GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ SÁU 28/12/2007

BÁT NHẬT GIÁNG SINH

 

?  Thiên Chúa không để cho Ngài bị đóng khung lại. Ngài tìm kiếm một nơi chốn, cho dù là tiến qua một hang lừa

?  Bí Mật Maria (66-67) - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria
?  Thánh Gioan Tông Đồ: Một thần học gia

 

 

 

 

?    

Thiên Chúa không để cho Ngài bị đóng khung lại. Ngài tìm kiếm một nơi chốn, cho dù là tiến vào qua một hang lừa

  

ĐTC Biển Đức XVI: Bài Giảng Lễ Đêm Giáng Sinh

 

Anh Chị Em thân mến,

 

“Thời điểm sinh nở của Maria đã đến. Người đã hạ sinh con trai đầu lòng, bọc Ngài trong khăn và đặt trong máng cỏ, vì không có chỗ cho các vị trú ngụ” (Lk 2:6f). Những lời này làm cho lòng chúng ta cảm động mỗi lần chúng ta nghe thấy. Đó là thời điểm thiên thần đã báo trước ở Nazarét rằng: “Trinh Nữ sẽ sinh một người con trai, và Trinh Nữ sẽ đặt tên cho Ngài là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:31). Đó là thời điểm Yến Duyên đã từng đợi trông qua bao thế kỷ, qua nhiều giây phút tối tăm – thời điểm mà toàn thể nhân loại cũng trông đợi một cách nào đó dù chưa được rõ ràng, đó là lúc Thiên Chúa muốn tỏ ra chăm sóc chúng ta, lúc Ngài bước ra ngoài mật thất của Ngài, lúc thế giới sẽ được cứu độ và Thiên Chúa sẽ canh tân tất cả mọi sự. Chúng ta có thể nghĩ tới một thứ sửa soạn nội tâm, một thứ yêu thương giúp cho Mẹ Maria tiến đến với giờ phút ấy. Câu nói vắn vỏi: “Người đã bọc Ngài trong khăn” giúp chúng ta có thể thoáng thấy được một điều gì đó hân hoan thánh thiện và lòng nhiệt thành âm thầm  cho việc sửa soạn ấy. Các thứ khăn tã đã sẵn sàng, nhờ đó Con Trẻ được nghênh đón cách xứng đáng. Tuy nhiên vẫn chẳng có nơi trọ. Một cách nào đó nhân loại đợi trông Thiên Chúa, đợi trông Đấng đến gần với mình. Thế nhưng, khi thời điểm ấy tới thì lại chẳng có chỗ cho Ngài. Con người quá bận tâm tới bản thân mình, họ rất cần đến tất cả mọi nơi và mọi lúc cho những gì của riêng mình, chẳng còn gì cho kẻ khác – cho tha nhân, cho người nghèo, cho Thiên Chúa. Và con người càng trở nên giầu có họ càng  lấp đầy bản thân họ hết mọi khoảng trống, càng không còn chỗ cho kẻ khác nữa.

 

Thánh Gioan, trong Phúc Âm của mình, đã đi sâu vào cốt lõi của vấn đề này, khi đào sâu hơn trình thuật của Thánh Luca về tình trạng xẩy ra ở Bêlem: “Ngài đã đến với nhà của mình, mà dân riêng của Ngài không tiếp nhận Ngài” (Jn 1:11). Những lời này, trước hết và trên hết, ám chỉ tới Bêlem, ở chỗ, Con Vua Đavít tới với thành đô của mình, thế nhưng lại phải hạ sinh ra ở trong một hang lừa, vì không có chỗ trọ cho Ngài. Rồi những lời ấy cũng ám chỉ đến cả dân Yên Duyên nữa, ở chỗ Đấng được sai tới với dân của mình, song họ lại không muốn Ngài. Thực ra, những lời này ám chỉ tới toàn thể nhân loại nữa, ở chỗ, Ngài là Đấng mà thế giới được tạo dựng nhờ Ngài, Lời Tạo Dựng nguyên thủy, tiến vào thế gian, song Ngài đã không được lắng nghe, Ngài đã không được tiếp nhận. Những lời ấy tựu kỳ chung ám chỉ tới cả chúng ta, tới mỗi một người cũng như tới xã hội nói chung. Chúng ta có giờ cho tha nhân của chúng ta là những người đang cần đến một lời nói của chúng ta, của tôi, hay cần đến lòng cảm mến của tôi hay chăng? Cho những người khổ đau đang cần đến sự trợ giúp hay chăng? Cho những người trốn lánh hay tị nạn đang tìm nơi nương náu hay chăng? Chúng ta có thời gian và không gian cho Thiên Chúa hay chăng? Ngài có thể tiến vào lòng của chúng ta hay chăng? Ngài có tìm thấy chỗ trong chúng ta chăng, hay chúng ta đã chiếm hết những chỗ thuận lợi cho bản thân mình nơi ý nghĩ của chúng ta, nơi hành động của chúng ta, nơi cuộc đời của chúng ta?

 

Tạ ơn Chúa, chi tiết tiêu cực này không phải là chi tiết duy nhất, không phải là chi tiết cuối cùng chúng ta thấy trong Phúc Âm. Chỉ ở nơi Thánh Luca thôi, chúng ta gặp thấy tình yêu thương từ mẫu của Mẹ Maria và lòng trung thành của Thánh Giuse, việc tỉnh táo của thành phần mục đồng và niềm hân hoan lớn lao của họ, chỉ ở nơi Thánh Mathêu chúng ta gặp thấy việc viếng thăm của những con người khôn ngoan, từ xa đến, bởi vậy mà cả Thánh Gioan nữa cũng nói với chúng ta rằng: “Tất cả những ai tiếp nhận Ngài thì Ngài ban cho họ quyền trở nên con cái của Thiên Chúa” (Jn 1:12). Đang có những con người chấp nhận Ngài, mà bắt đầu từ hang lừa ấy, từ bên ngoài ấy, đang âm thầm mọc lên một ngôi nhà mới, một thành đô mới, một thế giới mới. Sứ điệp Giáng Sinh làm cho chúng ta nhận thấy tối tăm của một thế giới khép kín, nhờ đó cho thấy rõ ràng một thực tại chúng ta đang chứng kiến  hằng ngày. Tuy nhiên, sứ điệp này cũng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa không để cho Ngài bị đóng khung kín mít đâu. Ngài tìm kiếm một nơi chốn, cho dù là tiến vào qua một hang lừa; có những con người thấy được ánh sáng của Ngài và làm cho ánh sáng này lan tỏa ra. Qua lời lẽ của Phúc Âm, thiên  thần cũng nói với chúng ta nữa, và nơi phụng vụ thánh, ánh sáng của Đấng Cứu Chuộc chiếu vào cuộc đời của chúng ta. Chúng ta là thành phần mục đồng hay “những con người khôn ngoan” – thì ánh sáng này cùng với ý nghĩa của nó cũng kêu gọi chúng ta hãy lên đường, hãy bỏ cái khung đời hạn hẹp của những thứ ước vọng và lợi lộc của chúng ta, hãy tiến ra nghênh đón Chúa mà tôn thờ Ngài. Chúng ta tôn thờ Ngài bằng việc hướng thế giới về chân lý, về thiện hảo, về Chúa Kitô, về việc phục vụ những ai đang bị bỏ rơi quên lãng và là thành phần Ngài đang ở trong họ đợi chờ chúng ta.

(còn tiếp)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/12/2007

 

 TOP

 

?  

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

Lời Mở Đầu của người dịch

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

Thánh Long Mộng Phố  (Louis Montfort) đã viết một số tác phẩm về Mẹ tuy mỏng nhưng rất hay. Chẳng hạn cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (đã được Lm Nguyễn Tri Ân, OP, dịch năm 1957 và nguyệt san Dân Chúa Mỹ Châu xuất bản ở hải ngoại năm 1980), Bí Mật Kinh Mân Côi (đã được người dịch này chuyển ngữ và xuất bản từ năm 1994 và đã tái bản năm 1997 và 2002) và Bí Mật Maria. Sở dĩ những tác phẩm Thánh Mẫu của thánh Long Mộng Phố rất hay là vì thánh nhân viết với tất cả tâm huyết của mình, với tất cả kinh nghiệm sống của Mẹ. Sở dĩ rất hay là vì thánh nhân viết theo thần hứng, đôi khi đã nói tiên tri, như trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria. Sở dĩ rất hay là vì ý tưởng của thánh nhân hết sức xuất sắc và chuyên biệt có một không hai. Sở dĩ rất hay là vì chẳng những vẫn còn hợp thời và càng ngày càng cần thiết. Một trong những hoa trái trổ sinh từ một trong những tác phẩm Thánh Mẫu của thánh nhân là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị đã đọc, thực hành và lấy khẩu hiệu Giáo Hoàng “tất cả của con là của Mẹ” từ tác phẩm Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria. Đó là lý do Màn Điện Toán Thời Điểm Maria, kể từ Lễ Trái Tim Mẹ, 8/6/2002, Quan Thày của Nhóm Hiệp Sĩ Trái Tim Mẹ (năm thứ 5), bắt đầu phổ biến tác phẩm Bí Mật Maria của thánh nhân, một tác phẩm, như được biết, chưa hề được dịch sang Việt Ngữ. Tuy nhiên, vì ngăn trở, tác phẩm này và tác phẩm Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria đã không được liên tục phổ biến. Cho đến nay, nhân dịp vừa khai mạc thời điểm mừng kỷ niệm Biến Cố Lộ Đức 150 năm, 1858-2008, được bắt đầu từ Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/2007 đến 8/12/2008, Thời Điểm Maria tái phổ biến lại từ đầu và (lần này) liên tục cho tới hết hai tác phẩm Thánh Mẫu thời danh và khẩn trương hơn bao giờ hết hiện nay. Xin kính mời Quí Thân Hữu của Màn Điện Toán Thời Điểm Maria theo dõi.
 

(III)    Việc Thánh Hóa của Chúng Ta nhờ Trọn Hảo Tôn Sùng Đức Trinh Nữ, hay  bằng cách Làm Nô Lệ Thánh Đức cho Tình Yêu

 

Phụ Thêm

 

A. Lời Cầu Nguyện Cùng Chúa Giêsu

                          

66.          Lạy Chúa Giêsu rất đáng yêu mến, xin cho con được bày tỏ lòng tri ân chân thành của con đối với Chúa về lòng nhân  lành của Chúa trong việc Chúa trao phó con cho Người Mẹ thánh của Chúa qua việc tôn sùng thắt b uộc thánh hảo này, nhờ đó Mẹ trở thành vị biện hộ của con trong việc van nài trước Uy Nghi của Chúa cho con, và bù đắp cho tình trạng khiếm khuyết của con tất cả những gì còn thiếu thốn.

 

Ôi Chúa, than ơi, con là kẻ khốn nạn đến nỗi nếu không có Người Mẹ yêu dấu này của mình thì con chắc chắn bị hư mất thôi. Vâng, con luôn luôn cần đến Mẹ Maria trong lúc con đang tiến đến với Chúa đây. Con cần đến Mẹ để làm dịu bớt cơn phẫn nộ của Chúa về nhiều xúc phạm con hằng ngày gây ra. Con cần đến Mẹ để cứu con khỏi án phải đời đời chính đáng mà con xứng gánh chịu. Con cần đến Mẹ để hướng về Chúa, nói cùng Chúa, cầu cùng Chúa, tiến đến với Chúa và làm hài lòng Chúa. Con cần đến Mẹ để giúp con cứu lấy linh hồn con cùng với những linh hồn khác. Tóm lại, con cần đến Mẹ để con có thể luôn thi hành ý muốn thánh hảo của Chúa và làm cho Chúa được hiển vinh hơn trong hết mọi sự con làm.

 

Chớ gì con có thể phổ biến khắp thế giới tình thương Chúa đã tỏ cho con! Chớ gì khắp thế giới có thể  biết được rằng nếu không có Mẹ Maria thì giờ đây con đã b ị hư trầm mất rồi! Nếu một mình con có thể  dâng lên đầy đủ những lời tạ ơn về đại hồng phúc là Mẹ Maria này! Mẹ đang ở trong con! Một sở hữu quí hóa biết bao và là một niềm an ủi biết mấy cho con! Chẳng lẽ con lại không đáp trả bằng việc hoàn toàn thuộc về Mẹ hay sao? Bằng không, con thật là vô ơn bội nghĩa! Lạy Chúa Cứu Thế của con, xin hãy để con chết đi hơn là để con cảm thấy con lỗi lầm vì việc làm sai sót ấy, vì con thà chết đi còn hơn là việc con không thuộc về Mẹ.

 

Như Thánh Gioan Thánh Ký dưới chân Thập Giá, con đã từng lãnh nhận Mẹ vô vàn lần như là tất cả thiện ích của con và như con thường hiến bản thân mình cho Mẹ. Thế nhưng, nếu con chưa từng làm như thế một cách trọn hảo như Chúa muốn, thì lạy Chúa Giêsu yêu dấu, giờ đây con làm theo ước muốn của Chúa. Nếu Chúa vẫn thấy nơi linh hồn của con hay thân xác của con bất cứ sự gì không thuộc về Vị Nữ Vương cao cả này, thì xin Chúa hãy giật chúng mà quẳng đi cho xa khỏi con, vì bất cứ điều gì của con không thuộc về Mẹ Maria thì đều bất xứng với Chúa.

 

67.          Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ban cho con tất cả những ơn này. Xin hãy trồng trong hồn con cây sự sống đích thực là Mẹ Maria. Xin hãy bảo trì và vun tưới cho cây sự sống này, để cây sự sống ấy được lớn lên, đơm bông và trổ sinh muôn vàn hoa trái sự sống. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ban cho con được một lòng yêu mến cả thể và trông đợi đối với Mẹ Maria, vị hôn thê siêu vời của Chúa. Xin hãy ban cho con một lòng tin tưởng lớn lao nơi trái tim từ mẫu của Mẹ và tiếp tục chạy đến với lòng cảm thương của Mẹ, nhờ đó, qua Mẹ, Chúa có thể thực sự hình thành Chúa Giêsu, Đấng cao cả và quyền năng, nơi con cho tới khi con đạt tới tầm vóc viên trọn của Người. Amen.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

?

 

Thánh Gioan Tông Đồ  

 

(Loạt bài Giáo Lý về Giáo Hội Hiệp Thông của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vào các Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư hằng tuần 5/7/2006)

  

 

Một Thần Học Gia

 

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trước những ngày nghỉ này, tôi đã bắt đầu phác tả những hình ảnh nho nhỏ về 12 Tông Đồ. Các Tông Đồ là những người đồng hành của Chúa Giêsu, những người bạn của Chúa Giêsu. Cuộc hành trình của các vị với Chúa Giêsu không phải chỉ là một cuộc hành trình về thể lý từ Galilêa tới Giêrusalem, nhưng là một cuộc hành trình nội tâm làm cho các vị biết tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô, không phải một cách dễ dàng gì, vì các vị cũng là người như chúng ta.

 

Thế nhưng, chính vì lý do này, lý do vì các vị là những người đồng hành của Chúa Giêsu, là những người bạn của Chúa Giêsu, thành phần học biết tin tưởng trong cuộc hành trình không quá dễ dàng mà các vị cũng là hướng đạo viên cho chúng ta, giúp chúng ta nhận biết Chúa Giêsu Kitô, yếu mến Người và tin tưởng nơi Người.

 

Tôi đã nhận định về 4 trong 12 vị Tông Đồ là Simon Phêrô, Anrê, người an hem của ngài; Giacôbê, người an hem của Thánh Gioan; và Giacôbê ‘Hậu’ là vị đã viết một Bức Thư chúng ta thấy trong tân Ước. Và tôi đã bắt đầu nói về Thánh Ký Gioan, qui tụ những sự kiện thiết yếu về cuộc đời của vị Tông Đồ này, trong buổi Giáo Lý cuối cùng trước những ngày nghỉ đây.

 

Giờ đây tôi muốn chú trọng tới nội dung của giáo huấn ngài dạy. Các bản văn chúng ta muốn khảo sát hôm nay, bởi thế, chính là cuốn Phúc Âm và những Bức Thư mang tên của ngài.

 

Một đặc tính nổi bật hiện lên nơi các bản văn của Thánh Gioan đó là tình yêu. Không phải tình cờ mà tôi muốn mở đầu cho bức Thông Điệp đầu tiên của tôi bằng những lời của vị Tông Đồ này: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (Deus caritas est); ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ’ (1Jn 4:16). Thật là khó mà tìm thấy những bản văn như thế này nơi các tôn giáo khác. Bởi vậy mà những lời như thế này mang chúng ta tới chỗ đối diện với một yếu tố thực sự là đặc thù của Kitô Giáo.

 

Dĩ nhiên Thánh Gioan không phải là vị tác giả duy nhất từ thời bắt đầu Kitô Giáo nói về tình yêu. Vì đây là một cấu trúc thiết yếu của Kitô Giáo mà tất cả mọi tác giả Tân Ước đều nói về nó, mặc dù bằng những cách nhấn mạnh khác nhau.

 

Giờ đây nếu chúng ta dừng lại để suy niệm về đề tài này của Thánh Gioan thì bởi vì ngài đã nói lên những tính chất chính yếu của nó một cách cương quyết và sâu sắc. Bởi vậy mà chúng ta tin vào lời của ngài. Một điều chắc chắn đó là ngài không trình bày về bản chất của tình yêu một cách trừu tượng, triết học và thậm chí thần học.

 

Không, ngài không phải là một lý thuyết gia. Thật vậy, tự bản chất của mình, tình yêu chân thực không bao giờ chỉ là những gì có tính cách suy đoán, mà thực hiện một liên hệ một cách trực tiếp, cụ thể và thậm chí khả chứng với con người thực. Bởi vậy mà Thánh Gioan, vị Tông Đồ và là người bạn của Chúa Giêsu, làm cho chúng ta thấy được các yếu tố của tình yêu, nói đúng hơn, thấy được những giai đoạn của tình yêu Kitô Giáo, một tiến trình được đánh dấu bằng ba thời điểm.

 

Thời điểm thứ nhất liên quan tới chính Nguồn Mạch của tình yếu được vị Tông Đồ này cho thấy là Thiên Chúa, khi khẳng định ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Jn 4:8,16). Thánh Gioan là tác giả Tân Ước duy nhất cống hiến cho chúng ta định nghĩa về Thiên Chúa. Chẳng hạn ngài nói rằng: ‘Thiên Chúa là thần linh’ (Jn 4:24) hay ‘Thiên Chúa là ánh sáng’ (1Jn 1:5). Ở đây ngài được minh tri công bố rằng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’.

 

Hãy chú ý là: ngài không chỉ chủ trương rằng ‘Thiên Chúa yêu thương’, hay tệ hơn nữa rằng ‘tình yêu là Thiên Chúa’! Nói cách khác, Thánh Gioan không chỉ diễn tả tác động của Thiên Chúa mà còn đi sâu tới tận gốc rễ của tình yêu nữa.

 

Ngoài ra, ngài không có ý qui một phẩm tình thần linh cho một thứ tình yêu chung chung và thậm chí phi ngôi vị; ngài không đi từ tình yêu tới Thiên Chúa, nhưng trực tiếp hướng về Thiên Chúa để xác định bản tính của Ngài bằng một chiều kích yêu thương vô cùng.

 

Làm như thế, Thánh Gioan muốn nói rằng cấu trúc thiết yếu của Thiên Chúa là tình yêu và bởi đó, tất cả mọi hoạt động của Thiên Chúa đều xuất phát từ yêu thương và thấm đẫm yêu thương, ở chỗ, tất cả những gì Thiên Chúa làm, Ngài đều làm vì yêu thương và với yêu thương, cho dù chúng ta không luôn luôn có thể hiểu ngay được đó là tình yêu, một tình yêu chân thực.

 

Tuy nhiên, đến đây, không thể nào không tiến thêm một bước nữa để giải thích rằng Thiên Chúa đã cụ thể bày tỏ tình yêu của Ngài bằng việc đi vào lịch sử của loài người qua Con Người của Chúa Giêsu Kitô, nhập thể, tử nạn và phục sinh vì chúng ta.

 

Đó là thời điểm thiết yếu thứ hai của tình yêu Thiên Chúa. Ngài không chỉ tuyên bố bằng lời nói, nhưng, chúng ta có thể nói, thực sự dấn thân mình và ‘đã phải trả giá’ bằng bản thân mình.

 

Đúng như những gì được Thánh Gioan viết, “Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian”, tức là tất cả chúng ta, “mà Ngài đã ban Người Con duy nhất của Ngài’ (Jn 3:16). Bởi thế, tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là những gì được cụ thể hóa và biểu lộ nơi tình yêu của chính Chúa Giêsu.

 

Thánh Gioan còn viết: ‘Vì đã yêu thương những kẻ thuộc về mình trên thế gian, Người đã yêu thương họ đến cùng’ (Jn 13:1). Vì tình yêu nguyên tuyền và trọn vẹn này mà chúng ta được thực sự cứu khỏi tội lỗi, như Thánh Gioan còn viết: ‘Hỡi con cái bé nhỏ của tôi… nếu có ai phạm tội thì chúng ta có một vị biện hộ trước Cha là Chúa Giêsu Kitô công minh chính trực; Người là sự đền bồi tội lỗi của chúng ta, không phải chỉ tội lỗi của chúng ta mà thôi còn tội lỗi của cả thế gian nữa’ (1Jn 2:1-2; x 1Jn 1:7).

 

Đó là cách thức tình yêu của Chúa Giêsu vươn tới chúng ta, ở chỗ, tuôn đổ Máu của Người cho phần rỗi của chúng ta! Kitô hữu, thinh lặng chiêm ngưỡng trước ‘cái thái quá’ của tình yêu này, không thể nào lại không suy nghĩ đến việc đáp ứng sao cho cân xứng. Tôi nghĩ mỗi một người trong chúng ta, luôn luôn và liên tục, cần phải tự vấn về điều này.

 

Việc tự vấn này dẫn chúng ta tới thời điểm thứ ba của năng lực yêu thương, đó là từ thành phần thụ nhân của một thứ tình yêu đi trước và trổi vượt trên chúng ta, chúng ta được kêu gọi hãy quyết tâm thực hiện một đáp đền chủ động, một đền đáp muốn thích đáng thì chỉ có thể là một đáp đền bởi yêu thương.

 

Thánh Gioan nói về một ‘giới luật’. Thật vậy, ngài đã đề cập tới những lời này của Chúa Giêsu: ‘Thày ban cho các con một giới luật mới, đó là các con hãy yêu thương nhau; như Thày đã yêu thương các con thế nào, các con cũng hãy yêu thương nhau như thế’ (Jn 13:34).

 

Chúa Giêsu muốn nói tới cái mới mẻ này ra sao? Nó nằm ở sự kiện là Người không lấy làm hài lòng khi lập lại những gì đã được Cựu Ước đòi hỏi và là những gì chúng ta đã đọc thấy trong các Phúc Âm khác: ‘Các người phải yêu thương tha nhân như bản thân mình’ (Lev 19:18; x. Mt 22:37-39; Mk 12:29-31; Lk 10:27).

 

Nơi qui luật cổ xưa thì tiêu chuẩn này được căn cứ vào con người (‘như bản thân mình’), trong khi đó, nơi qui luật được Thánh Gioan nói tới, Chúa Giêsu cho thấy Con Người của Người như là lý do và là tiêu chuẩn cho tình yêu của chúng ta: ‘như Thày đã yêu thương các con’.

 

Chính vì thế mà tình yêu trở thành Kitô Giáo thực sự, ở chỗ, theo cả nghĩa nó phải được hướng về tất cả mọi người bất phân biệt, và trên hết, nó cần phải thực hiện bất chấp những hậu quả thái quá của nó, không có một giới hạn nào ngoài việc trở thành vô hạn.

 

Những lời ấy của Chúa Giêsu, ‘như Thày đã yêu thương các con’, cũng đồng thời vừa mời gọi chúng ta vừa làm cho chúng ta day dứt; chúng là mục đích của Kitô học có vể bất khả đạt, thế nhưng đồng thời chúng cũng là một kích thích không cho phép chúng ta thu mình lại nơi những gì chúng ta có thể chiếm đạt. Nó không cho phép chúng ta hài lòng với những gì chúng ta là mà thôi thúc chúng ta cứ tiến tới với đích điểm ấy.

 

Trong cuốn Gương Chúa Giêsu, một cuốn sách quí về tu đức nhỏ có từ cuối Thời Trung Cổ, tác giả viết về vấn đề này như sau: ‘Tình yêu của Chúa Giêsu là những gì cao quí và rộng lớn: nó thôi thúc chúng ta thực hiện những việc cao cả, và tác động chúng ta luôn mong muốn những gì là trọn lành. Tình yêu sẽ những gì hướng thượng chứ không bị gò bó vào những vật hạ đẳng. Tình yêu là những gì thanh thoát trước tất cả mọi chi phối trần gian…. Vì tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa và không thể nghỉ yêu ngoài ở nơi Thiên Chúa hơn là nơi những tạo sinh. Người yêu là kẻ bay, chạy và hớn hở, họ tự do thanh thoát chứ không bị cầm giữ. Họ ban tặng tất cả cho mọi người mà lại có tất cả trong mọi sự, vì họ nghỉ yên trong một sự thiện tối hậu trên tất cả mọi sự thiện, Đấng mà từ Ngài xuất phát tất cả mọi sự thiện’ (Thomas Kempis, The Imitation of Christ, Book III, Chapter V, 3-4).

 

Còn lời nhận định nào hay hơn về ‘giới luật mới’ được Thánh Gioan nói tới đây? Chúng ta hãy cầu cùng Cha để có thể cho dù bao giờ cũng là kẻ bất toàn chúng ta vẫn có thể sống giới răn mới này mạnh mẽ tới độ chúng ta có thể chia sẻ nó với những ai chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống của chúng ta.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2006/documents/hf_ben-xvi_aud_20060809_en.html

 

TOP

 

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ