CHÚA NHẬT 13/1/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC Biển Đức XVI

"Với Chúa Giêsu Kitô,

phúc lành của Anbraham đã được vươn tới tất cả mọi dân nước"

    CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (37-39)

   MẾN Yêu Thánh Thể  

          Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích            

                Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ  (29-33)             

           YÊU Thương Tha Nhân          

     Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ 

     Hiệp Thông với Giáo Hội Việt Nam

 

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

"Với Chúa Giêsu Kitô, phúc lành của Anbraham đã được vươn tới tất cả mọi dân nước"

ĐTC Biển Đức XVI: Bài Giảng Lễ Hiển Linh 6/1/2008 tại Đền Thờ Vatican

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Hôm nay, chúng ta đang mừng lễ Chúa Kitô là Ánh Sáng thế gian và việc Người tỏ mình ra cho chư dân. Vào Ngày Lễ Giáng Sinh, sứ điệp của phụng vụ vang lên những lời này: "Hodie descendit lux magna super terram – Hôm nay, một ánh sáng cả thể tỏa chiếu trên mặt đất” (Sách Lễ Rôma). Ở Bêlem, “ánh sáng vĩ đại” này đã xuất hiện cho một nhóm nhỏ dân chúng, cho thành phần nhỏ nhoi “còn lại của Yến Duyên”, đó là Trinh Nữ Maria, phu quân Giuse của trinh nữ cùng một ít mục đồng. Đó là một ánh sáng leo loét vì là kiểu cách của Vị Thiên Chúa chân thực; một ánh lửa được thắp lên trong đêm tối, đó là một hài nhi mới sinh yếu ớt kêu khóc trong cảnh thinh lặng của thế giới này… thế nhưng, cuộc hạ sinh kín ẩn không nổi nang này lại được kèm theo bởi những bài thánh ca chúc tụng của các cơ binh trên trời hát lên để tôn vinh và chúc an bình (x Lk 2:13-14).

 

Bởi thế, cho  dù việc xuất hiện của ánh sáng này trên mặt đất có vẻ tầm thường, nhưng nó lại được phóng lên các tầng trời, ở chỗ, việc hạ sinh của Vị Vua dân Do Thái đã được loan báo bằng sự xuất hiện của một ngôi sao. Điều này được chứng thực bởi một số “con người khôn ngoan” từ Đông phương đến Giêrusalem sau khi Chúa Giêsu giáng sinh ít lâu, trong thời của Vua Hêrôđê (x Mt 2:1-2). Một lần nữa, trời và đất, vũ trụ và lịch sử, kêu gọi nhau đáp ứng. Những lời tiên tri được xác nhận nơi ngôn từ của các vì sao. “Một ngôi sao sẽ xuất hiện từ Giacóp, và cây vương trượng xuất phát từ Yến Duyên” (Dân Số 24:17), Balaam là vị thụ khải dân ngoại đã loan báo, khi ông được triệu tới để nguyền rủa Dân  Yến Duyên, thành phần lại được ông chúc chục, vì, như Thiên Chúa đã mạc khải cho ông, “họ là kẻ được chúc phúc” (Dân Số 22:12). Trong việc dẫn giải về Phúc Âm Thánh Mathêu, Cromatius ở Aquileia đã liên kết Ballam với các Vị Đạo Sĩ Chiêm Gia như thế này: “Ông đã nói tiên tri rằng Đức Kitô sẽ đến; họ đã thấy Người bằng con mắt tin tưởng”. Rồi ông thêm một nhận định quan trọng nữa: “Ngôi sao này được mọi người nhìn thấy nhưng không phải là hết mọi người đều hiểu được ý nghĩa của nó. Cũng thế, Chúa của chúng ta và là Đấng Cứu Thế của chúng ta đã được hạ sinh cho hết mọi người, thế nhưng không phải hết mọi người đã đón nhận Người” (4:12). Đến đây sáng tỏ ý nghĩa của biểu hiệu ánh sáng được áp dụng vào việc hạ sinh của Chúa Kitô: nó thể hiện việc Thiên Chúa đặc biệt chúc lành cho giòng dõi Abraham là phúc lành được ấn định bao gồm tất cả mọi dân tộc trên trái đất này nữa.

 

Biến cố Phúc Âm chúng ta đang tưởng niệm về Việc Hiển Linh – việc các Vị Đạo Sĩ Chiêm Gia viếng thăm Con Trẻ Giêsu ở Bêlem – như thế đưa chúng ta trở về với cội nguồn lịch sử của Dân Chúa, tức là về với ơn gọi của Abraham. Chúng ta đang ở Chương 12 của Sách Khởi Nguyên. Mười một chương đầu như là những bức đại bích họa trả lời cho một số vấn đề nống cốt của nhân loại chẳng hạn như đâu là nguồn gốc của vũ trụ cũng như của loài người? Sự dữ bởi đâu mà có? Tại sao lại có những thứ ngôn ngữ và nền văn minh khác nhau? Trong số những trình thuật được Thánh Kinh mở đầu, có “giao ước” đầu tiên Thiên Chúa thực hiện với Noe sau hồng thủy. Nó là một giao ước phổ quát liên quan tới toàn thể nhân loại: một giao ước mới với gia đình Noe đồng thời cũng là giao ước với “tất cả những gì là xác thịt”. Bởi thế, trước khi Abraham được kêu gọi, đã có một bức đại bích họa khác rất quan trọng để có thể hiểu được ý nghĩa của Lễ Hiển Linh, đó là bức đại bích họa Tháp Babel. Sách thánh nói rằng ngay từ ban đầu, “toàn thể trái đất  chỉ có một ngôn ngữ và ít lời nói” (Gen 11:1). Thế rồi con người đã nói: “Nào, chúng ta hãy xây cho mình một thành phố, và một cái tháp vươn lên tới các tầng trời để chúng ta được lưu danh muôn thuở, kẻo chúng ta bị phân tán di khắp mặt đất này” (Gen 11:4). Hậu quả của thứ tội ngạo mãn  kiêu hãnh này, tương tự như tội của Adong và Evà, đó là tình trrạng lẫn lộn về ngôn ngữ và tình trạng phân tán của nhân loại trên khắp trái đất này (x Gen 11:7-8). Đó là ý nghĩa của “Babel” và là một thứ bị nguyền rủa, giống như việc bị tống khứ ra khỏi địa đường trần thế vậy.

 

Tới đây, qua ơn gọi của Abraham, câu truyện phúc lành được bắt đầu: đó là khởi đầu cho dự án lớn lao của Thiên Chúa trong việc làm cho nhân loại thành một gia đình duy nhất nhờ giao ước  với một dân tộc mới, được Ngài tuyển chọn để trở thành phúc lành giữa tất cả mọi dân nước (x Gen 12:1-3). Dự án thần linh này vẫn còn đang được áp dụng: Nó đạt đến  tuyệt đỉnh nơi mầu nhiệm Chúa Kitô. Bởi vậy mà “thời sau hết” đã bắt đầu, ở chỗ, dự án này đã hoàn toàn được tỏ hiện và được nên  trọn nơi Đức Kitô, thế nhưng cần phải được lịch sử loài người chấp nhận, một lịch sử bao giờ cũng là lịch sử cũa lòng trung thành về phần  Thiên Chúa, song tiếc thay cũng là lịch sử của việc bất trung về phía loài người chúng ta. Chính Giáo Hội, kho tàng chất chứa phúc lành này, là thánh mà lại được kết hợp bởi các tội nhân, có đặc tính căng thẳng giữa “cái đã rồi’ và “cái chưa xong”. Vào thời điểm viên trọn, Chúa Giêsu Kitô đã đến để làm cho giao ước ấy nên trọn: chính Người, Thiên Chúa thật và là người thật, là Bí Tích cho lòng trung thành của Thiên Chúa đối với dự án cứu độ của Ngài giành cho toàn thể nhân loại, cho tất cả chúng ta.

 

Việc các Đại Sĩ Chiêm Gia từ Phương Đông đến Bêlem  để tôn thờ Đấng Thiên Sai mới sinh là một dấu hiệu tỏ mình của Vị Vua hoàn vũ này trước chư dân cũng như trước tất cả những ai tìm kiếm chân lý. Nó là khởi đầu của một hướng động ngược lại với hướng động của tháp Babel, tức từ tình trạng lẫn lộn đến tình trạng thấu hiểu, từ tình trạng phân tán đến tình trạng hòa giải. Như thế, chúng ta nhận thức được cái liên hệ giữa Hiển Linh và Hiện Xuống, ở chỗ, nếu Việc Giáng Sinh của Chúa Kitô, Đấng là Đầu, cũng là việc Hạ Sinh của Giáo Hội, Thân Mình của Người, chúng ta có thể thấy ba Nhà Đạo Sĩ Chiêm Gia như là thành phần được liên kết với thành phần còn sót lại của Yến Duyên, tiên báo một dấu hiệu cả thể của một “Giáo Hội đa ngôn ngữ” do Thánh Linh thực hiện 50 ngày sau Phục Sinh. Tình yêu thủy chung và kiên trì của Thiên Chúa không bao giờ bị hụt hẫng nơi giáo ước của Ngài từ đời nọ đến đời kia là một “mầu nhiệm” được Thánh Phaolô nói tới trong các Bức Thư của ngài cũng như trong đoạn của Bức Thư gửi Giáo Đoàn Êphêsô vừa được công bố, ở chỗ, vị Tông Đồ này nói rằng mầu nhiệm ấy “được tỏ cho tôi biết qua mạc khải” (Eph 3:3).

 

“Mầu nhiệm” về lòng trung thành này của Thiên Chúa là những gì tạo nên niềm hy vọng cho lịch sử. Dĩ nhiên là nó ngược lại với những chiều hướng chia rẽ và chuyên chế bạo tàn làm tổn thương nhân loại bởi tội lỗi cũng như bởi những thứ xung đột của lòng vị kỷ. Giáo Hội trong giòng lịch sử đang phục vụ cho “mầu nhiệm” phúc lành cho toàn thể nhân loại này. Giáo Hội hoàn toàn thực hiện sứ vụ của mình nơi mầu nhiệm trung thành này của Thiên Chúa chỉ khi nào Giáo Hội phản ảnh ánh sáng của Đức Kitô là Chúa trong bản thân mình, nhờ đó giúp cho chư dân trên thế giới tiến tới hòa bình và tiến bộ đích thực. Thật vậy, Lời của Thiên Chúa được mạc khải qua Tiên Tri Isaia vẫn còn tiếp tục được áp dụng, đó là: “tối tăm sẽ bao trùm trái đất, và tăm tối dầy đặc bao phủ chư dân ; thế nhưng Chúa sẽ xuất hiện trên các người, và vinh quang của Ngài sẽ tỏ hiện trên các người” (Is 60:2). Những gì vị tiên tri này loan báo ở Giêrusalem đã được nên trọn nơi Giáo Hội của Chúa Kitô: “các quốc gia sẽ đến với ánh sáng của ngươi và các vua chúa sẽ đến với ánh quang rạng ngời của việc ngươi xuất hiện” (Is 60:3). 

 

Với Chúa Giêsu Kitô, phúc lành của Anbraham đã được vươn tới tất cả mọi dân nước, tới Giáo Hội hoàn vũ như là một tân Yến Duyên đón nhận nơi mình toàn thể nhân loại. Tuy nhiên, những gì vị tiên tri này nói cũng đúng với cả ngày nay nữa ở nhiều ý nghĩa: “Tối tăm day đặc đang bao trùm chư dân” và lịch sử của chúng ta. Thật vậy, không thể nói rằng “việc toàn  cầu hóa” là những gì đồng nghĩa với “trật tự của thế giới” – mà là hoàn toàn ngược lại. Những thứ xung khắc trong việc nắm ưu thế về kinh tế và tích trữ những nguồn năng lượng, nước nôi và các thứ nguyên liệu là những gì cản trở công cuộc của tất cả những ai đang nỗ lực ở mọi lãnh vực để thiết dựng một thế giới công chính và vững vàng. Cần phải hy vọng hơn nữa, một niềm hy vọng sẽ trở thành khả dĩ khi coi công ích của tất cả mọi người hơn tất cả những thứ xa xỉ của một số ít người và chú ý tới tình trạng nghèo khổ của một số nhiều người. “Niềm hy vọng cao cả này chỉ có thể là Thiên Chúa… chứ không phải bất cứ một thần linh nào khác, thế nhưng lại là vị Thiên Chúa có một dung nhan con người” (Thông Điệp Spe Salvi, 31): Vị Thiên Chúa tỏ mình ra nơi Con Trẻ ở Bêlem và nơi Đấng Tử Giá và Phục Sinh. Niềm hy vọng lớn lao nếu có thì cần phải kiên  trì trong tình trạng điều độ. Nếu thiếu đi niềm hy vọng thực sự thì hạnh phúc chỉ tìm thấy nơi việc  say sưa chè chén, nơi tình trạng thừa thãi, nơi những gì là thái quá, và chúng ta đi đến chỗ hủy hoại đi bản thân mình và thế giới. Bởi thế, điều độ chẳng những là một kỷ cương về khổ chế mà còn kà một đường lối cứu độ cho nhân loại nữa. Như vậy hiển nhiên là chỉ bằng việc chấp nhận lối sống điều độ, được kèm theo bằng một nỗ lực nghiêm chỉnh đối với vấn đề phân phối đồng đều tình trạng giầu thịnh, mới có thể thiết lập một trật tự phát tiển chân chính và khả trợ. Đó là lý do chúng ta cần người ta nuôi dưỡng niềm hy vọng cao cả, nhờ đó có lòng can đảm lớn lao: một lòng can đảm của ba Đạo Sĩ Chiêm Gia, những người đã thực hiện một cuộc hành trình dài theo đuổi ngôi sao  để có thể bái quì trước một Con Trẻ mà dâng lên Người những quà tặng quí báu. Tất c ả chúng ta cần đến lòng can đảm này, một lòng can đảm gắn liền với niềm hy vọng mãnh liệt. Chớ gì Mẹ Maria xin cho chúng ta ơn ấy, khi đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trần thế bằng việc bảo bọc chở che từ mẫu của Mẹ. Amen!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2008/documents/hf_ben-xvi_hom_20080106_epifania_en.html 

 

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


Phần I - Tổng Quan về Việc Thành Thật Sùng Kính Đức Mẹ

 

Chương Một: Tôn Sùng Mẹ Maria - Cần Thiết 

 

III. Nhng Thành Qu

 

 

37.          Chúng ta cn phi minh nhiên đúc kết nhng gì tôi va nói: Th Nht, M Maria đã được Thiên Chúa ban cho quyn ch tr rng ln trên các linh hn tuyn chn. Bng không, M không th làm nơi cư ng ca M nơi h như Thiên Chúa Cha đã ch th cho M thc hin, và M cũng không th cưu mang h, nuôi dưỡng h, và làm cho h được sng đời đời vi tư cách làm m ca h. Bng không, h không th tr thành gia sn ca M, làm s hu ca M, và M không th hình thành h trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu trong h. Bng không, M không th cy vào lòng h nhng gc r nhân đức ca M, cũng không th tr thành cng tác viên bt kh phân ly ca Chúa Thánh Thn trong tt c nhng vic làm ca ân sng y. Tôi xin lp li, M không làm được mt s gì trong nhng s y, tr phi M được Đấng Toàn Năng ban cho quyn hn và quyn bính trên các linh hn ca h. Khi ban cho M quyn năng trên Người Con duy nht theo bn tính ca mình, Thiên Chúa cũng đã ban cho M quyn năng trên thành phn con cái được Ngài tha nhn – không phi nhng gì liên quan ti phn xác ca h – nhng gì không đáng k lm – mà là nhng gì liên quan ti linh hn ca h.

 

38.          M Maria là N Vương tri đất bi ân sng, như Chúa Giêsu là vua theo bn tính và bng vic chiến thng. Thế nhưng, như vương quc ca Chúa Giêsu Kitô hin hu chính yếu là nơi tâm can hay trong ni tâm ca con người, theo li Phúc Âm “Vương quc ca Thiên Chúa trong các người” thế nào, thì vương quc ca Đức Trinh N chính yếu cũng nơi ni tâm ca con người, tc trong linh hn h vy. Chính trong các linh hn mà M được vinh hin vi Con M, hơn là nơi bt c mt to vt hu hình nào khác. Bi vy mà, như các thánh, chúng ta có th gi M là N Vương các cõi lòng.

 

39.          Sau na, chúng ta cn phi kết lun rng, là nhng gì cn thiết đối vi Thiên Chúa như mt th  cn thiết được gi là ‘gi định’, (tc vì Thiên Chúa mun thế), Đức Trinh N li càng cn thiết cho con người trong vic đạt ti cùng đích ca h. Bi thế, chúng ta không được t lòng sùng kính M mt mc độ ging như lòng tôn sùng các v thánh khác, như là mt điu hoàn toàn tùy nghi.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ


 
 
Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html

 

Chương I


 

3. Các Vị Linh Mục (29-33)


29. Các vị Linh Mục, với tư cách là những công sự viên có khả năng, khôn ngoan và bất khả thiếu của hàng Giám Mục (66), được kêu gọi để phục vụ Dân Chúa, mặc dù mang những trách vụ khác nhau, làm nên một hàng giáo sĩ duy nhất với vị Giám Mục của mình (67). “Ở mỗi một cộng đồng tín hữu địa phương, một cách nào đó, các vị hiện diện hóa vị Giám Mục là đấng các vị liên kết bằng niềm tin tưởng và lòng quảng đại; theo hàng ngũ của mình, các vị chia sẻ các nhiệm vụ cùng với những mối quan tâm của ngài, và thực hiện những điều này nơi hoạt động hằng ngày của các vị”. “Vì được tham dự vào Thiên Chức Linh Mục và sứ vụ ấy, các vị Lnh Mục phải nhìn nhận Giám Mục thực sự như là người cha của mình và kính cẩn vâng lời ngài” (68). Ngoài ra, “hằng quan tâm tới thiện ích của con cái Thiên Chúa, các vị cần phải tìm cách góp phần vào việc mục vụ của toàn giáo phận, thực sự là vào việc mục vụ của toàn thể Giáo Hội” (69).


30.     Phận sự “đặc biệt thuộc các vị Linh Mục trong việc cử hành Thánh Thể” là một phận sự cao cả, “vì các vị có trách nhiệm nhân danh Chúa Kitô đóng vai trò chủ tế Thánh Thể và tỏ ra những chứng từ cùng những việc phục vụ mối hiệp thông, chẳng những cho cộng đồng dân Chúa trực tiếp tham phần vào việc cử hành, mà còn cho Giáo Hội hoàn vũ, một mối hiệp thông bao giờ cũng được thể hiện nơi việc cử hành Thánh Thể. Ở đây cần phải than tiếc, nhất là những năm sau cuộc canh tân phụng vụ hậu Công Đồng Vaticanô II, vì hậu quả của một cảm quan sáng tạo và thích ứng lầm lẫn, đã xẩy ra một số những thứ lạm dụng từng trở thành nguyên cớ gây khổ tâm cho nhiều người” (70).


31.     Để giữ những lời hứa long trọng được tuyên thệ trong nghi thức Chịu Chức Thánh và được lập lại mỗi năm trong Thánh Lễ Truyền Dầu, các vị Linh Mục hãy cử hành “các mầu nhiệm của Chúa Kitô một cách sốt sắng và trung thực để chúc tụng Thiên Chúa và thánh hóa dân Kitô hữu, theo truyền thống của Giáo Hội, nhất là về Hiến Tế Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải” (71). Các vị không được lệch lạc khỏi ý nghĩa sâu xa nơi thừa tác vụ của các vị bằng cách làm hư hoại việc cử hành phụng vụ, ở chỗ thay đổi hay bỏ đi hoặc chủ quan thêm thắt (72). Vì như Thánh Ambrôsiô nói: “Không phải là ở nơi chính mình…. mà là nơi chúng ta Giáo Hội đã bị tổn thương. Chúng ta hãy coi chừng đừng để cho việc bại hoại của chúng ta gây tổn thương Giáo Hội” (73). Vậy đừng để cho Giáo Hội Chúa bị tổn thương bởi các vị Linh Mục đã trân trọng dấn thân sống thừa tác vụ của các vị. Thật vậy, dựa vào thẩm quyền của vị Giám Mục, chớ gì các vị luôn tìm cách ngăn ngừa những người khác nữa khỏi gây ra những thứ lệch lạc này.


32.     “Chớ gì vị Linh Mục Giáo Xứ cố gắng để làm sao cho Thánh Thể Cực Linh trở thành tâm điểm của cộng đồng tín hữu giáo xứ; chớ gì ngài hoạt động để làm sao bảo đảm được rằng tín hữu Chúa Kitô được nuôi dưỡng bằng việc sốt sắng cử hành các Bí Tích, nhất là được thường xuyên lãnh nhận Thánh Thể Cực Linh và Bí Tích Hòa Giải; thêm vào đó, chớ gì ngài bảo đảm được rằng người tín hữu biết hăng hái cầu nguyện trong gia đình của họ nữa, và tham dự một cách ý thức và chủ động vào Phụng Vụ Thánh là vấn đề mà vị Linh Mục Giáo Xứ, theo thẩm quyền của vị Giám Mục giáo phận, buộc phải điều hành và coi chừng trong giáo xứ của mình hầu ngăn ngừa không để xẩy ra những thứ lạm dụng” (74). Mặc dù ngài cần phải được các phần tử khác nhau thuộc thành phần tín hữu Chúa Kitô giúp đỡ một cách thích hợp vào việc sửa soạn cho tốt đẹp những việc cử hành phụng vụ, ngài vẫn không được nhường cho họ một cách nào đó nơi những điều chỉ xứng hợp cho phần vụ của riêng ngài.


33.     Sau hết, tất cả mọi “vị Linh Mục đều phải đi đến chỗ hăng say gieo vãi một cách thích hợp những kiến thức và khả năng phụng vụ của các vị, để qua thừa tác vụ về phụng vụ của các vị, Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần được chúc tụng một cách tuyệt diệu hơn bao giờ hết bởi cộng đồng Kitô hữu được trao phó cho các vị” (75). Nhất là chớ gì các vị được đầy những cảm thức ngất ngây là những gì Mầu Nhiệm Vượt Qua, khi được cử hành, thấm nhập vào tâm can tín hữu (76).

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                                                            

TÒA TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI

Kính gửi:

Cha Nguyễn thanh Liêm

Chủ tịch Liên đoàn Công giáo Việt nam tại Hoa kỳ

Hà nội ngày 10-01-2008

Thưa Cha,

Xin cám ơn cha đã đến thăm tòa Tổng giám mục Hà nội, gặp gỡ chia sẻ với các linh mục, tu sĩ, chủng sinh và nhất là tham dự giờ cầu nguyện với giáo dân trước Tòa Khâm Sứ. Sự hiện diện của cha nói lên tình hiệp thông sâu xa giữa bà con giáo dân hải ngoại với Giáo hội tại quê nhà.

Cử chỉ của cha nói lên quyết tâm xây dựng sự hiệp thông trong Giáo hội. Đó là một ước nguyện tốt đẹp và cần thiết cho sự sống của Giáo hội. Thiện chí của cha chắc chắn sẽ được nhiều người đồng tình hưởng ứng.

Cầu chúc nhiệm kỳ của cha sẽ đem lại nhiều lợi ích cho người Công giáo Việt nam ở khắp nơi.

Xin Chúa ban phúc lành cho Cha!

+Giuse Ngô quang Kiệt

Tổng giám mục Hà nội

 

Hoa Kỳ, ngày 9 tháng 01, 2008 

Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ

Hiệp Thông với Giáo Hội Việt Nam               

Kính thưa:

 

- Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam

- Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn

- Đức Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể

- Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt,

 

Trong chuyến đi thăm viếng Ban Thường Vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam từ ngày 2 tháng 01, 2008 đến ngày 8 tháng 01, 2008 vừa qua, đồng thời tìm hiểu thực tế tình hình các sinh hoạt mục vụ, giáo dục và từ thiện tại các cơ sở của Giáo Hội VN, cũng như tham dự công tác nhân đạo: giúp đỡ trực tiếp những nạn nhân lũ lụt do Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ phát động, chúng con đã được Đức Cha Chủ Tịch, Đức Hồng Y và quý Đức Tổng tiếp đón thật chu đáo và thân tình. Xin chân thành cám ơn.

 

Qua những gì Đức Cha Chủ Tịch, Đức Hồng Y và quý Đức Tổng, trong tinh thần hiệp thông, đã chia sẻ cũng như được tận mắt chứng kiến, chúng con nhận thấy những nỗ lực và hy sinh không mệt mỏi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, nhất là của hàng giáo phẩm: Đức Hồng Y; Giám Mục; Linh Mục; Phó Tế; nam nữ Tu Sĩ; và toàn thể giáo dân, trong các các chương trình mục vụ giúp đỡ người nghèo khổ, khuyết tật, bị bệnh AIDS, các chương trình mục vụ và giáo dục gia đình, cho thanh thiếu niên, người lầm lỡ, cho người di cư v.v...  Chúng con đánh giá cao những cống hiến và hy sinh trong âm thầm từ bao nhiêu năm qua của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

 

Bên cạnh đó, chúng con cũng được chia sẻ những thao thức và trăn trở trong việc gặp các khó khăn và trở ngại của vấn đề thiếu thốn nhân sự, tài chánh và cơ sở trong việc sinh hoạt và phục vụ của Giáo Hội Công GiáoViệt Nam, chỉ với mục đích mang lại tiện ích và phúc lợi cho xã hội và người dân. Những khó khăn này rất tiếc vẫn còn tồn tại, và vẫn chưa được giải quyết tốt đẹp vì hoàn cảnh chủ quan và khách quan.

 

Nhân dịp này, Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ xin hoàn toàn hiệp thông, và kêu gọi mọi thành phần trong Liên Đoàn, cầu nguyện theo ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đặc biệt của Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, và toàn thể Linh Mục, nam nữ Tu Sĩ và giáo dân thuộc giáo phận, mong sao việc giao hoàn Tòa Khâm Sứ sớm thành hiện thực, để Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Giám Mục Hà Nội có văn phòng và cơ sở hoạt động phục vụ tốt đẹp và hữu hiệu hơn.

 

Chúng con trân trọng quyết định của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong khóa họp vừa qua, từ nay sẽ chủ động và mời gọi tất cả thành phần trong nước tự giải quyết những khó khăn. Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ trong tình con thảo, chỉ mong tự nguyện đóng góp phần nào, nhân lực và tài lực, cho các chương trình của Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt trong các lãnh vực Mục Vụ, Giáo Dục và Y Tế, để nói lên sự HIỆP NHẤT và HIỆP THÔNG với Giáo Hội Mẹ Việt Nam.

 

Nguyện xin Thiên Chúa và Đức Mẹ La Vang Việt Nam chúc lành cho Đức Cha Chủ Tịch, Đức Hồng Y, quý Đức Tổng, quý Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, nam nữ Tu Sĩ và toàn thể giáo dân Việt Nam trong năm mới luôn được an bình và sức khỏe.

 

Trân trọng,

Rev. Giuse Nguyễn Thanh Liêm

Chủ Tịch

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ