí bạn cùng những ai đi theo quí bạn.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/march/documents/hf_ben-xvi_spe_20060330_eu-parliamentarians_en.html

 

 

TOP

 

 

 ?  Các Vị Giám Mục Hoa Kỳ hoan ngênh Dự Án Tha Nợ Quốc Tế Cho 17 Quốc Gia Nghèo

Đức Giám Mc Thomas Wenski, v giám mc Florida, Trưởng y Ban ca Hi Đồng Giám Mc Hoa K V Chính Sách Quc Tế, đã ph biến mt văn thư trên mng đin toán toàn cu ca hi đồng giám mc Hoa K hôm Th Sáu 31/3/2006, t ra hưởng ng quyết định ca Ngân Hàng Thế Gii trong vic chp nhn tha n cho 17 quc gia đầu tiên t ngày 1/7/2006.

“Bước quan trng này có nghĩa là các quc gia nghèo s không phi đợi trên mt năm để được tha n mt khi h hi đủ điu kin. Bước này s gim bout gánh nng trên mt s anh ch em yếu kém nht ca chúng ta trên thế gii”.

Quyết định này là quyết định hoàn toàn tha n 100% cho 17 quc gia nghèo thiếu tin ca International Monetary Fund, World Bank, và African Development Bank trong năm 2006.

V giám mc trưởng y ban này gi quyết định y là “mt áp dng c th li kêu Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gi thc hin ‘vic toàn cu hóa tình đoàn kết’. Tình trng nghèo kh đang kìm kp mt phn rt ln ca gia đình nhân loi chúng ta làm chúng ta cm thy kinh hoàng”.

Tuy nhiên, theo quyết định này thì các quc gia bn cùng nào thc hin vic bt buc ci cách v kinh tế và tiến đến ‘đim hoàn thành’ nơi chương trình gim n ca International Monetary Fund và World Bank s được tha n trong vòng 3 tháng.  Đây s là trường hp ca nước Malawi, được cho là đã tiến ti đim hoàn thành vào tháng 6 này để được tha n vào ngày 1/7, thay vì phi đợi ti tháng 7/2007.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/4/2006

 

TOP

 

 

?   THỜI ĐIỂM GIOAN PHAOLÔ II

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

(tiếp 5 Thứ Tư)

 

Tiếng Súng Lnh Bùng Nổ

 

Đúng thế, Qung Trường Thánh Phêrô, vào lúc 5 gi chiu ngày 13/5/1981, ngay trước bui triu kiến chung Th Tư hng tun, đã đột nhiên vang tiếng súng……, tht ra là my tiếng súng ch không phi mt, nhng tiếng súng vang lên ch cách chiếc giáo hoàng xa ca Đức Gioan Phaolô II có 20 b (hay 6 thước), khi ngài trên chiếc xe này đang chy chung quanh qung trường y theo thường l để chào tín hu đang qui t ch ngài by gi. Hu qu là viên đạn phát ra t nòng súng lc t động 9 ly đã xuyên vào thân th ca v Giáo Hoàng này, trúng bao t ca ngài, cùi tr bên cánh tay phi ca ngài và ngón tay tr bên trái ca ngài. Ngài đã được cp tc đưa vào bnh vin, và ch khi ti bnh vin ngài mi hoàn toàn bt tnh nhân s. Cuc gii phu cu mng ngài đã kéo dài 5 tiếng 20 phút, và thân th vào tui gn 61 ca ngài by gi đã b mt đi ti 60% lượng máu loang chy trong mình. Tuy nhiên, k t biến c b ám sát ht øy, sc khe ca con người vn yêu chung th thao này đã tr nên suy kém, cho ti ngày ngài qua đời 24 năm sau bi mt cơn kch bnh cui cùng, kết thúc cuc đời gn 85 tui đời ca ngài (18/5/1920-2/4/2005).

 

Thế ri, phn ph trương cun “Hi Nim và Căn Tính” ca mình (n bn Anh ng, Rioãoli, New York, 2005), chính Đức Gioan Phaolô II đã cho biết nhng gì xy ra sau đó, sau tiếng súng n và sau khi ngài được đưa vào bnh vin thế này: “Tôi đã không tnh dy cho đến ngày hôm sau, vào khong bui trưa” (trang 161). Cũng trong phn ph trương này, ( trang 163-164), ngài còn cho biết thêm v con người ra tay ám sát ngài như sau:

 

·         Vào khong Giáng Sinh năm 1983, tôi đã thăm k tn công tôi đang b nht trong tù. Chúng tôi nói chuyn lâu gi. Alì Agca, ai cũng đều biết, là mt tay sát th chuyên nghip. Tc là cuc tn công này không phi bi sáng kiến riêng tư ca anh ta, mà là t ý nghĩ ca mt người khác; mt người nào đó đã sai khiến anh ta thc hin điu này. Trong cuc nói chuyn ca chúng tôi, Alì Agca vn còn t ra ly làm ngc nhiên không hiu ti sao mt cuc c tình ám sát như vy mà li có th bt thành cho được. Anh ta đã rt ư là thn trng xếp đặt mi s, chú ý ti tng chi tiết nh mt. Thế mà nn nhân được nhm ti ca anh ta li thoát chết. Làm sao có th xây ra như thế được cơ ch? Cái hay là ch tình trng bi ri ca anh ta đã dn anh ta ti vn đề v đạo giáo. Anh ta mun biết v bí mt Fatima, và bí mt này thc s là gì. Đó là mi quan tâm chính ca anh ta; anh ta mun biết điu này hơn bt c mt cái gì khác. Có l nhng vn nn dai dng đã cho thy rng anh ta đã nm được mt điu gì đó thc s là h trng. Alì Agca có l đã cm thy được rng có mt quyn lc cao c, vượt trên c quyn lc ca anh ta, trên c kh năng bn giết na. Bi vy anh ta đã bt đầu tìm kiếm quyn lc cao c này. Tôi hy vng và cu xin cho anh ta tìm thy quyn lc cao c y”. 

 

Biến c ngày 13/5/1981 là mt biến c hết sc quan trng, như người viết cm nhn, có th được gi là “Tiếng Súng Lnhđược tri cao báo động cho biết nhng gì sp sa xy ra Âu Châu nói riêng cũng như trên thế gii nói chung, trong lch s hin đại ca loài người, vào cui thiên k th hai Kitô giáo và cui thế k 20 văn minh tân tiến. Thế mà, nhiu cun sách ni tiếng viết v v Giáo Hoàng đến tmt x s xa xôi” k l như mt “du ch thi đại” này đã hoàn toàn b qua, như cun “Witness to Hope” ca tác gi George Weigel (Cliff Street Books / Harper Collins, 1999, dy 992 trang, kh 6 x 9 in), hay cun “Man of the Century” ca Jonathan Kwitny (Henry Holt and Company, 1997, dy 754 trang, kh 6 x 9 in). Ch có cun “His Holiness” ca Carl Bernstein và Marco Politi (Doubleday, 1996, dy 582, c 6 x 9 in) là đề cp đến biến c này khá k, nhng trang 293-300, và 478-483, trong đó, hai v tác gi ca cun sách, (trong 8 chương có 2 chương v Cng sn: chương 5 - “Làm Rung Động Đế Quc” và chương 7 - “Cuc Sp Đổ ca Cng Sn”), đã đề cp ti chng nhng chính biến c và cuc điu tra ni v, mà còn đến c tác dng ca biến c này nơi bn thân v Giáo Hoàng qua vic ngài hiến dâng Nước Nga theo Bí Mt Fatima, để ri t đó và nh đó đi ti hin tượng Đông Âu năm 1989. Tác phm này ( trang 480) đã móc ni cái trùng hp gia vic hiến dâng Nước Nga theo Bí Mt Fatima ca v Giáo Hoàng này vào tháng 3/1984, vi vic xut hin ca v th lãnh cui cùng Cng Sn Liên Bang Sô Viết là Mikhail Gorbachev ngay năm sau đó.

 

Chính người viết này, trong cun “Trái Tim M Toàn Thng” (Cao-Bùi xut bn 12/1992, k nim 1 năm Nước Nga tr li, trang 43), cũng đã có cùng nhn định như nh v tác gi trên đây:

 

·         Trong thư đề ngày 21-11-1989 gửi cho nguyệt san 30 Days, chị (Lucia) viết: ‘Thế là Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã thực hiện việc hiến dâng ngày 25-3-1984. Tôi tin rằng không có trục trặc gì ở đây cả, và điều quan trọng nhất chúng ta cần nhớ về việc hiến dâng là sự hiệp thông của toàn dân Chúa, như Chúa Kitô muốn và đã xin với Cha của Người...’ (30 Days:13). ‘Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã thực hiện việc hiến dâng ngày 25-3-1984’ và ‘Thiên Chúa sẽ giữ lời của Ngài’. Nghĩa là, như Đức Mẹ nói với chị Lucia, ‘một khi yêu cầu của Mẹ được thực hiện, thì nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình’. Quả thật, đúng một năm sau khi Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô thực hiện việc hiến dâng được Thiên Chúa chấp nhận này, thì Mikhail Gorbachev được bầu lên lãnh đạo đảng cộng sản Liên Bang Sô Viết tháng 3-1985. Để rồi từ đó, thế giới nói chung và khối cộng sản nói riêng, như đã đề cập đến ở chương một, ‘Hiện Tượng Nước Nga’, bắt đầu thay đổi cho đến năm định mệnh 1989, năm mà chị Lucia tuyên bố ‘Thiên Chúa sẽ giữ lời của Ngài’. Quả thật, ngay sau khi chị Lucia tuyên bố điều này vào ngày 1-8-1989 thì chính phủ cộng sản Ba-Lan đã bổ nhiệm một nhân vật thuộc Công Đoàn Liên Đới làm thủ tướng vào ngày 19/8/1989, đúng ngày Đức Mẹ hiện ra với ba Thiếu Nhi Fatima 72 năm về trước, 19-8-1917, tại Valinhos ...

 

(còn tiếp) 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ