GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ HAI 17/9/2007

TUẦN XXIV  THƯỜNG NIÊN

 

?  “Nơi đời sống của các đan sĩ, cầu nguyện có một tầm vóc đặc biệt quan trọng, ở chỗ nó là tâm điểm cho ơn gọi của họ”

?  "Theo truyền thống đan viện này, Giáo Hội đã nới rộng trách nhiệm này cho tất cả mọi tu sĩ, cũng như các vị linh mục và phó tế, trong việc đọc Giờ Kinh"

?  Thiên Chúa không bao giờ chỉ là 'đối tượng' của khoa thần học; Ngài luôn là 'chủ thể' của khoa học này nữa

 

 

? “Nơi đời sống của các đan sĩ, cầu nguyện có một tầm vóc đặc biệt quan trọng, ở chỗ nó là tâm điểm cho ơn gọi của họ”

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Tông Du Áo Quốc 7-9/9/2007: Huấn Từ tại Đan Viện Heiligenkreuz chiều Chúa Nhật 9/9/2007

 

Cùng Cha Đan Viện Phụ Rất Đáng Kính,

Quí Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm,

Quí Đan Sĩ Xi-Tô ở Heiligenkreuz,

Quí Anh Chị Em Sống Đời Tận Hiến,

Quí Quan Khách và Thân Hữu của Đan Viện và Học Viện,

Quí Vị Nữ Nam!

 

Trong cuộc hành hương của tôi tới Magna Mater Austriae, tôi muốn đến viếng thăm Đan Viện ở Heiligenkreuz này, không phải chỉ là một việc dừng chân quan trọng ở Via Sacra dẫn đến  Mariazell, mà là một đan viện liên tục sinh động cổ kính nhất trên thế giới. Tôi muốn đến nơi chốn rất phong phú về lịch sử này để kéo chú ý tới chỉ nam quan trọng của Thánh Biển Đức, vị thánh có bản Qui Luật cũng được tu sĩ Xi-Tô sống theo. Hoàn toàn đơn giản thôi, đó là “không coi gì trọng hơn Thần Vụ” (Regula Benedicti 43,3).

 

Đó là lý do, ở một đan viện sống theo tinh thần Thánh Biển Đức, thì việc ca ngợi Thiên Chúa được các đan sĩ xướng lên như một lời long trọng đồng nguyện cầu, bao giờ cũng là những gì ưu tiên. Các đan sĩ – cảm tạ Chúa! – chắc chắn không phải chỉ là những con người nguyện cầu; những người khác cũng cầu nguyện nữa: trẻ em, giới trẻ và người già, nam nhân và nữ giới, có gia đình và độc thân – tất cả mọi Kitô hữu đều cầu nguyện, hay ít là họ phải nguyện cầu!

 

Tuy nhiên, nơi đời sống của các đan sĩ, cầu nguyện có một tầm vóc đặc biệt quan trọng, ở chỗ nó là tâm điểm ơn gọi của họ. Ơn gọi của họ là trở thành những con người nguyện cầu. Trong thời kỳ của các vị giáo phụ, đời sống đan viện được ví như đời sống của các thần trời. Dấu hiệu được coi là chính yếu của các thiên thần đó ở chỗ các vị là thành phần tôn thờ. Chính sự sống của họ là việc tôn thờ. Điều này cũng đúng với các đan sĩ nữa. Các đan sĩ cầu nguyện, trước hết và trên hết, không cho một ý chỉ đặc biệt nào, mà chỉ vì Thiên Chúa là Đấng đáng ca ngợi chúc tụng. “Confitemini Domino, quoniam bonus! – Hãy chúc tụng Chúa, vì Ngài thiện hảo, vì đức từ bi của Ngài muôn thuở!”: chúng ta được thôi thúc như vậy bởi một số bài Thánh Vịnh (e.g. 106:1). Việc nguyện cầu theo đúng bản chất của mình như thế, với mục đích thuần túy là việc phục vụ thần linh, mới đáng được gọi là officium thần vụ. Nó chính là “phục vụ” đích thực nhất, là “việc phục vụ linh thánh” của các đan sĩ. Nó được hiến dâng lên Thiên Chúa ba ngôi, Đấng, hơn hết mọi sự, đáng “được tôn vinh, vinh dự và quyền  năng” (Rev 4:11), vì Ngài đã tuyệt vời tạo dựng nên thế giới và thậm chí còn tuyệt diệu hơn nữa đã canh tân tái tạo nó.

 

Đồng thời, thần vụ của những con người tận hiến cũng là một việc phục vụ linh thánh cho con người nam nữ, một chứng từ được cống hiến cho họ. Tất cả mọi người đều có trong tâm tâm của mình, dù họ biết hay không, một nỗi khát mong được hoàn toàn viên trọn, được hạnh phúc tối hậu, nhờ đó cuối cùng được chính Thiên Chúa. Một đan viện, trong đó, cộng đồng qui tụ lại mấy lần một ngày để ca ngợi Thiên Chúa, chứng thực cho sự kiện là nỗi khát mong căn bản của con người này không tiến tới chỗ bất thỏa nguyện: Thiên Chúa Hóa Công đã không đặt chúng ta vào một vùng tối tăm rùng rợn là nơi, khi chúng ta dò dẫm trong thất vọng, chúng ta tìm kiếm một ý nghĩa tối hậu nào đó (x Acts 17:27); Thiên Chúa đã không bỏ rơi chúng ta trong một vùng trống không hoang vắng, chẳng có ý nghĩa gì, nơi mà cuối cùng chỉ có chết chóc đang đợi chờ chúng ta. Không! Thiên Chúa đã chiếu soi vào tình trạng tăm tối của chúng ta bằng ánh sáng của Ngài, bằng Người Con Giêsu Kitô của Ngài. Nơi Người, Thiên Chúa đã tiến vào thế giới với tất cả “sự viên mãn” của Ngài (x Col 1:19); nơi Người, tất cả sự thật, sự thật chúng ta mong mỏi, được bắt nguồn và đạt đích (Cf. SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Gaudium et Spes, 22).

 

Ánh sáng của chúng ta, sự thật của chúng ta, tầm vóc viên trọn của chúng ta, sự sống của chúng ta – tất cả những điều này không phải là một giáo điều mà là một ngôi vị, đó là Giêsu Kitô. Chính chúng ta đã được tìm kiếm và mong ước, thật sự là được tìm thấy và cứu chuộc bởi Người, ngoài khả năng của chúng ta trong việc tìm kiếm và mong ước Thiên Chúa! Ánh mắt của dân chúng thuộc mọi thời và quốc gia, của tất cả mọi thứ triết lý, tôn giáo và văn hóa, cuối cùng bắt gặp ánh mắt rộng mở của Người Con tử giá và phục sinh của Thiên Chúa; trái tim rộng mở của Người tràn đầy yêu thương. Con mắt của Chúa Kitô là con mắt của một vị Thiên Chúa yêu thương. Hình ảnh của vị Chúa Tử Giá này ở phía trên bàn thờ đây, một bàn thờ mà cái nguyên thủy theo kiểu Rôma của nó còn thấy cả ở Vương Cung Thánh Đường Sarzano, cho thấy rằng ánh mắt này hướng về hết mọi con người nam nữ. Thật sự là Chúa Kitô nhìn vào tâm can của từng người chúng ta.

 

Cốt lõi của đời sống đan viện là việc thờ phượng – sống như các thần trời. Thế nhưng, vì các đan sĩ là con người có huyết nhục trên mặt đất này nên Thánh Biển Đức đã thêm vào giới luật chính yếu “cầu nguyện” một giới luật thứ hai là “làm việc”. Trong óc của Thánh Biển Đức, và Thánh Bênađô nữa, một phần của đời sống đan viện, cùng với việc cầu nguyện, là làm việc, ở chỗ vun trồng đất đai theo ý muốn của Đấng Hóa Công. Bởi thế, ở mọi thời đại, các vị đan sĩ, bắt đầu từ việc nhìn lên Thiên Chúa, đã từng làm cho trái đất này thành nơi ban phát sự sống và đáng yêu. Việc họ bảo vệ và canh tân thiên nhiên tạo v ật được xuất phát từ chính cái nhìn lên Thiên Chúa của họ. Trong tiết điệu nguyện cầu và làm việc - ora et labora này, cộng đồng của thành phần tận hiến làm chứng cho vị Thiên Chúa là Đấng, nơi Chúa Giêsu Kitô, nhìn xuống chúng ta, trong khi con người và thế giới trở nên tốt đẹp bởi được Thiên Chúa nhìn đến.

 

(xin xem tiếp dưới đây)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20070909_heiligenkreuz_en.html

 

 

TOP

 

?   "Theo truyền thống đan viện này, Giáo Hội đã nới rộng trách nhiệm này cho tất cả mọi tu sĩ, cũng như các vị linh mục và phó tế, trong việc đọc Giờ Kinh"


Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Tông Du Áo Quốc 7-9/9/2007: Huấn Từ tại Đan Viện Heiligenkreuz chiều Chúa Nhật 9/9/2007

 

Các đan sĩ không phải là những người duy nhất cầu nguyện thần vụ ; theo truyền thống đan viện này, Giáo Hội đã nới rộng trách nhiệm này cho tất cả mọi tu sĩ, cũng như các vị linh mục và phó tế, trong việc đọc Giờ Kinh. Cả ở đây nữa, thật là thích đáng cho thành phần tu sĩ nam nữ, linh mục và phó tế – và tất nhiên cả các vị Giám Mục nữa – đến trước Thiên Chúa qua việc cầu nguyện “chính thức” hằng ngày của mình bằng những bài thánh ca và thánh vịnh, bằng việc tạ ơn và lời thỉnh nguyện tinh tuyền.

 

Anh em linh mục và phó tế thân mến, anh chị em sống đời tận hiến thân mến! Tôi nhận thấy rằng cần phải có gắng gỏi, đôi khi cần phải nỗ lực hơn nữa, để trung thành đọc Giờ Kinh; thế nhưng nhờ việc thần vụ này chúng ta cũng lãnh nhận dồi dào nữa: biết bao nhiêu lần, khi làm như thế, chúng ta đã từng thấy được là cái mệt mỏi và chán nản của chúng ta tiêu tan! Khi Thiên Chúa được trung thành ngợi ca và tôn thờ thì chẳng thiếu gì phúc lành Ngài ban. Ở Áo quốc dân chúng đã có lý nói rằng: “Hết mọi sự đều tùy thuộc vào phúc lành của Thiên Chúa!”.

 

Bởi thế, việc phục vụ chính yếu của anh chị em cho thế giới này cần phải là việc nguyện cầu của anh chị em và việc cử hành Thần Vụ. Tâm trạng của mỗi một vị linh mục, cũng như của từng tu sĩ, cần phải là tâm trạng “không coi gì hơn Thần Vụ”. Vẻ đẹp của thái độ nội tâm này sẽ được thể hiện nơi vẻ đẹp của phụng vụ, nhờ đó, bất cứ khi nào chúng ta hiệp nhau ca hát, chúc tụng, tôn vinh và thờ phượng Thiên Chúa, thì dường như thiên đàng hiện diện trên trái đất này. Thật vậy, không phải là tự phụ khi nói rằng, nơi phụng vụ hoàn toàn n hắm vào Thiên Chúa, chúng ta có thể thấy, nơi các nghi thức và bài ca của nó, một hình ảnh vĩnh hằng. Bằng không, làm sao cha ông của chúng ta, cả hằng nhiều trăm năm trước đây, đã dựng xây nên một lâu đài linh thánh như thế này chứ? Ở đây, chính thuật kiến trúc cũng nâng tinh thần của chúng ta lên, hướng tới “những gì mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, và lòng không thể tưởng: những gì Thiên Chúa đã sửa soạn  cho những ai yêu mến Ngài” (1Cor 2:9). Trong tất cả mọi nỗ lực của chúng ta vì phụng vụ, thì yếu tố quyết định bao giờ cũng là việc chúng ta nhìn lên Thiên Chúa. Chúng ta đứng trước Thiên Chúa – Ngài nói với chúng ta và chúng ta nói với Ngài. Bất cứ khi nào trong ý nghĩ của mình chúng ta chỉ quan tâm làm sao để phụng vụ trở nên hấp dẫn, hào hứng và tuyệt vời thì trận chiến kể như đã thua bại. Một là Công Việc của Thiên Chúa - Opus Dei, với Chúa làm chủ thể đặc biệt của nó, hai là không. Theo chiều hướng này, tôi xin anh chị em hãy cử hành phụng vụ thánh bằng ánh mắt của anh chị em gắn chặt vào Thiên Chúa trong mối hiệp thông với các thánh, Giáo Hội sống động của hết mọi thời và mọi nơi, nhờ đó, nó thực sự trở thành một biểu hiện cho vẻ đẹp cao sang của vị Thiên Chúa là Đấng đã kêu gọi con người nam nữ làm bạn hữu của Ngài!

 

Linh hồn của việc nguyện cầu, tối hậu là Thánh Linh. Bất cứ khi nào chúng ta cầu nguyện thì chính Ngài là Đấng “giúp chúng ta hèn yếu, bằng cách chuyển cầu cho chúng ta bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26). Tin tưởng vào những lời này của Thánh Tông Đồ Phaolô, anh chị em thân mến, tôi cam đoan với anh chị em rằng việc nguyện cầu sẽ sản xuất nơi anh chị em cùng một hiệu quả đã từng được tập tục chân tình gọi các linh mục và con người tận hiến là “những linh vị” (Geistliche). Đức Giám Mục Sailer ở Regensburg có lần đã nói rằng các vị linh mục trước hết và trên hết phải là những con người thiêng liêng. Tôi muốn thấy được sự phục hồi của từ ngữ “Geistliche” này. Tuy nhiên, quan trọng hơn thế nữa, cái nội dung của từ ngữ này cần phải trở thành một phần trong đời sống của chúng ta, tức là, trong việc theo Chúa Kitô, chúng ta, nhở quyền lực của Thần Linh, trở nên những con người nam nữ “thiêng liêng”.

 

Áo quốc (Ưsterreich), ở một trò chơi cổ về chữ nghĩa, thực sự là Klưsterreich: một lãnh giới của các đan viện và là một mảnh đất dồi dào các đan viện, Những đan viện cổ kính của anh chị em có nguồn gốc và truyền thống từ nhiều thế kỷ là những nơi chốn “Thiên Chúa là trên hết”. Các bạn thân  mến, hãy làm cho cái ưu tiên giành cho Thiên Chúa này thật tỏ tường trước dân chúng! Là một ốc đảo thiêng liêng, đan viện tu nhắc nhở thế giới ngày nay về điều quan trọng nhất mà thực sự cuối cùng là một điều quyết liệt duy nhất, đó là cái lý do tối hậu cho thấy lý do tại sao cuộc đời đáng sống nó nằm ngay ở chỗ Thiên Cúa và tình yêu khôn thấu của Ngài.

 

Và tôi xin anh chị em, hỡi các phần tử giáo dân thân mến: anh chị em hãy nhìn những tu viện và đan viện để thấy được những gì chúng là và bao giờ cũng muốn là: chúng không phải chỉ là những thành lũy của văn hóa và truyền thống, hay thậm chí chỉ là những xí nghiệm thương mại. Sự cấu trúc, việc tổ chức và làm kinh tài cũng là những gì cần thiết trong Giáo Hội nữa, thế nhưng chúng không phải là những gì chính yếu. Một đan viện, trên hết, là thế này: là nơi của quyền lực thiêng liêng. Khi đến với một trong những đan viện của anh chị em ở Áo quốc đây, chúng ta phải có cùng một ấn tượng, như thể sau một cuộc lội bộ dài mỏi mệt ở dẫy Núi Alps, cuối cùng chúng ta tìm được sự tươi mát ở một con suối trong bên núi… Hãy lợi dụng những con suối của việc gần gũi Thiên Chúa này nơi xứ sở của anh chị em; hãy trân quí những cộng đồng tu trì, những đan viện và tu viện; và hãy sử dụng việc phục vụ thiêng liêng được thành phần tận hiến đang sẵn sàng cống hiến cho anh chị em!

 

(xin xem tiếp dưới đây)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20070909_heiligenkreuz_en.html

 

 

TOP

 

? Thiên Chúa không bao giờ chỉ là 'đối tượng' của khoa thần học; Ngài luôn là 'chủ thể' của khoa học này nữa

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Tông Du Áo Quốc 7-9/9/2007: Huấn Từ tại Đan Viện Heiligenkreuz chiều Chúa Nhật 9/9/2007

 

Sau hết, tôi cũng đã đến thăm Học Viện, nay trở thành Giáo Hoàng Học Viện, một học viện 205 tuổi, và là một học viện, nơi tư thế mới mẻ của nó, Đức Đan Viện Phụ đã đặt tên cho nó theo Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đương nhiệm. Mặc dù khoa thần học cần phải là một phần của kiến thức universitas nhờ sự hiện diện của các phân khoa thần học Công Giáo ở các đại học quốc gia, cũng cần phải có những cơ cấu hàn lâm như của anh chị em đây, để làm nơi giao hưởng sâu xa hơn giữa thần học có tính cách khoa học và ngành linh đạo thực dụng. Thiên Chúa không bao giờ chỉ là “đối tượng” của khoa thần học; Ngài luôn là “chủ thể” của khoa học này nữa. Thần học Kitô Giáo, bởi thế, không bao giờ chỉ là một khóa học thuần túy nhân bản, song luôn luôn, và bất khả phân ly, là logos và “lý lẽ - logic” về việc Thiên Chúa tỏ mình ra. Do đó, lý lẽ tính theo khoa học và việc sống đạo là hai khía cạnh học hỏi có tính cách hỗ tương và liên thuộc cần thiết.

 

Vị cha ông của Dòng Xi-Tô là Thánh Bênađô, vào thời của ngài, đã chiến đấu chống lại việc tách lìa lý lẽ tính được khách quan hóa khỏi trào lưu chính của linh đạo theo Giáo Hội. Trường hợp của chúng ta ngày nay, dù khác nhau, nhưng cũng có những cái tương tự đáng kể. Theo ước mong của mình trong việc được nhìn nhận như là một phân khoa triệt để theo nghĩa tân tiến, thì thần học có thể mất đi cái hồn sống xuất phát từ đức tin của nó. Tuy nhiên, như một thứ phụng vụ không còn nhìn lên Thiên Chúa nữa đã quằn  quại giẫy chết thế nào thì một khoa thần học không còn sức sống từ đức tin cũng không còn là thần học như vậy; nó đi tới chỗ trở thành như là một dàn dựng của những phân khoa lỏng lẻo liên  kết với nhau không nhiều thì ít. Nhưng ở đâu thần học được thực hành “trên gối quì”, như thần học gia Hans Urs von Balthasar (Theologie und Heiligkeit, an essay written in 1948, in Verbum Caro. Schriften zur Theologie I, Einsiedeln, 1960, 195-224) đã kêu gọi, nó mới cho thấy tác dụng của mình đối với Giáo Hội ở Áo quốc cũng như ở các nơi khác.

 

Tác dụng này được chứng tỏ qua việc duy trì và hình thành những ai có ơn gọi làm linh mục hay sống tu trì. Ngày nay, nếu ơn gọi như thế cần phải được duy trì một cách trung thành suốt cả cuộc đời, thì cần phải thực hiện một việc đào luyện có khả năng phối hợp đức tin và lý trí, tâm can và trí khôn, đời sống và tâm tưởng. Một đời sống dấn thân theo Chúa Kitô đòi phải có được một tình trạng hòa hợp toàn thể nhân cách của con người. Việc bỏ bê lơ là về khía cạnh hiểu biết có thể hết sức dễ dàng đi tới chỗ sống theo một thứ lòng đạo đức nông cạn được nuôi dưỡng hầu hết bằng cảm xúc và cảm tình, những gì không thể tồn tại suốt cuộc đời. Trái lại, việc coi thường chiều kích tu đức thiêng liêng cũng có thể tạo nên một thứ khuynh hướng duy lý bất thường, một thứ duy lý, theo cái lạnh lùng và xa cách của mình, không bao giờ có thể mang lại việc tận tình phó thác bản thân cho Thiên Chúa. Một cuộc đời dấn thân theo Chúa Kitô không thể được xây dựng trên những nền tảng một chiều như thế; tình trạng nửa chừng khiến con người cảm thấy bất hạnh, và vì thế, cũng bị cằn cỗi về mặt thiêng liêng nữa. Mỗi một ơn gọi sống đời tu trì hay làm linh mục là một kho tàng quí báu đến nỗi những ai có trách nhiệm đối với nó phải làm hết sức có thể để bảo đảm việc huấn luyện đề cao fides et ratio – đức tin và lý trí, tâm can và trí khôn.

 

Thánh Leopold của Áo quốc – như chúng ta đã nghe trước đây – theo lời khuyên của con ngài là Chân Phước Otto ở Freising, vị tiền nhiệm của tôi ở tòa giám mục Freising (mà lễ kính ngài được cử hành hôm nay ở Freising), đã thành lập tu viện của anh em đây vào năm 1133, và đã gọi nó là Unsere Liebe Frau zum Heiligen Kreuz  - Đức Bà Thánh Giá. Đan viện này được dâng kính cho Đức Mẹ không phải chỉ theo truyền thống – như hết mọi đan việc của Dòng Xi-Tô -, nhưng nơi anh em đã bừng lên một ngọn lửa Thánh Mẫu là một Thánh Bênađô thành Clairvaux. Thánh Bênađô, vị đã nhập đan viện này cùng với 30 đồng bạn của ngài, là một kiểu thánh quan thày của các ơn gọi. Có lẽ chính vì việc ngài đặc biệt tôn sùng Đức Mẹ mà ngài đã có được một ảnh hưởng mãnh liệt và lôi kéo nơi nhiều bạn trẻ đương đại của ngài được Thiên Chúa kêu gọi. Ở đâu có Mẹ Maria thì ở đó có nguyên mẫu thức của việc hoàn toàn hiến thân và vai trò môn đệ Kitô giáo. Ở đâu có Mẹ Maria thì ở đó có hơi thở hiện xuống của Thánh Linh; có bắt đầu lại và có canh tân đích thực.

 

Từ đền Thánh Mẫu này ở trên Via Sacra đây, tôi nguyện xin cho tất cả mọi đền thánh của Áo quốc đều cảm nghiệm được hóa trái và sự tăng triển hơn nữa. Ở nơi đây, cũng như ở Mariazell, trước khi lên đường, tôi cũng muốn xin với Mẹ Thiên Chúa một lần nữa hãy chuyển cầu cho tất cả mọi người ở Áo quốc. Bằng những lời nói của Thánh Bênađô, tôi mời gọi hết mọi người hãy trở nên một con trẻ tin tưởng đối với Mẹ Maria, như Con Thiên Chúa đã làm. Thánh Bênađô nói, và cùng với ngài chúng ta cũng nói rằng: “Hãy nhìn lên ngôi sao biển, hãy kêu lên Mẹ Maria… trong cơn  nguy biến, trong buồn chán, trong nghi ngại, hãy nghĩ đến Mẹ Maria, hãy kêu lên Mẹ Maria. Chớ gì tên của Mẹ không bao giờ rời xa môi miệng của anh chị em hay tâm can của anh chị em… Nếu anh chị em theo Mẹ, anh chị em sẽ không lạc hướng; nếu anh chị em nguyện cầu cùng Mẹ, anh chị em sẽ không cảm thấy thất vọng; nếu anh chị em nghĩ đến  Mẹ, anh chị em sẽ không sợ bị lầm lạc. Nếu Mẹ ghì giữ anh chị em, anh chị em sẽ không té ngã; nếu Mẹ bảo vệ anh chị em, anh chị em không cần phải lo sợ; nếu Mẹ là hướng đạo viên của anh chị em, anh chị em sẽ không biết mỏi mệt; nếu Mẹ nhân từ khoan hậu với anh chị em, anh chị em chắc chắn sẽ đạt tới đích của mình” (BERNARD OF CLAIRVAUX, In laudibus Virginis Matris, Homilia 2, 17).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20070909_heiligenkreuz_en.html

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ