GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ HAI 13/8/2007

TUẦN 19 THƯỜNG NIÊN

 

?  Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: IV - CÁC PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA (40-44)

?  Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: III - THÁNH LINH LÀ TÁC NHÂN CHÍNH CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO (31-36)

?  Ánh Sáng Thế Gian - Mầm Mống Thần Linh Nơi Khổng Giáo

 

 

 

?  Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Thánh Cha Phaolô VI: IV - CÁC PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA (40-44)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch  

40.  Tìm Kiếm Những Phương Tiện Thích Hợp

 

Tầm quan trọng hiển nhiên nơi nội dung của việc truyền bá phúc âm hóa không được che lấp tầm quan trọng của những đường lối và phương tiện.

 

Vấn đề “truyền bá phúc âm hóa ra sao” bao giờ cũng là một vấn đề tùy thuộc, vì các phương pháp truyền bá phúc âm hóa thay đổi theo các hoàn cảnh khác nhau về thời điểm, nơi chốn và văn hoá, cũng như vì chúng bởi đó trở nên một thách đố cho khả năng khám phá và thích ứng của chúng ta.

 

Nhất là thành phần mục tử chăn dắt Giáo Hội chúng ta có trách nhiệm phải mạnh bạo và khôn ngoan, nhưng lại hoàn toàn trung thành với nội dung của việc truyền bá phúc âm hóa, trong việc tái sắp xếp các phương tiện thích hợp nhất và hiệu nghiệm nhất cho việc thông đạt sứ điệp Phúc Âm cho con người nam nữ của thời đại chúng ta.

Trong tập suy niệm này, hãy tạm đề cập một số phương pháp mà, vì lý do này hoặc lý do nọ, mang một tầm quan trọng đặc biệt.

 

41.  Chứng Từ Đời Sống

 

Trước hết, không cần phải lập lại mọi điều chúng ta đã đề cập tới, chỉ cần chú trọng đến điểm thích đáng sau đây, đó là, đối với Giáo Hội, phương tiện thứ nhất của việc truyền bá phúc âm hóa là việc làm chứng bằng một đời sống Kitô hữu chân chính cho Thiên Chúa, được tỏ ra bằng mối hiệp thông không gì hủy hoại được, đồng thời cũng được tỏ ra bằng việc hy hiến cho tha nhân với một nhiệt tình vô hạn. Như Chúng Tôi gần đây đã nói với một nhóm giáo dân: "Con người tân tiến mong nghe những chứng nhân hơn là những thày dạy, và nếu họ có lắng nghe các thày dạy là bởi vì các vị thày này là những chúng nhân" (2-10-1974: AAS, 66). Thánh Phêrô đã diễn tả điều này rõ ràng khi ngài chủ trương gương lành của một đời sống đáng kính và trong sạch là một việc chinh phục những kẻ từ chối nghe lời nói mà không cần phải nói một lời nào (x.1Pt.3:1). Bởi thế, bằng việc làm và đời sống của mình, Giáo Hội sẽ truyền bá phúc âm hóa cho thế giới, nói cách khác, bằng chứng tá sống động của mình trong việc trung thành với Chúa Giêsu - chứng tá khó nghèo và không dính bén, chứng tá tự do trước những quyền lực thế gian, tóm lại, chứng tá của sự thánh thiện.

 

42.  Việc Rao Giảng Sống Động

 

Thứ đến, cũng không phải là thừa thãi khi nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng và cần thiết của việc rao giảng. "Làm sao họ có thể tin vào Người là Đấng họ chưa bao giờ nghe nói đến? Và làm sao họ được nghe mà lại không có người rao giảng?... Thế nên đức tin nhờ nghe mà có và nghe là do việc rao giảng về Chúa Kitô" (Rm.10:14,17). Điều luật đã từng được Vị Tông Đồ Phaolô chủ trương này vẫn còn nguyên hiệu lực cho đến ngày hôm nay.

           

Việc rao giảng, tức việc loan báo của sứ điệp, thực sự luôn luôn là một việc bất khả miễn trừ. Chúng ta thừa biết rằng, con người tân tiến chán ngán vấn đề nghe; họ thường tỏ ra mệt mỏi trong vấn đề phải để ý nghe, tệ hơn nữa, họ không lãnh hội được những ngôn từ. Chúng ta cũng biết rằng nhiều tâm lý gia và xã hội gia cho thấy một quan niệm là con người tân tiến đã vượt khỏi thứ văn minh của ngôn từ, một thứ văn minh hiện nay vô hiệu và vô dụng, và hiện thời con người đang sống theo một thứ văn minh của ảnh tượng. Những dữ kiện này bắt buộc chúng ta, vì mục tiêu thông truyền sứ điệp Phúc Âm, phải sử dụng đến những phương tiện tân tiến do thứ văn minh này sản xuất ra. Những nỗ lực rất tích cực về lãnh vực này thực sự đã được thực hiện. Chúng ta không thể nào không khen ngợi chúng và khích lệ chúng phát triển hơn nữa. Tuy nhiên, tình trạng mệt mỏi trong những ngày này do bởi quá nhiều những chuyện rỗng tuyếch, cũng như bởi mức độ thích hợp của những hình thức truyền thông khác, không được làm giảm sút đi quyền lực vĩnh viễn của ngôn từ, hay làm mất đi uy tín của nó. Ngôn từ bao giờ cũng xứng hợp, nhất là khi nó chất chứa quyền lực của Thiên Chúa (x.1Cor.2:1-5). Đó là lý do tại sao câu châm ngôn của Thánh Phaolô: "Đức tin từ nghe mà có" (Rm.10:17) vẫn giữ được tính cách của nó: chính Lời được rao giảng mới dẫn đến niềm tin. 

 

43.  Phụng Vụ Lời Chúa

 

Việc rao giảng phúc âm này có nhiều hình thức, và lòng nhiệt thành sẽ gợi hứng tạo ra những hình thức này hầu như không thiết định được. Thật vậy, có muôn vàn biến cố trong đời sống và hoàn cảnh của con người là những dịp cho thấy một cách khôn ngoan nhưng minh tường về những gì Chúa muốn nói lên trong hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Phải có đủ cảm nhận linh thiêng chân thực khi đọc sứ điệp của Thiên Chúa qua những sự việc. Thế nhưng, vào thời gian phụng vụ được Công Đồng canh tân làm tăng thêm giá trị cho Phụng Vụ Lời Chúa này đây, mà không nhìn nhận bài giảng như là một phương tiện quan trọng và rất thích thuận trong việc truyền bá phúc âm thì thật là một điều sai lầm. Dĩ nhiên, cần phải biết và lợi dụng tính cách khẩn thiết và khả năng của bài giảng để đạt được tất cả hiệu lực mục vụ của bài giảng. Tuy nhiên, trước hết cần phải xác tín được như thế và yêu mến chuyên chú đến điều ấy. Vấn đề rao giảng được đặc biệt đưa vào việc cử hành Thánh Thể làm cho nó đạt hiệu lực và sức mạnh của mình như thế, nhất địnhÏ giữ một vai trò đặc biệt trong việc truyền bá phúc âm, đến nỗi, nó nói lên đức tin sâu xa của vị thừa tác thánh và được ưu ái cưu mang. Tín hữu tụ họp lại như một Giáo Hội Vượt Qua, khi cử hành lễ kính Chúa hiện diện ở giữa họ, mong đợi nơi việc rao giảng này rất nhiều, và sẽ nhận được từ đó rất nhiều lợi ích, nếu việc rao giảng này chân thành, rõ ràng, thẳng thắn, thật ứng dụng, căn cứ sâu xa vào giáo huấn Phúc Âm và trung thành với huấn quyền, được khơi động lên bởi nhiệt huyết tông đồ cân đối với bản chất đặc thù của lòng nhiệt huyết tông đồ này, bởi tràn đầy hy vọng, bởi việc bồi dưỡng niềm tin, cũng như bởi việc làm nẩy sinh an bình và hiệp nhất. Nhiều giáo xứ hay các cộng đoàn sống và liên kết với nhau nhờ bài giảng Chúa Nhật, nếu bài giảng có những tính chất này.

           

Chúng ta cần phải nói thêm là, cũng nhờ canh tân phụng vụ, việc cử hành Thánh Thể không phải là lúc thích hợp duy nhất để thuyết giảng. Không được bỏ việc giảng thuyết trong phụng vụ của tất cả các bí tích, trong những nghi thức á phụng vụ, và trong những cuộc hội họp của tín hữu. Bài giảng sẽ luôn luôn là một dịp tốt lành để thông truyền Lời Chúa.

 

44.  Giảng Dạy Giáo Lý

 

Một phương tiện truyền bá phúc âm hóa không được bỏ qua nữa là phương tiện dạy giáo lý. Thành phần trí thức, đặc biệt là trẻ em và giới trẻ, cần học biết, qua việc dạy giáo khoa về đạo lý những giáo huấn căn bản, nội dung sống động về sự thật đã được Thiên Chúa muốn chuyển đạt đến chúng ta, cũng như đã được Giáo Hội tìm cách diễn đạt bằng một thể thức phong phú hơn bao giờ hết trong hành trình lịch sử dài của mình. Không ai chối được rằng, việc dạy giáo lý này cần phải có để tạo nên những mẫu sống Kitô giáo, chứ không phải chỉ là những quan niệm vậy thôi. Thật vậy, nỗ lực truyền bá phúc âm sẽ gặt hái được ích lợi lớn lao - ở mức độ dạy giáo lý tại nhà thờ, trường học, những nơi vốn có thể làm việc này, cũng như trong mọi trường hợp ở tại gia đình Kitô hữu - nếu những người dạy giáo lý có những cuốn giáo khoa thích hợp, cập nhật hoá khéo léo và đầy đủ, được các giám mục chuẩn nhận. Những phương pháp dạy phải được thích ứng với tuổi tác, văn hóa và khả năng của những người lãnh hội; chúng phải luôn luôn làm sao gắn liền với trí nhớ, trí khôn và tâm hồn những chân lý chính yếu cần phải được thấm nhuần vào tất cả đời sống. Nhất là phải sửa soạn cho có những giảng viên giỏi - những giảng viên giáo lý trong giáo xứ, những thày cô, những phụ huynh - thành phần muốn hoàn bị chính mình bằng nghệ thuật siêu đẳng này, một nghệ thuật không có không được và cần đến việc hướng dẫn về đạo giáo. Hơn nữa, một khi chăm lo đến việc huấn luyện trẻ em, người ta sẽ thấy rằng, những cảnh trạng hiện nay khiến việc dạy giáo lý theo hình thức học hỏi giáo lý trở nên khẩn trương hơn bao giờ hết đối với muôn vàn giới trẻ cũng như người lớn, thành phần, được ơn Chúa đánh động, dần dần khám phá ra dung nhan của Đức Kitô và cảm thấy nhu cầu cần phải hiến mình cho Ngài.

(còn tiếp)

 

TOP

 

?  Thông Điệp Redemptoris Missio của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: IV - CHÂN TRỜI BAO RỘNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO

AD GENTES (31-36)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch

 

Chúa Giêsu đã sai các Tông Đồ của Người đến với mọi người, mọi dân tộc và hết mọi nơi trên mặt đất này. Qua các Vị Tông Đồ, Giáo Hội đã lãnh nhận một sứ vụ phổ quát – một sứ vụ vượt biên cương bờ cõi – một sứ vụ bao gồm việc thông truyền nguyên vẹn ơn cứu độ đúng như sự sống viên mãn được Chúa Kitô ban cho (x. Jn 10:10). Giáo Hội đã được “Chúa Kitô sai đi để tỏ ra cũng như để thông truyền tình yêu của Thiên Chúa cho tất cả mọi con người và mọi quốc gia” (Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Đồng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 10).

 

Sứ vụ này là một sứ vụ duy nhất và bất phân chia, chỉ có một nguồn gốc và một mục đích duy nhất; thế nhưng, sứ vụ này cũng bao gồm những công việc khác nhau và các thứ hoạt động khác nhau. Trước hết, có một hoạt động truyền giáo chúng ta gọi là truyền giáo ad gentes (cho các dân tộc), dựa theo tên gọi mở đầu cho Sắc Lệnh của Công Đồng Chung Vaticanô II về vấn đề này. Đây là một trong những hoạt động căn bản của Giáo Hội: nó là một hoạt động thiết yếu và không bao giờ chấm dứt. Thật vậy, Giáo Hội “không thể rút lui khỏi sứ vụ vĩnh viễn của mình trong việc mang Phúc Âm đến cho các đám đông dân chúng – cho cả hằng triệu triệu người nam nữ – thành phần chưa biết đến Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc của nhân loại. Đây là một hoạt động truyền giáo được Chúa Giêsu đã đặc biệt ủy thác và còn ủy thác mỗi ngày cho Giáo Hội của Người” (Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo Dân Christifideles Laici – 30/12/1988 – đoạn 35: AAS 81 – 1989 – 457).

 

Một Hình Ảnh Đạo Nghĩa Phức Tạp và Đổi Thay hơn bao giờ hết

 

32-       Hôm nay đây, chúng ta đang đối diện với một tình trạng đạo nghĩa hết sức khác biệt và đổi thay. Các dân tộc đang chuyển biến; các thực tại về xã hội và tôn giáo, trước kia rõ ràng đâu vào đó, ngày nay lại càng trở nên phức tạp hơn. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến một vài hiện tượng, như việc thành thị hóa, việc ồ ạt di dân, làn sóng những người tị nạn, tình trạng bại hoại kitô giáo ở những xứ sở theo truyền thống Kitô giáo cổ kính, việc Phúc Âm và các giá trị của Phúc Âm càng gây tác dụng chưa từng thấy tại các xứ sở không theo Kitô giáo, cũng như tình trạng lan tràn nhanh chóng các việc sùng bái thần tượng thiên sai và các giáo phái. Tình trạng đột biến về đạo nghĩa và xã hội đã trở thành một tình trạng khó khăn trong việc áp dụng thực hành một số những chuyên biệt và những thứ loại của giáo hội đã quen thuộc đối với chúng ta. Ngay cả trước Công Đồng Chung Vaticanô II, có một số thành phố và xứ sở Kitô giáo đã trở thành những “địa sở truyền giáo”; thế mà tình trạng rõ ràng vẫn cho thấy chưa cải tiến gì qua những năm tháng từ hồi đó đến nay.

 

Trong khi đó, công việc truyền giáo lại gặt hái được nhiều kết quả khắp thế giới, để có những Giáo Hội được thiết lập tốt đẹp như hiện nay, đôi khi còn tốt lành và trưởng thành đến nỗi có thể cung ứng cho nhu cầu của riêng cộng đồng mình, mà thậm chí còn gửi cả người đi truyền bá phúc âm hóa tại các Giáo Hội khác và địa sở khác nữa. Sự kiện này trái với một số miền theo Kitô giáo truyền thống đang cần phải được tái truyền bá phúc âm hóa. Bởi thế mới có một số người đặt vấn nạn là có nên tiếp tục nói đến hoạt động truyền giáo đặc biệt hay đến những miền “truyền giáo” đặc biệt, thay vào đó chúng ta nên nói đến một trường hợp truyền giáo duy nhất, với một việc truyền giáo duy nhất, giống như ở mọi nơi vậy. Cái khó khăn của vấn đề liên hệ đến thực tại phức tạp và đổi thay này, với việc cần phải truyền bá phúc âm hóa, rõ ràng là ở chỗ “ngôn ngữ truyền giáo”. Chẳng hạn như có một sự ngần ngại nào đó trong việc sử dụng các từ ngữ “những việc truyền giáo” và “những nhà truyền giáo”, những chữ được coi như đã lỗi thời và mang theo những ý nghĩa tiêu cực về mặt lịch sử. Người ta thích dùng danh từ “truyền giáo” ở số ít và tĩnh từ “truyền giáo” để diễn tả tất cả mọi hoạt động truyền giáo của Giáo Hội.

 

Cái trăn trở này cho thấy có một sự thay đổi thực sự, một sự đổi thay có những khía cạnh tích cực nào đó. Cái được gọi là trở về hay “về nguồn” của các việc truyền giáo trong sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội, việc đem truyền giáo học vào giáo hội học, và việc hội nhập cả hai lãnh vực này vào dự án cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi, đã tạo nên cho chính hoạt động truyền giáo một đà tiến mới, một hoạt động đối với Giáo Hội không được coi như là một việc bên ngoài lề, mà là ở ngay cốt lõi của đời sống Giáo Hội, như là một công việc trọng yếu của toàn thể Dân Chúa. Tuy nhiên, cần phải để ý tránh cái nguy hiểm của việc đặt những trường hợp khác nhau ở cùng một mức độ, cũng như của việc làm suy giảm, thậm chí loại trừ, việc truyền giáo và các nhà truyền giáo ad gentes của Giáo Hội. Nói rằng toàn thể Giáo Hội là thừa sai thì không phải loại bỏ đi việc hiện hữu của việc chuyên biệt truyền giáo ad gentes, mà chỉ có ý nói rằng, tất cả mọi người Công Giáo phải là những nhà truyền giáo, ở chỗ, chẳng những không loại trừ mà thực sự còn đòi buộc phải có những con người nhận lãnh một ơn gọi đặc biệt để là “những nhà truyền giáo cả một đời ad gentes”.

 

Việc Truyền Giáo ad gentes vẫn giữ nguyên Giá Trị của mình

 

33-       Vấn đề về tính cách đa diện nơi các hoạt động trong cùng một sứ mệnh truyền giáo duy nhất của Giáo Hội không thuộc về bản chất của sứ mệnh truyền giáo, mà là do bởi tính cách khác nhau nơi hoàn cảnh thực hiện việc truyền giáo (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 6). Nhìn vào thế giới hôm nay, bằng quan điểm của việc truyền bá phúc âm hóa, chúng ta có thể phân biệt ba trường hợp.

 

Trường hợp thứ nhất được hoạt động truyền giáo của Giáo Hội nhắm tới, đó là các dân tộc, các nhóm người và các tương quan văn hóa xã hội chưa biết đến Chúa Kitô cùng Phúc Âm của Người, hay còn thiếu những cộng đồng Kitô hữu đủ trưởng thành để có thể hiện thực đức tin trong môi trường sống của họ, cũng như để loan báo đức tin của họ cho những nhóm người khác. Đây là việc truyền giáo ad gentes theo đúng nghĩa của từ ngữ (xem ibid).

 

Trường hợp thứ hai là những cộng đồng Kitô hữu được thiết lập đầy đủ và vững chắc. Họ hăng say với đức tin và  sống đời Kitô hữu của mình. Họ làm chứng cho Phúc Âm nơi hoàn cảnh sống của mình và cảm thấy cần phải dấn thân cho việc truyền giáo chung. Giáo Hội thực hiện hoạt động và việc mục vụ chăm sóc tín hữu của mình nơi những cộng đoàn này.

 

Trường hợp thứ ba là trường hợp ở giữa, đặc biệt là trường hợp ở nơi những xứ sở có gốc gác Kitô giáo lâu đời, đôi khi ở cả những Giáo Hội không lâu đời như vậy, là những nơi hết thảy các nhóm người lãnh nhận phép rửa đã mất đi cảm quan sống động của đức tin, thậm chí không còn coi mình là phần tử của Giáo Hội nữa, và sống một cuộc đời xa biệt hẳn với Chúa Kitô cũng như với Phúc Âm của Người. Điều cần phải làm trong trường hợp này đó là “việc tân truyền bá phúc âm hóa” hay “việc tái truyền bá phúc âm hóa” vậy.

 

34-       Hoạt động truyền giáo xứng danh, tức là việc truyền giáo ad gentes (cho các dân tộc), nhắm đến “các dân tộc hay các nhóm người chưa tin vào Chúa Kitô”, “những người xa cách Chúa Kitô”, những người Giáo Hội “chưa đâm rễ” (xem ĐTC Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 18-20: loc. cit., 17-19). Việc này khác hẳn với các hoạt động khác của giáo hội, vì nó nhắm đến các nhóm người và các môi trường ngoài Kitô giáo là những gì chưa có hay chưa đủ việc giảng dạy Phúc Âm cũng như việc hiện diện của Giáo Hội. Bởi thế, nó mang đặc tính như là một việc loan báo Chúa Kitô cùng với Phúc Âm của Người, việc thiết lập Giáo Hội địa phương và là việc cổ võ các giá trị thuộc về Vương Quốc của Thiên Chúa. Bản chất chuyên biệt của việc truyền giáo ad gentes này là ở chỗ nó nhắm đến “những người không phải Kitô hữu”. Bởi thế, cần phải làm sao để bảo đảm được rằng, “việc truyền giáo đã được Chúa Giêsu ủy thác và còn ủy thác từng ngày cho Giáo Hội của Người” (Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo Dân Christifideles Laici, đoạn 35: loc. cit., 457) một cách đặc biệt này không trở nên một phần việc tầm thường đối với toàn thể sứ vụ của tất cả Dân Chúa, khiến cho việc ấy bị bỏ bê hay quên lãng.

 

Ngoài ra, các ranh giới phân chia giữa việc mục vụ chăm sóc tín hữu, việc tân truyền bá phúc âm hóaviệc hoạt động truyền giáo chuyên biệt không thể nào phân định được một cách rõ ràng, cũng không được nghĩ là chúng sẽ tạo nên những cản trở cho nhau, hay nghĩ rằng chúng là những ao tù. Tuy nhiên, cũng không được làm suy yếu lòng hăng say rao giảng Phúc Âm và thiết lập các Giáo Hội mới ở nơi các dân nước, hay ở các cộng đồng chưa có mặt của Giáo Hội, vì đây là công việc tiên quyết của Giáo Hội, một Giáo Hội đã được sai đến với tất cả mọi dân nước và cho đến tận cùng trái đất. Nếu không thực hiện việc truyền giáo ad gentes này, thì chiều kích truyền giáo của Giáo Hội sẽ bị mất đi ý nghĩa thiết yếu của mình, cũng như sẽ thiếu mất chính hoạt động biểu lộ chiều kích ấy. 

 

Cũng cần phải lưu ý đến việc liên thuộc thực sự và tăng lên giữa những hoạt động cứu độ khác nhau này của Giáo Hội. Mỗi hoạt động này đều ảnh hưởng lẫn nhau, kích động lẫn nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Việc đẩy mạnh vấn đề truyền giáo khuyến khích những mối tương giao giữa các Giáo Hội, và hướng các Giáo Hội tới một thế giới rộng mở hơn, bằng những ảnh hưởng tích cực trong mọi lãnh vực. Các Giáo Hội ở những xứ sở theo truyền thống Kitô giáo chẳng hạn, phải bận tâm vào việc tân truyền bá phúc âm hóa gay go, đang hiểu được một cách rõ ràng là, họ không thể là các nhà truyền giáo cho các người ngoài Kitô giáo, ở các quê hương đất nước hay địa lục khác, nếu họ không hết sức quan tâm tới những người ngoài Kitô giáo tại phần đất của mình. Do đó, hoạt động truyền giáo ad intra (nội tại hay đối nội) là một dấu chỉ khả tín và là một kích thích cho hoạt động truyền giáo ad extra (ngoại tại hay đối ngoại), ngược lại cũng thế.

 

Truyền Giáo cho Mọi Người, bất chấp Khó Khăn

 

35-       Vấn đề truyền giáo ad gentes đụng phải một công viêïc lớn lao, một việc không thể nào thiếu được. Thật vậy, cả về quan điểm tăng phát nhân số, cũng như về quan điểm văn hóa xã hội liên quan đến hình thức nơi các mối liên hệ mới, đến những việc giao tiếp mới và những tình trạng thay đổi mới, thì việc truyền giáo dường như được nhắm tới những chân trời rộng mở hơn bao giờ hết. Công việc loan báo Chúa Giêsu Kitô cho tất cả mọi dân nước thật là vĩ đại, vượt ra ngoài tất cả mọi tầm mức cân đối theo nguồn lực nhân loại của Giáo Hội. 

 

Nếu đây là một vấn đề hoàn toàn thuộc về công cuộc của loài người thì những khó khăn ấy sẽ không thể nào vượt qua nổi và có thể dễ bị thất đảm. Ở một số xứ sở đã từ chối không cho các nhà truyền giáo vào. Tại những nơi khác, chẳng những cấm không được thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa mà còn cấm cả việc trở lại nữa, thậm chí cả việc thờ phượng theo Kitô giáo. Có nơi trở ngại gây ra bởi bản chất của văn hóa, như việc truyền đạt sứ điệp Phúc Âm được coi là không thích hợp hay không thể nào hiểu nổi, và việc trở lại được coi như là việc ruồng bỏ dân tộc cùng với văn hóa của mình.

 

36-       Cũng không thiếu những khó khăn ở ngay trong nội bộ của thành phần Dân Chúa; thật vậy, những khó khăn này là niềm đau đớn nhất của tất cả mọi người. Cái khó khăn đầu tiên được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI vạch ra cho thấy là “việc thiếu lòng sốt mến. Trở ngại này càng trầm trọng hơn nữa vì nó phát xuất từ bên trong. Nó bộc lộ cho thấy ở chỗ mệt mỏi, mất hăng hái, dung hòa, thiếu hào hứng, nhất là thiếu vui vẻ và hy vọng” (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 80: loc. cit., 73). Những trở ngại lớn lao khác đối với hoạt động truyền giáo của Giáo Hội bao gồm cả những vấn đề chia rẽ giữa Kitô hữu với nhau (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 6), vấn đề băng hoại kitô giáo trong các xứ sở Kitô giáo, vấn đề sa sút ơn kêu gọi hoạt động tông đồ, và vấn đề chứng từ nơi tín hữu cũng như cộng đồng Kitô hữu không biểu lộ bằng việc sống theo gương Chúa Kitô. Thế nhưng, một trong những lý do nghiêm trọng nhất đối với tình trạng thiếu hứng khởi trong công việc truyền giáo đó là cái khuynh hướng đầy những dửng dưng, một khuynh hướng mà tiếc thay cũng xẩy ra nơi cả thành phần các Kitô hữu nữa. Khuynh hướng này bắt nguồn từ các quan điểm thần học sai lầm, có đặc tính của khuynh hướng đạo nghĩa tương đối, để rồi chủ trương là “đạo nào cũng tốt như nhau”. Với những lời của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, chúng ta có thể thêm là, còn có một số “những lý do tránh né làm ngăn trở việc truyền bá phúc âm hóa. Chắc chắn lý do tránh né tai hại ngấm ngầm nhất đó là những lý do người ta nại vào giáo huấn này nọ của Công Đồng Chung Vaticanô II” (Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, đoạn 80: loc. cit., 73).

 

Về khía cạnh này, Tôi tha thiết xin các nhà thần học và các phóng viên Kitô giáo chuyên nghiệp hãy tăng gia việc phục vụ của mình cho việc truyền giáo của Giáo Hội, để nhận thức được ý nghĩa sâu xa nơi việc mình làm, khi dựa theo những đường lối vững chắc là “cùng suy nghĩ với Giáo Hội” (sentire cum Ecclesia).

 

Những khó khăn bên trong và bên ngoài không được làm cho chúng ta bi quan và bất động. Cái cần, ở đây cũng như ở mọi lãnh vực khác của đời sống Kitô hữu, đó là lòng cậy trông theo đức tin, bằng một niềm xác tín chúng ta không phải là tác nhân chính của việc Giáo Hội truyền giáo, mà là Chúa Giêsu Kitô cùng với Thần Linh của Người. Chúng ta chỉ là thành phần cộng sự viên, và khi chúng ta làm xong tất cả mọi sự chúng ta phải nói rằng: “Chúng tôi là những người đầy tớ bất xứng; chúng tôi chỉ làm những gì theo phận sự của mình mà thôi” (Lk 17:10).

 (còn tiếp)

 

TOP

 

 

? Ánh Sáng Thế Gian - Mầm Mống Thần Linh Nơi Khổng Giáo

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Khổng giáo có thể nói được là nhịp cầu bắc từ Phật giáo sang Công giáo. Thực vậy, vì một phương diện thì Trung Hoa thường cho rằng Nho Thích Lão là đồng nguyên, là nhất trì, còn một phương diện khác thì Khổng giáo có rất nhiều điểm tương đồng với Công giáo.

 

Trung hoa từ thời Hoàng đế (khoảng 2650 trước Kỷ Nguyên) đã tôn thờ Thượng đế,

 

Nghiêu Thuấn Võ, Thang, Văn, Vũ đều tôn sùng Thượng đế và hơn thế nữa còn tin rằng Trời chẳng xa người.

 

Trong trận Mục Dã trước khi giao tranh với đại quân vua Trụ, để cho ba quân hứng khởi, Võ Vương đã kêu:

 

Thượng đế ở cùng ta đó,

Ba quân hãy vững lòng vững dạ.

(Thượng đế lâm nhĩ, vô nhị nhĩ tâm - Kinh Thi, Đại Nhã Văn Vương)

 

Như trên ta đã thấy Phật giáo cho rằng sau lớp vọng tâm biến thiên, còn có Chân tâm vĩnh cửu trường tồn, bất biến, bất định.

 

Nghiên cứu đời sống đức Khổng, ta cũng ý thức được rằng Ngài tin tưởng tâm hồn ta có hai phần:

 

1.      Một phần cao minh linh diệu như Trời, đó là đạo tâm trong Kinh Thư (Kinh Thư, Đại Vũ mô), đó là Thiên Mệnh, Tính, là Minh Đức, là ánh sáng trời cao cả chiếu soi lòng mình, là lương tâm, lương tri theo từ ngữ Vương Dương Minh.

 

2.      Một phần là mình nhỏ nhoi, hèn mọn, cần phải được uốn nắn, đẽo gọt, đó là nhân tâm nghiêng ngửa của Kinh Thư (Nhân tâm duy nguy).

 

Tin tưởng trong tâm hồn con người còn có trời ngự trị, nên người quân tử trong đạo Nho lúc nào cũng trang nghiêm kính cẩn. Ra khỏi nhà thì trang trọng như đón khách qúi, tiếp xúc với người thì kính cẩn như đang hành lễ, (xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế - Luận Ngữ, XII, 2), càng ở nơi vắng vẻ một mình lại càng ý tứ đối với đấng mình không thấy, lo sợ đối với đấng mình không nghe thấy, vì càng kín càng tỏ, càng nhỏ càng rõ trước con mắt lương tâm. Thế tức là:

 

Nhân gian tu ngũ, Thiên văn như lôi,

Ám thất khuy tâm, thần mục như diện’.

 

Người quân tử chỉ hơn người, nếu dò xét lòng mình mà không phải ngượng ngùng vì những tư tưởng hoen ố, hơn người ở những hành vi không ai mục kích. (Xem Trung Dung I và XXXIII).

 

Các thánh hiền đạo Nho ước mong được nên như vẻ sáng của Thượng Đế. Vua Văn sở dĩ gọi là Văn Vương, vì Ngài đức độ siêu việt, nên như vẻ sáng của Thượng Đế. Sau này Khổng Tử khi bị vây ở đất khuông cũng xưng mình là vẻ sáng của Thượng Đế (Luận Ngữ. IX, 5).

 

Quan niệm Trời chẳng xa người, đã hiện diện ngay trong tâm khảm con người là một quan niệm then chốt của Khổng giáo. Trung Dung đã dùng cả chương thứ XVI để chứng minh điều ấy. Đó cũng là niềm tin tưởng của Thánh hiền Trung Hoa tự xa xưa đã được ghi trong Kinh Thi:

 

Trái Tây Bắc góc nhà thanh vắng,

Đừng làm chi đáng để hổ ngươi.

Đừng rằng tăm tối chơi vơi,

Đừng rằng tăm tối ai người thấy ta.

Thần giáng lâm ai mà hay biết,

Nên dám đâu khinh miệt dể ngươi’.

 

(Kinh Thi, Đại Nhã Úc Thiên)

 

Nho giáo còn chủ trương rằng Luật Trời cũng chẳng hề lìa xa con người.

 

Kinh Thi viết:

 

Trời sinh ra khắp muôn dân,

Vật nào phép nấy định phân rành rành.

Lòng dân chứa sẵn căn lành,

Nên ưa những cái tinh thành đẹp tươi’

 

(Kinh Thư Chung dân)

 

Vì hiểu sự tương quan mật thiết giữa Trời và Người, vì nhận định ra rằng Trời chẳng xa người, mà đã ngự trị ngay trong tâm hồn con người, rằng Luật Trời chẳng có xa con người mà đã được ghi tạc ngay trong lương tâm con người, đức Khổng liền thấy ngay ý nghĩa và mục đích đời người.

 

Mục đích đời người là tu thân, theo tiếng lương tâm, tiến tới hoàn thiện, để kết hợp với Trời (cố viết phối Thiên, Trung Dung XXXI), giáo hóa người khác nên hoàn hảo (Phu tử chi đạo Trung thứ nhi dĩ hỉ, Luận Ngữ IV, 15).

 

Trung Dung viết:

 

‘Trời đã phú cho con người tính trời, đạo làm người là noi theo tính Trơêi đó, tôn giáo là phương pháp thi hành đạo đó’. (Trung Dung I)

 

Đại Học viết:

 

Tôn chỉ sách Đại học là làm bừng sáng ngọn đuốc lương tâm, cải tạo muôn dân và chỉ ngừng nơi mức chí thiện’.

 

Lý do là vì:

 

Hoàn thiện là đạo Trời; trở nên hoàn thiện là đạo người (Thành giả Thiên chi đạo dã, thành chi giả nhân chi đạo dã – Trung Dung XX).

 

Đó là đạo cao siêu của đức Khổng và lý tưởng đời Ngài là dạy dân chân lý đó...

 

Phật cũng dạy phải diệt cái thân ngã mình, rứt hết mọi tình quyến luyến, mọi dây ràng buộc tâm hồn vào vật thụ sinh hư ảo vọng huyễn, vô thường, để trở về cùng Chân Như không sinh không diệt (Léon Wieger, Histore des croyances religieuses et des opinions philogophiques en chine depuis L’Origine jusqu à nos jours, p. 549-550).

 

Đạo Lão cũng coi thường mọi sự đời cho là phù vân hư ảo, muốn thanh tĩnh vô vi để kết hợp với Trời với Đạo trong tâm hồn mình; đó chính là mục đích của các công cuộc tham thiền nhập định...

 

Đức Khổng cho rằng muốn tiến tới hoàn thiện cần phải thực thi ba đại đức: Nhân, Trí, Dũng.

 

Muốn thêm Nhân, chúng ta cần phải làm lành, lánh dữ, cần phải làm tròn nhiệm vụ trong mọi chức vụ ta giữ trong đời, và phải áp dụng định luật Trung Thứ tức là phải biết suy bụng ta ra bụng người, và lấy đó làm phương châm tiếp nhân xử thế.

 

Muốn thêm Trí ta phải học hỏi suy tư suốt đời ta.

 

Muốn thêm Dũng, ta phải có óc đua tranh, phải luôn luôn cố gắng tiến tới một đời sống hoàn hảo.

 

Trung Dung (XX) viết:

 

Hoàn toàn là đạo của Trời,

Trở nên hoàn thiện đạo người xưa nay.

Người hoàn thiện cất tay là đúng,

Chẳng cần suy cũng trúng chẳng sai.

Thung dung Trung đạo tháng ngày,

Ấy là vị thánh từ ngay lọt lòng.

Còn những kẻ cố công nên thánh,

Gặp điều lành phải mạnh tay co.

Ra công học hỏi thăm dò,

Học cho uyên bác hỏi cho tận tường,

Đắn đo suy nghĩ kỹ càng,

Biện minh thấu triệt mới mang thi hành,

Đã định học chưa thành chưa bỏ,

Đã hỏi han chưa tỏ chưa thôi.

Đã suy suy hết khúc nhôi,

Chưa ra manh mối chưa rời xét suy,

Biện luận mãi tới khi vỡ lẽ,

Chưa rõ ràng không thể bỏ qua,

Đã làm làm tới tinh hoa.

Tinh hoa chưa đạt việc ta còn làm.

 

Đức Khổng tuy dạy con người phải tu tâm dưỡng tính, tu sửa tâm hồn mình để tiến tới hoàn thiện, nhưng ngài cũng không quên dạy mọi người phải cải thiện đời sống vật chất bên ngoài, cải thiện đời sống xã hội, để mọi người có thể sống trong tình huynh đệ, trong hòa bình, an lạc thật sự.

 

Tóm lại đối với đức Khổng con người phải thực hiện sự hoàn thiện, hoàn mỹ, vì đó là Thiên ý (Thành giả Thiên chi đạo dã, thành chi giả nhân chi đạo giã Trung Dung XX)”.

 

(Phần Mầm Mống Thần Linh nơi Khổng Giáo trên đây

được trích từ Những Điểm Tương Đồng giữa Phật, Khổng và Công Giáo,

của Bs Nguyễn Văn Thọ, Công Giáo Tiến Hành Xuân Lộc, 1971, trang 8-20)

 

 

Sau khi đã nắm chắc được rằng: Lương tâm con người là Bản Tính, là Đạo, là Trời, là Thái Hư, là Thiên địa chi tính, là gương mẫu hoàng thiện, còn tư tâm là ‘khí chất chi tính’, có thanh có trọc khác nhau, có hay có dở khác nhau, Nho gia liền ra công: Noi theo lương tâm, cải hóa tư tâm.

 

Công phu này Nho gia gọi là Chính tâm: Làm cho tâm hồn trở nên ngay thẳng, hay là Hàm Dưỡng, hay là Tồn Tâm, Dưỡng Tính.

 

Chung qui chỉ là Biến hoá cái ‘khí chất chi tính’ theo từ ngữ của Trương Hoành Cừ...

 

Luận Ngữ chủ trương: Khắc kỷ, phục lễ. Thế tức là con người phải theo thiên lý, mà sửa nhân tình; theo lương tâm mà sửa tư tâm. Như vậy là Nhân đức. (Khắc kỷ phục lễ vi nhân – Luận Ngữ XII, I).

 

Công Đô Tử hỏi Mạnh Tử: ‘Cũng đều là người, nhưng tại sao có người ra đại nhân, có kẻ hóa ra tiểu nhân?’ Mạnh Tử đáp rằng: ‘Ai noi theo cái đại thể của mình thì là bậc đại nhân, ai noi theo cái tiểu thể của mình, thì là kẻ tiểu nhân’ (Mạnh Tử, Cáo Tử chương cú thượng, 15)

 

Đối với Mạnh Tử thì ngũ quan là phần tiểu thể, còn tâm hồn là phần đại thể. Cái bụng cái miệng là phần tiểu thể, còn cái phần tinh thần là phần đại thể... 

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ