GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BA 31/7/2007

TUẦN 17 THƯỜNG NIÊN

 

?  Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: Nhập Đề

?  Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II:  Nhập Đề

?  Ánh Sáng Thế Gian - Thực Tại Cần Giải Quyết

 

 

 

?  Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: Nhập Đề (1-5)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch  

1- Mối Quan Tâm Đặc Biệt đến Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa

 

Nỗ lực loan báo Phúc Âm cho con người ngày nay, thành phần đang ôm ấp hy vọng, đồng thời cũng thường bị sợ hãi và buồn khổ đè nén, là một việc phục vụ cho cộng đồng Kitô hữu cũng như cho toàn thể nhân loại.

 

Bởi thế, nhiệm vụ làm cho anh em mình vững mạnh - một nhiệm vụ Chúa đã trao cho Chúng Tôi trong vai trò làm người Kế Vị Thánh Phêrô, một nhiệm vụ đối với Chúng Tôi là một “mối bận tâm hằng ngày”, là một chương trình sống cũng như hoạt động, và là một việc dấn thân quan trọng của Giáo Triều Chúng Tôi – càng là việc tỏ ra cao quí và cần thiết hơn đối với tất cả chúng ta, vì nó là vấn đề phấn khích anh em chúng ta trong sứ vụ của họ là các nhà thừa sai, để trong thời điểm bất ổn và lầm lạc này, họ có thể hoàn tất công việc ấy bằng yêu thương, lòng nhiệt thành và niềm vui mỗi ngày một hơn.

 

2- Vào Dịp Ba Biến Cố Xẩy Ra

 

Đó chính là điều chúng tôi muốn làm ở đây, vào cuối Năm Thánh này, một năm Giáo Hội, “bằng nỗ lực loan báo Phúc Âm cho mọi dân tộc” (x. Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 1: AAS 58 – 1966, p. 947), chỉ có một mục tiêu nhắm đến là chu toàn nhiệm vụ của mình trong việc làm sứ giả cho Tin Mừng của Chúa Kitô – một Tin Mừng được loan báo qua hai huấn dụ căn bản: đó là “hãy mặc lấy con người mới” (x. Eph. 4:24, 2:15; Col. 3:10; Gal. 3:27; Rom. 13:14; 2Cor. 5:17) và “hãy hòa giải với Thiên Chúa” (2Cor.5:20).

 

Chúng Tôi cũng muốn làm điều này vào dịp kỷ niệm 10 năm kết thúc Công Đồng Chung Vaticanô II, một công đồng có những mục tiêu cuối cùng được tóm gọn trong mục tiêu duy nhất này, đó là mục tiêu làm cho Giáo Hội của thế kỷ 20 xứng hợp hơn bao giờ hết với việc loan báo Phúc Âm cho con người của thế kỷ 20.

 

Chúng Tôi còn muốn làm điều này vào dịp một năm sau Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần Ba, một thượng hội ai cũng quá rõ đã chú trọng đến việc truyền bá phúc âm hóa; và Chúng Tôi càng muốn làm điều này theo lời yêu cầu của chính các vị Nghị Phụ. Thật vậy, vào lúc kết thúc cuộc Thượng Hội đáng nhớ này, các Nghị Phụ đã hết sức tin tưởng và chân thành quyết định để lại cho vị Mục Tử của Giáo Hội hoàn vũ các thành quả gặt hái được từ tất cả mọi công khó của các vị, khi nói lên rằng các vị mong đợi nơi ngài một cái gì thúc đẩy mới mẻ, có khả năng tạo nên trong Giáo Hội, vẫn còn gắn bó sâu sa với quyền năng và sức mạnh của ngày Lễ Hiện Xuống, một giai đoạn mới cho việc truyền bá phúc âm hóa (Diễn từ kết thúc Thương Hội Giám Mục Thế Giới Lần Ba của ĐTC Phaolô VI ngày 26/10/1974: AAS 66 – 1974, pp. 634-635. 637).

 

3- Đề Tài thường được Giáo Triều Tôi Chú Trọng

 

Chúng Tôi đã nhấn mạnh đến tính cách quan trọng của đề tài truyền bá phúc âm hóa này ở nhiều dịp, như lần trước khi diễn ra cuộc Thượng Hội Giám Mục. Vào ngày 22/6/1973, Chúng Tôi đã nói với Hồng Y Đoàn rằng: “Những điều kiện của xã hội chúng ta đang sống đòi buộc tất cả chúng ta phải điều chỉnh lại các phương pháp, phải tìm kiếm mọi phương tiện để học cách mang sứ điệp Kitô giáo đến cho con người tân tiến. Bởi vì con người tân tiến ngày nay chỉ có thể tìm thấy giải đáp cho các vấn nạn của mình, cũng như tìm thấy nghị lực trong việc dấn thân hoạt động cho mối đoàn kết nhân loại, nơi sứ điệp Kitô giáo mà thôi” (AAS 65 –1973, p. 383). Ngoài ra, Chúng Tôi còn nói, để đáp ứng một cách thỏa đáng cho những đòi hỏi của Công Đồng trong việc kêu gọi chúng ta chú trọng đến vấn đề này, chúng ta nhất định phải để ý đến di sản đức tin Giáo Hội có nhiệm vụ cần phải bảo trì một cách trọn vẹn, cũng như có nhiệm vụ trình bày cho con người ở thời đại chúng ta, một cách dễ hiểu và hấp dẫn bao nhiêu có thể.

 

4- Hợp Với Thượng Hội Giám Mục Thế Giới 1974

 

Việc trung thành với cả sứ điệp thuộc trách nhiệm của mình, cũng như việc trung thành với thành phần con người cần chúng ta truyền đạt một cách sống động và nguyên tuyền sứ điệp này, là nồng cốt chi phối việc truyền bá phúc âm hóa. Nó đặt ra ba vấn đề nóng bỏng luôn được Thượng Hội Giám Mục 1974 nhắc tới, đó là:

*        Trong thời điểm của chúng ta đây, những gì đã xẩy ra cho tiềm lực của Tin Mừng, một tin mừng có thể tác dụng mạnh mẽ trên lương tâm con người?

 

*        Quyền lực của phúc âm có khả năng biến đổi con người ở thế kỷ này đến độ nào và bằng cách nào?

 

*        Để quyền lực của Phúc Âm có thể gây ảnh hưởng thì phải dùng đến các phương pháp nào?

 

Những thắc mắc này rõ ràng cho thấy vấn nạn căn bản Giáo Hội đang tự hỏi mình hôm nay đây, một vấn nạn có thể được diễn đạt bằng những từ ngữ sau đây: sau Công Đồng và nhờ Công Đồng, một thời điểm Thiên Chúa ban cho Giáo Hội, ở vào ngay khúc quanh của lịch sử này, Giáo Hội có thấy rằng, hay không thấy rằng, mình được trang bị kỹ lưỡng hơn trong việc loan báo Phúc Âm, cũng như trong việc đưa sứ điệp này vào lòng người bằng một niềm xác tín, bằng tự do thanh thoát và có công hiệu?

 

5- Mời Gọi Suy Niệm

 

Tất cả chúng ta đều có thể thấy được tính cách khẩn trương trong việc đáp ứng một cách trung thực, khiêm cung và can trường trước vấn nạn này, cũng như trong việc theo đó mà tác hành.

 

Trong việc “để ý quan tâm đến tất cả mọi Giáo Hội” (2Cor.11:28), Chúng Tôi muốn giúp cho anh em mình, cũng như cho con cái nam nữ của mình, đáp lại những thắc mắc này. Những lời của Chúng Tôi phát xuất từ Cuộc Thượng Hội Giám Mục xúc tích, và có mục đích thực hiện việc suy niệm về vấn đề truyền bá phúc âm hóa. Chớ gì những lời này mời gọi được toàn thể Dân Chúa tụ hợp trong Giáo Hội thực hiện cùng một việc suy niệm này; và chớ gì những lời ấy gây nên một thúc đẩy mới đối với mọi người, nhất là đối với những “ai đang kiên trì rao giảng và truyền dạy” (1Tim.5:17), để mỗi một người trong họ có thể “hiên ngang rao giảng sứ điệp chân lý” (2Tim.2:15), và có thể hoạt động như một giảng viên Phúc Âm, thong dong thi hành thừa tác vụ của mình một cách hoàn hảo.

 

Chúng ta dường như thấy được tầm quan trọng chính yếu nơi một huấn dụ như vậy, vì việc trình bày sứ điệp Phúc Âm không phải là một đóng góp tùy ý cho Giáo Hội. Nó là một nhiệm vụ của Giáo Hội do lệnh truyền của Chúa Giêsu, để nhờ đó con người có thể tin tưởng mà được cứu độ. Sứ điệp này thực sự là cấn thiết. Nó có một không hai. Nó không thể thay thế được. Nó không được phép dửng dưng, trộn lẫn hay dung hợp. Nó là vấn đề phần rỗi của con người ta. Nó là vẻ đẹp của Mạc Khải mà nó biểu trưng. Nó có sẵn một sự khôn ngoan không phải của thế gian. Nó có thể tự mình khuấy động đức tin – một đức tin dựa vào quyền năng của Thiên Chúa (x.1Cor.2:5). Nó là sự thật. Nó kiếm được thành phần tông đồ hiến tất cả thời giờ và nghị lực của mình cho nó, và nếu cần hy sinh cả mạng sống của mình cho nó nữa.

(còn tiếp)

 

TOP

 

?  Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II  Nhập Đề (1-3)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch

 

1.-    Việc truyền giáo mà Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc đã ủy thác cho Giáo Hội cần phải hoàn tất thì còn rất xa vời. Trong lúc đệ nhị Thiên Niên kể từ khi Chúa Kitô giáng sinh sắp qua đi, tình hình nhân loại tổng quan cho thấy rằng việc truyền giáo ấy mới chỉ là bắt đầu, nên chúng ta cần phải hết sức dấn thân cho công việc này. Chính Thần Linh là Đấng thôi thúc chúng ta loan truyền các việc cao cả của Thiên Chúa: “Nếu tôi rao giảng Phúc Âm thì đâu có gì để mà tự hào. Vì đó là phận sự tôi cần phải làm. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm!” (1Cor.9:16).

 

Tôi cảm thấy rất cần phải nhân danh toàn thể Giáo Hội lập lại tiếng kêu ấy của Thánh Phaolô. Từ đầu Giáo Triều của mình, Tôi đã muốn đi đến tận cùng thế giới để nói lên mối quan tâm truyền giáo này rồi. Việc Tôi trực tiếp gặp gỡ các người chưa nhận biết Chúa Kitô đã làm tôi càng xác tín hơn nữa về việc khẩn thiết của hoạt động truyền giáo, chủ đề của Bức Thông Điệp Tôi Tôi đang viết đây.

 

Công Đồng Chung Vaticanô II đã tìm cách canh tân đời sống và hoạt động của Giáo Hội theo chiều hướng cần thiết của thế giới hiện đại. Công Đồng nhấn mạnh đến “bản chất truyền giáo” của Giáo Hội, căn cứ vào việc sinh động nơi chính sứ vụ của Chúa Ba Ngôi. Bởi đó, trọng tâm của việc truyền giáo là ở chính bản tính của đời sống Kitô giáo, đồng thời nó cũng là nguồn mạch cho việc đại kết: “để tất cả họ được nên một... cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Jn.17:21).

 

2-         Công Đồng đã gặt hái được nhiều hoa trái trong lãnh vực hoạt động truyền giáo. Hoạt động truyền giáo đã tăng tiến tại các Giáo Hội địa phương, bao gồm Giám Mục, giáo sĩ và các nhân viên làm việc tông đồ. Việc hiện diện của các cộng đồng Kitô hữu lại càng rõ ràng hơn trong sinh hoạt của các quốc gia, và việc hiệp thông giữa các Giáo Hội đã dẫn tới một cuộc trao đổi sống động những lợi ích và tặng ân thiêng liêng. Việc dấn thân của thành phần giáo dân trong việc truyền bá phúc âm hóa đang làm thay đổi sinh hoạt của giáo hội, trong khi đó, các Giáo Hội riêng lại càng mong muốn gặp gỡ các phần tử của những Giáo Hội Kitô giáo khác, cũng như của những tôn giáo khác, để đối thoại và hợp tác với họ. Nhất là đang có một ý thức mới về hoạt động truyền giáo là một vấn đề của tất cả mọi Kitô hữu, của hết mọi giáo phận và giáo xứ, của các tổ chức và đoàn thể trong Giáo Hội.

 

Tuy nhiên, trong “mùa xuân mới” này của Kitô giáo, vẫn còn có một khuynh hướng tiêu cực không thể phủ nhận được, một khuynh hướng khiến Tôi phải viết Văn Kiện này để phác ra cách thức thắng vượt nó. Hoạt động truyền giáo đặc biết nhắm đến “các dân nước” (ad gentes) như thể đang xìu xuống, và khuynh hướng này chắc chắn không hợp với những chiều hướng của Công Đồng, cũng như không hợp với các lời kêu gọi của Huấn Quyền sau Công Đồng. Những khó khăn cả trong lẫn ngoài đã làm suy yếu đi lực đẩy làm việc truyền giáo của Giáo Hội hướng tới các người ngoài Kitô giáo, một sự kiện cần phải được tất cả mọi người tin vào Chúa Kitô quan tâm lưu ý đến. Bởi vì, động lực truyền giáo bao giờ cũng là dấu chỉ sinh động trong lịch sử của Giáo Hội thế nào, thì việc yếu kém truyền giáo là dấu hiệu khủng hoảng đức tin như vậy (xem ĐTC Phaolô VI, Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo, 1972, Insegnamenti X – 1972 – 522).

 

Hai mươi lăm năm sau khi Công Đồng kết thúc và phổ biến Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo Ad Gentes, mười lăm năm sau Tông Huấn Evangelii Nuntatiandi do Đức Phaolô VI ban bố, và để tiếp tục giáo huấn thuọâc huấn quyền của các vị tiền nhiệm của mình (xem Đức Bênêđíctô XV, Tông Thư Maximum Illud ngày 30-11-1919: AAS 11 – 1919, 440-455; Đức Piô XI, Thông Điệp Rerum Ecclesiae ngày 28-2-1926: AAS 18 – 1926 – 65-83; Đức Piô XII, Thông Điệp Evangelii Praecones ngày 2-6-1951: AAS 43 – 1951 – 497-528; Thông Điệp Fidei Donum ngày 21-4-1957: AAS 49 – 1957 – 225-248; Đức Gioan XXIII, Thông Điệp Peinceps Pastorum ngày 28-11-1959: AAS 51 – 1959 – 833-864), Tôi muốn kêu mời Giáo Hội hãy canh tân lại việc dấn thân truyền giáo của mình. Văn kiện này nhắm đến việc canh tân nội tâm về đức tin và đời sống Kitô giáo. Vì hoạt động truyền giáo giúp vào việc canh tân Giáo Hội, vào việc làm tái sinh động đức tin cũng như căn tính Kitô giáo, và vào việc làm bừng lên lòng nhiệt thành và niềm phấn khởi mới. Đức tin được tăng cường khi đem đức tin ban phát cho kẻ khác! Chính trong khi dấn thân thực hiện việc truyền giáo đại đồng của Giáo Hội lại chính là lúc làm cho việc truyền bá phúc âm hóa mới mẻ của dân Kitô giáo được  khởi sắc và đỡ nâng.

 

Thế nhưng, điều làm Tôi càng mạnh mẽ hơn nữa trong việc công bố tính cách khẩn thiết của vấn đề truyền giáo phúc âm hóa, đó là sự kiện vấn đề truyền giáo phúc âm hóa này là công việc trọng yếu Giáo Hội có thể đem cống hiến cho mọi người, cũng như cho cả loài người trong thế giới tân tiến ngày nay, một thế giới đã đạt được những thành đạt tuyệt vời, song cũng là một thế giới hình như đã mất đi cảm quan về những thực tại tối thượng và về chính việc hiện hữu của mình. Tôi đã viết trong Bức Thông Điệp đầu tiên của Tôi là, “Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc đã hoàn toàn tỏ cho con người thấy được bản thân họ... Con người muốn thấu triệt được mình... phải... đến gần Chúa Kitô... Ơn Cứu Chuộc được thực hiện nhờ Thập Giá đã hoàn toàn phục hồi cho con người phẩm vị của họ và trả lại ý nghĩa cho đời sống của họ trên thế gian này” (Redemptor Hominis –4/3/1979 – đoạn 10: AAS 71 – 1979 – 274f).

 

Tôi cũng còn có những lý do và mục tiêu khác nữa: đó là để đáp lại nhiều lời yêu cầu xin ban bố một văn kiện như thế này; để làm sáng tỏ những ngờ vực và mập mờ liên quan đến hoạt động truyền giáo ad gentes, cũng như để công nhận việc những anh chị em gương mẫu đã dấn thân cho hoạt động truyền giáo và tất cả những ai nâng đỡ họ; để nuôi dưỡng các ơn gọi truyền giáo; để khích lệ các thần học gia trong việc tìm tòi và quảng diễn một cách có phương pháp những khía cạnh khác nhau của hoạt động truyền giáo; để tạo nên một động lực mới mẻ cho hoạt động truyền giáo, bằng cách nuôi dưỡng việc dấn thân của các Giáo Hội riêng – nhất là những giáo hội mới được hình thành – trong việc trao đổi các thừa sai; và để bảo đảm với những người ngoài Kitô giáo, nhất là các chính quyền của các xứ sở đang có hoạt động truyền giáo rằng, tất cả những điều này chỉ có một mục đích duy nhất, đó là phụng sự con người bằng việc tỏ ra cho họ tình yêu Thiên Chúa được bộc lộ nơi Chúa Giêsu Kitô.

 

3-         Hỡi các dân tộc khắp mọi nơi, hãy mở cửa cho Chúa Kitô! Phúc Âm của Người không bao giờ làm mất đi tự do của con người, mất đi việc tôn trọng cần phải có đối với mọi nền văn hóa cũng như với bất cứ những gì tốt lành nơi mỗi một tôn giáo. Bằng việc chấp nhận Chúa Kitô là quí vị tự mở lòng mình ra cho Lời tối hậu của Thiên Chúa, cho Đấng mà trong Người Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình ra và đã chỉ cho chúng ta đường lối đến cùng Ngài.

 

Con số những người không biết Chúa Kitô và không thuộc về Giáo Hội tăng liên tục. Thật vậy, nó đã tăng gần như gấp đôi kể từ khi kết thúc Công Đồng. Nếu chúng ta để ý đến phần nhân loại rất đông được Chúa Cha yêu thương và sai Con Ngài đến vì họ này, thì mới thấy rõ được tính cách khẩn thiết của việc Giáo Hội truyền giáo.

 

Ngoài ra, thời điểm của chúng ta đây còn hiến cho Giáo Hội những cơ hội mới trong lãnh vực này: đó là cơ hội sụp đổ của những triết thuyết áp đảo và những thể chế chính trị, như chúng ta chứng kiến thấy; cơ hội thế giới mở mang ranh giới và xích lại gần gũi nhau hơn, nhờ vấn đề phát triển phương tiện truyền thông; cơ hội con người biết xác nhận các giá trị Phúc Âm, được Chúa Giêsu thể hiện trong cuộc sống của Người (như bình an, công chính, tình huynh đệ, quan tâm đến thành phần nghèo); và cơ hội phát triển của một thứ kinh tế và kỹ thuật vô hồn chỉ thúc đẩy con người tìm kiếm chân lý về Thiên Chúa, về con người và về ý nghĩa của chính cuộc sống.

 

Thiên Chúa đang mở ra trước mắt Giáo Hội một chân trời nhân loại hết sức thuận lợi cho việc gieo vãi Phúc Âm. Tôi cảm thấy rằng đã đến lúc tất cả năng lực của Giáo Hội cần phải dấn thân vào một việc truyền bá phúc âm hóa mới, cũng như vào việc truyền giáo ad gentes. Không một tín hữu nào tin tưởng vào Chúa Kitô, không một tổ chức nào của Giáo Hội được phép tránh né nhiệm vụ trên hết này: đó là nhiệm vụ phải loan truyền Chúa Kitô cho tất cả mọi dân nước.

 (còn tiếp)

 

TOP

 

 

? Ánh Sáng Thế Gian - Thực Tại Cần Giải Quyết

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

“'Tối tăm đang bao phủ địa cầu mây mù đang vây phủ các dân' 

'Tại sao hai Đại Lục Kitô Giáo như Aâu Châu và (Bắc) Mỹ Châu lại trở nên nơi phát xuất, phát triển và truyền bá ‘văn hóa tử vong’ khắp nơi, hoàn toàn phản lại “văn hóa sự sống” của Phúc Aâm Chúa Kitô, Giáo Tổ Kitô Giáo? Phải chăng đó là bằng chứng cho thấy, như chủ thuyết cộng sản tự động giải thể từ cuối năm 1989 ở Đông Âu, Kitô Giáo đã hoàn toàn lỗi thời, không có tác dụng cứu rỗi trong thời điểm khoa học thực nghiệm và kỹ thuật tối tân của hậu bán thế kỷ 20 trước ngưỡng cửa của Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến??

 "Tại sao một Đại Lục Các Tôn Giáo như Á Châu, với 3/5 dân chúng của thế giới, số dân chúng vốn nặng về tâm linh đạo đức, mà Kitô Giáo vẫn chỉ có một thiểu số mới gần được 3%, sau 2000 năm truyền giáo ở Tiểu Á và Tây Nam Á, 400 năm truyền giáo ở Á Đông? Phải chăng đó là bằng chứng cho thấy giáo thuyết Kitô Giáo không thích hợp với đại đa số lòng người, và đời sống Kitô Giáo không có gì khác biệt, không thu hút hơn các đạo khác??

 "Đó là các vấn đề cần Ý Thức Kitô Giáo”.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, Ý Thức Kitô Giáo, Cao-Bùi, 1998, bìa bốn)

 

Tuy nhiên, trước khi phân giải hiện tượng “tối tăm đang bao phủ địa cầu và mây mù đang vây phủ các dân” (Is 60:2) này, hầu có được một Ý Thức Kitô Giáo toàn vẹn, có được một niềm tin hết sức sáng suốt và vững mạnh về tôn giáo của mình, Kitô hữu chúng ta cần phải có một nhận định chính xác và rõ ràng hơn nữa về Kitô Giáo sau đúng 2000 Năm Vị Giáo Tổ Giáng Sinh, đặc biệt là tại Âu Châu, nơi hầu như toàn tòng Kitô Giáo,  nơi phát triển và truyền bá Kitô Giáo khắp thế giới, cũng như tại Á Châu, nơi tỷ lệ Kitô Giáo là một thiểu số, ít nhất trên toàn thế giới và ít nhất so với các đại lục khác, lại chính là nơi Mầu Nhiệm Cứu Chuộc được thực hiện và là nơi Giáo Hội Kitô Giáo xuất thân.

 

Về Kitô Giáo ở Âu Châu, chúng ta có những lời phát biểu của một số tiêu biểu nghị phụ (trong tổng số 179 vị) tham dự Cuộc Thượng Hội Giám Mục Âu Châu lần thứ hai, 1-23/10/1999. Về Kitô Giáo ở Á Châu, chúng ta có văn kiện chính thức đúc kết Cuộc Thượng Hội Giám Mục Á Châu (19/4-14/5/1998) là Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia in Asia của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ban hành ngày 6/11/1999 tại Tân Đề Li, Ấn Độ.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ