GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ TƯ 9/5/2007

PHỤC SINH TUẦN 5

 

?  Tình Trạng Giáo Hội ở Mỹ Châu La Tinh 

?  “Việc phát triển về đời sống và tri thức của thánh Âu Quốc Tinh là những gì làm chứng cho cuộc giao tiếp phong phú giữa đức tin và văn hóa”.

? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về "Vị Thiên Chúa có Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô": "Khi nói về Thiên Chúa là chúng ta thực sự chạm tới một chủ đề được Chúa Giêsu tập trung trong việc giảng dạy trên trần gian của Người"

 

 

 

?  Tình Trạng Giáo Hội ở Mỹ Châu La Tinh 

 

Chúng ta vẫn nghe thấy Mỹ Châu Latinh, một vùng đất hầu như toàn tòng Công giáo nhưng nghèo khổ, do đó, cũng là nơi đã xuất phát ra phong trào thần học giải phóng từ thập niên 1970, và đã bị ảnh hưởng bởi các cuộc truyền giáo của các giáo phái Tin Lành đến từ các xứ sở giầu thịnh ở Bắc Mỹ, đến nỗi vùng đất này đã xẩy ra một hiện tượng bỏ Công giáo theo Tin Lành.

 

Trong cuộc phỏng vấn của mạng điện toán toàn cầu Zenit, ông Miguel Ángel Pastorino, giám đốc Dịch Vụ của Uruguay Nghiên Cứu và Tham Vấn về Các Hệ Phái và Các Nhóm Tân Giáo, và là phần tử  Ủy Ban Toàn Quốc của các vị Giám Mục về Đại Kết và Đối Thoại Liên Tôn, cho biết về hiện tượng tôn giáo hiện nay ở Châu Mỹ La Tinh như sau.

 

Vấn:     Trong thập niên 1980, các chuyên viên đã nói về một cuộc xuất hành hàng loạt của những người Công Giáo Mỹ Châu Latinh đi theo các giáo phái, nhanh đến nỗi con số đào ngũ lên tới 400 tín hữu mỗi giờ đồng hồ.

 

Đáp:    Dĩ nhiên là cuộc “đào thoát” này của người Công Giáo vẫn tiếp tục cho tới ngày hôm nay đây. Chẳng những là một cuộc xuất hành tiến sang những dự tưởng bất khả thần thức và bí hiểm, những thứ sùng bái Phi Mỹ Châu, những thứ bán hệ phái Kitô giáo, sang khuynh hướng duy linh và sang những hệ phái “platillista” tức tin vào UFO (những vật bay bất định), mà còn là một cuộc xuất hành âm thầm trở về tình trạng lạnh lùng dửng dưng với tôn giáo, một sản phẩm của vấn đề tục hóa cao cấp ở những thành phố lớn.

 

Phong trào Thánh Linh là một phong trào phát triển nhất, và không có gì cho thấy là nó bị ngừng đọng; trái lại, nó phát triển một cách cuồng loạn.

 

Người ta đã nói đến con số gần 150 triệu tín đồ theo giáo phái Thánh Linh ở Mỹ Châu Latinh, chưa kể đến những người theo các giáo phái lịch sử khác. Các chuyên gia không ngần ngại nói về vấn đề “Phong Trào Thánh Linh hóa” Mỹ Châu La Tinh. Vào năm 1996, bản kiểm điểm Concilium cho biết là đã có 400 triệu Kitô hữu theo phong trào Thánh Linh, nhưng con số này bao gồm cả thành phần đặc sủng.

 

Khi Franz Damen nói về con số được quí vị đề cập tới, ông ta đã muốn nói chính yếu tới những nhóm phong trào Thánh Linh, những nhóm có lúc tất cả được coi là “các hệ phái bảo thủ”; ngày nay đang có một cuộc đối thoại đại kết với nhiều nhóm trong họ. Nhưng cuộc thử thách không phải là dễ, vì phạm trù về phong trào Thánh Linh rộng lớn rất ư là phức tạp cùng có nhiều trào lưu, từ các giáo hội được thiết lập dấn thân cho việc đại kết và xã hội, đến những hệ phái nguy hiểm tấn công tính chất tuyền vẹn của con người.

 

Ngoài ra, còn có một thứ tự lừa đảo về Công Giáo liên quan đến con số, trong một châu lục được tuyên bố là nhiều Công Giáo nhất, một châu lục không nhiều Công giáo như thế.

 

Nếu Giáo Hội đếm con số người được rửa tội và không chú ý tới vấn đề đa số họ không bảo trì Công giáo tính, thì các nhà phân tính xã hội cho biết là ở Mỹ Châu Latinh đa số là tin lành.

 

Trong năm 2000 đã có 26% theo phong trào Thánh Linh ở Chí Lợi, 16% ở Ba Tây, 34% ở Guatemala, và tôi nghĩ rằng ngày nay con số đã vượt hẳn những con số được thống kê ấy.

 

Về lãnh vực tài chính, thị trường tin lành chuyển trên 1 tỉ Mỹ kim hằng năm và tạo ra được khoảng 2 triệu công việc. Theo một cuộc nghiên cứu mới đây thì từ năm 1960, thành phần tin lành đã gấp đôi tỉ lệ hiện diện ở Paraguay, Venezuela, Panama và Haiti; họ tăng gấp ba ở Argentina, Nicaragua và Cộng Hòa Dominican, cũng như tằng gấp 4 lần ở Brazil và Puerto Rico. Họ tăng gấp 6 lần ở Colombia và Eduador, tăng gấp bảy ở Guatemala.

 

Ở Uruguay, có nhiều Kitô hữu chỉ mang danh vậy thôi, vì 54% nói rằng họ là người Công giáo, nhưng chỉ có 2.3% tham dự Thánh Lễ; và trong số những người tham dự Thánh Lễ không phải tất cả đều dấn thân sống đức tin của Giáo Hội và cho việc truyền giáo của Giáo Hội.

 

Trái lại, mỗi một người theo phong trào Thánh Linh là một quân binh trong đức tin và điều này là một thứ thật sự bất lợi cho các Giáo Hội lịch sử. Thành phần Tin Lành ở Uruguay đã tăng lên 11% và những người Ba Tây Phi Châu ở đấy tăng lên 9%.

 

Tình hình trên xẩy ra nhưng không xẩy ra cho các phong trào giáo hội Công giáo là những phong trào đang phát triển mạnh mẽ ở Mỹ Châu, phản lại tình trạng phát triển của các hệ phái và trở thành niềm hy vọng cho Giáo Hội Công Giáo, thành nguồn mạch ơn gọi và thành phần giáo dân được đào tạo để dấn thân.

 

Vấn:     Đâu là Những nguyên nhân chính yếu về cuộc xuất hành này?

 

Đáp:    Mặc dù có nhiều nguyên do về lãnh vực ngoại tại của các Giáo Hội lịch sử, mà đa số những nguyên do này thuộc về lãnh vực văn hóa xã hội, tôi nghĩ rằng lý do không kém phần quan trọng là những gì được Đức Gioan Phaolô II gọi là “khoảng trống mục vụ” (pastoral vacuum), tức là tình trạng thiếu hăng say chăm sóc về phần thiêng liêng đạo đức và thiếu huấn luyện tín lý vững chắc về phía Giáo Hội Công Giáo, cũng như của các giáo hội Thệ Phản lịch sử khác là những giáo hội cũng đang suy giảm tín hữu cùng một cách như thế.

 

Sau Công Đồng Chung Vaticanô II, nơi môi trường của chúng ta, hoạt động mục vụ bình thường thiên về các tiến trình cá nhân và khía cạnh xã hội, bỏ bê hai khía cạnh nống cốt của kinh nghiệm tôn giáo, đó là chiều kích tu đức và tín lý, do đó đã để cả một lỗ hổng cho những giải đáp “thay thế khác” thừa thắng xông lên.

 

Việc lơ là bỏ bê này, cùng với việc truyền bá phúc âm hóa nông nổi sơ sài không nhấn mạnh đến căn tính Kitô giáo nhiều lắm, đã đi đến chỗ làm loãng mất căn tính Công giáo, biến nó thành những thứ dấn thân về luân lý hay những thực hành theo bí tích mà thôi.

 

Một khi Giáo Hội hòa hợp mình với tính cách tân tiến và đức tin của Giáo Hội hòa hợp với lý trí và với tiến bộ, thì thế giới tân tiến với tất cả những thứ hoang đường của nó cùng với các thần linh trần tục của nó đang bị sụp đổ.

 

Bởi thế mà con người nam nữ ngày nay, thành phần bị mệt mỏi bởi những cơ cấu tân tiến, bởi cái quan liêu, bởi lý trí, và bởi kiệt lực trước quá nhiều những dự phóng không tưởng, mới đang tìm kiếm cảm nghiệm, thần bí, một thứ tâm linh cảm xúc; họ không còn hào hứng với “những thứ lý lẽ” mà là vào “cái sống động”, họ không quan tâm gì tới “tín lý” nữa mà là tới “thành quả”.

 

Việc chăm sóc mục vụ được hợp lý hóa cho tới độ kiệt sức; nó quá ư là tân tiến hóa và quan liêu hóa. Mà con người hậu tân tiến, con người mong được gặp gỡ Thiên Chúa, chỉ gặp thấy những thứ ý hệ, những cuộc họp hành, và việc phác họa quá trớn trong các giáo hội của họ – chứ không có cảm nghiệm nội tâm. Nên đã khiến họ tiến đến chỗ tìm kiếm nơi những giếng nước khác thứ “nước hằng sống” không có ở nơi họ cần phải gắn bó.

 

Về vấn đề này, Đức Gioan Phaolô II đã nói vào năm 1992 rằng: “Cũng có thể xẩy ra là tín hữu không tìm thấy nơi các tác nhân mục vụ cái cảm quan mạnh mẽ về Thiên Chúa là những gì cần phải được truyền đạt nơi đời sống của thành phần tác nhân ấy”.

 

Đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng cuộc khủng hoảng đức tin và linh đạo nơi nhiều phần của các giáo hội lịch sử là một trong những nguyên do chính cho cuộc xuất hành hàng loạt theo các hệ phái – hay theo khuynh hướng lạnh lùng dửng dưng khô đạo – nhưng không theo những gì phi tôn giáo.

 

81% ngưồi Uruguayan nói rằng họ tin vào Thiên Chúa; tuy nhiên phần đông họ tin “vào đường lối của mình” và đường lối thông dụng nhất của việc sống đức tin đó là đường lối “a la carte”, hay theo lời của Peter Berger, đó là “tin tưởng nhưng không thuộc về”. Như tôi đã đề cập, chỉ còn một tỷ lệ hết sức nhỏ nhoi nơi các niềm tin tôn giáo truyền thống mà thôi.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit ngày 7/7/2005

 

 TOP

 

 

? “Việc phát triển về đời sống và tri thức của thánh Âu Quốc Tinh là những gì làm chứng cho cuộc giao tiếp phong phú giữa đức tin và văn hóa”.

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Diễn Từ Ngỏ Cùng Các Vị Đại Diện Thế Giới Văn Hóa tại Sân Đại Học ở Pavia Chúa Nhật 22/4/2007

 

(tiếp 8 Thứ Ba)

 

Các bạn thân mến, trong cuộc gặp gỡ của các bạn, tư tưởng của Thánh Âu Quốc Tinh, Vị Đồng Quan Thày của Đại Học này cùng với Thánh Caterina thành Alexandria, tự nhiên nẩy lên trong tâm trí. Việc phát triển về đời sống và tri thức của thánh Âu Quốc Tinh là những gì làm chứng cho cuộc giao tiếp phong phú giữa đức tin và văn hóa.

 

Thánh Âu Quốc Tinh là một con người được thúc đẩy không ngừng bởi ước muốn tìm kiếm chân lý, tìm được ý nghĩa của đời sống, để biết sống ra sao, để biết được con người. Và chính vì đam mê đối với con người này mà ngài cần phải tìm kiếm Thiên Chúa, vì chỉ nhờ ánh sáng của Thiên Chúa mà sự cao cả của con người và vẻ đẹp của cuộc hành trình làm người mới hoạn toàn thể hiện mà thôi.

 

Thoạt tiên, vị Thiên Chúa này có vẻ xa vời với ngài. Sau đó thánh Âu Quốc Tinh đã tìm thấy Người: Vị Thiên Chúa cao cả và bất khả đạt này đã đích thân trở nên gần gũi, trở nên  một trong chúng ta. Vị Thiên Chúa cao cả này là Vị Thiên Chúa của chúng ta, Người là Vị Thiên Chúa có dung nhan con người. Bởi thế mà niềm tin của thánh nhân nơi Chúa Kitô không kết thúc nơi triết lý của thánh nhân hay nơi cái liều lĩnh táo bạo của tri thức thánh nhân, mà trái lại, đã thôi thúc ngài tìm kiếm hơn nữa cái sâu xa của con người và giúp cho người khác sống tốt lành, tìm thấy sự sống, tìm được nghệ thuật sống.

 

Triết lý của ngài đó là biết làm sao sống với tất cả trí khôn cũng như tất cả ý thức sâu xa của tư tưởng chúng ta, của ý muốn chúng ta, và để mình được dẫn dắt trên con đường chân lý là con đường của lòng can đảm, khiêm nhượng và mãi mãi thanh tẩy.

 

Niềm tin vào Chúa Kitô đã hoàn trọn tất cả những gì Thánh Âu Quốc  Tinh tìn kiếm, thế nhưng, tình trạng hoàn trọn này theo nghĩa là ngài vẫn luôn tiến bước. Thật vậy, ngài nói với chúng ta rằng, ngay cả trong cõi đời đời, việc tìm kiếm của chúng ta sẽ v ẫn không trọn vẹn, nó sẽ là một cuộc phiêu lưu thám hiểm vĩnh hằng, sự khám phá của một sự cao cả mới, vẻ đẹp mới.

 

Ngài đã dẫn giải những lời của bài Thánh Vịnh ‘Hãy luôn tìm kiếm dung nhan Người”, và nói rằng: điều này xẩy ra đúng như thế đối với cõi vĩnh hằng; và vẻ đẹp của cõi vĩnh hằng không phải là một thực tại bất động mà là một tiến triển bao la nơi vẻ đẹp vô cùng của Thiên Chúa.

 

Thế nên, ngài đã có thể thấy được Thiên Chúa như là một lý lẽ nền tảng, song cũng là một tình yêu bao bọc chúng ta, hướng dẫn chúng ta và làm cho lịch sử cũng như cho đời sống tư riêng của chúng ta có ý nghĩa.

 

Sáng hôm nay, tôi đã có dịp nói rằng tình yêu này đối với Chúa Kitô đã làm nên cuộc dấn thân riêng của ngài. Từ một cuộc đời được khuôn mẫu theo việc tìm kiếm, ngài đã tiến đến một cuộc đời hoàn toàn hiến dâng cho Chúa Kitô, nhờ đó trở thành một cuộc sống cho kẻ khác.

 

Ngài đã khám phá ra – đó là cuộc hoán cải thứ hai của ngài – rằng trở về với Chúa Kitô nghĩa là không sống cho bản thân mình mà là thực sự phục vụ tất cả mọi người khác.

 

Chớ gì Thánh Âu Quốc Tinh trở nên cho chúng ta cũng như cho thế giới hàn lâm một mô phạm đối thoại giữa lý trí và đức tin, mô phạm của một cuộc đối thoại sâu rộng duy nhất có thể tìm kiếm chân lý nhờ đó cũng có thể tìm kiếm hòa bình. 

 

Như vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi là Đức Gioan Phaolô II đã nhận định trong Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí của ngài: “Vị Giám Mục Hippo này thành công trong việc sản xuất ra một thứ tổng hợp cao cả đầu tiên giữa triết lý và thần học, bao gồm những giòng tư tưởng của cả Hy Lạp và La Tinh. Cũng ở nơi ngài, một mối hiệp nhất sâu xa về kiến thức, được bắt nguồn từ tư tưởng Thánh Kinh, đã được việc suy luận sâu xa làm cho vững chắc và hỗ trợ” (số 40).

 

Bởi thế, tôi xin Thánh Âu Quốc Tinh chuyển cầu để Đại Học Đường Pavia luôn được nổi bật về việc chú trọng đặc biệt đến cá nhân, bằng một chiều kích cộng đồng mạnh mẽ trong việc tìm kiếm về khoa học cũng như bằng việc đối thoại tốt đẹp giữa đức tin và văn hóa.

 

Cám ơn các bạn đã hiện diện và chúc các bạn được mọi tốt lành trong việc học hỏi của các bạn, tôi ban cho tất cả các bạn Phép Lành của tôi, một phép lành tôi muốn hướng tới cả những người thân thuộc và yếu dấu của các bạn nữa.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

 

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/april/documents/hf_ben-xvi_spe_20070422_university-pavia_en.html

 

TOP

 

 

? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về "Vị Thiên Chúa có Dung Nhan của Chúa Giêsu Kitô"

 

"Khi nói về Thiên Chúa là chúng ta thực sự chạm tới một chủ đề được Chúa Giêsu tập trung trong việc giảng dạy trên trần gian của Người"

 

Thẩm Định về Giáo Triều của ngài trong Năm 2006 dịp Chúa Giáng Sinh cho Giáo Triều Rôma ngày Thứ Sáu 22/12/2006

 

Tâm trí chúng ta hãy chuyển tới Bavaria – Munich, Altotting, Regensburg và Freising. Ở đó, tôi đã được sống những ngày tuyệt vời không thể nào quên nổi trước việc gặp gỡ niềm tin và tín hữu nơi Quê Hương của tôi. Đề tài chính cho chuyến Hành Trình này của tôi đến Đức quốc là Thiên Chúa. Giáo Hội cần phải nói nhiều điều: về tất cả những vấn đề liên quan tới con người, về cấu trúc của mình và về đường lối của mình v.v. Thế nhưng, vấn đề thực sự của Giáo Hội – theo những khía cạnh khác nhau – cũng là vấn đề duy nhất của Giáo Hội đó là ‘Thiên Chúa’.

 

Ngoài ra, vấn đề lớn của Tây phương đó là vấn đề lãng quên Thiên Chúa. Tình trạng quên lãng này đang lan tràn. Tóm lại, tất cả mọi vấn đề riêng tư cá nhân, tôi tin rằng, đều có thể bắt nguồn từ vấn đề lớn lao ấy.

 

Bởi vậy, trong chuyến Hành Trình  này, mục đích chính của tôi đó là làm sáng tỏ vấn đề về ‘Thiên Chúa’, đồng thời cũng chú ý tới sự kiện là tại một số phần đất ở Đức quốc, còn có đa số thành phần chưa lãnh nhận phép rửa cảm thấy Kitô Giáo và Vị Thiên Chúa của n iềm tin dường như là những gì thuộc về quá khứ.

 

Khi nói về Thiên Chúa là chúng ta thực sự chạm tới một chủ đề được Chúa Giêsu tập trung trong việc giảng dạy trên trần gian của Người. Chủ đề chính yếu của việc giảng dạy này của Người đó là lãnh giới của Thiên Chúa, là ‘Vương Quốc của Thiên Chúa’. Điều này không có nghĩa là một cái gì đó sẽ qua đi vào một thời điểm nào đó ở một tương lai bất định. Nó cũng không có nghĩa là một thế giới tốt đẹp hơn được chúng ta tìm cách thiết dựng từ từ bằng khả năng riêng của mình. Trong cụm từ ‘Vương Quốc của Thiên Chúa’ thì chữ ‘Thiên Chúa’ ở thể sở hữu chủ cách. Tức Thiên Chúa không phải là một cái gì đó được thêm thắt vào ‘Vương Quốc’ là những gì người ta thậm chí có lẽ bỏ đi. 

 

Thiên Chúa là chủ thể. Vương Quốc của thiên Chúa thực sự nghĩa là việc Thiên Chúa hiển trị. Chính Ngài hiện diện và thiết yếu đối với con người trên thế giới này. Ngài là chủ thể, và bất cứ khi nào thiếu vắng chủ thể này thì sứ điệp của Chúa Giêsu chẳng còn gì hết.

 

Bởi thế Chúa Giêsu mới nói với chúng ta rằng Vương Quốc của thiên Chúa không đến như thể người ta có thể đứng thành hàng bên lề đường để nhìn thấy nó xuất hiện. ‘Vương Quốc của Thiên Chúa ở giữa các người!’ (x Lk 17:20ff).

 

Vương Quốc này trị đến bất cứ ở đâu ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện. Vương Quốc ấy hiện diện ở bất cứ nơi nào cởi mở nghênh đón cho Ngài và để Ngài tiến vào trần gian. Bởi thế mà bản thân Chúa Giêsu là Vương Quốc của Thiên Chúa, vì Người là con người được Thiên Chúa dùng để ở giữa chúng ta và nhờ Người chúng ta có thể chạm tới Thiên Chúa, có thể đến gần Thiên Chúa. Điều này xẩy ra ở đâu thì thế giới được cứu ở đó.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp và tuyển dịch

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ