CHÚC MỪNG TÂN NIÊN 2008

 

Quí  Đức Cha, Quí Đức Ông, Quí Cha, Quí Phó Tế, Quí Nam Nữ Tu Sĩ

và toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa  

được hồn an, xác mạnh, đời vui, sống thánh.

trong Mùa Xuân Muôn Thuở  Maria     

 

 

 THỨ TƯ 2/1/2008

  TRƯỚC LỄ  HIỂN LINH

 

TIN Tưởng Giáo Hội

 ĐTC Biển Đức XVI:

Về Mẹ Thiên Chúa và Ngày Hòa Bình Thế Giới

 CẬY Nhờ Thánh Mẫu

  Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort):

Bí Mật Maria (Kinh Cầu Chúa Thánh Thần) - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

MẾN Yêu Thánh Thể

Thánh Giáo Phụ Basil

                  Cuộc đời và giáo huấn                       

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

Về Mẹ Thiên Chúa và Ngày Hòa Bình Thế Giới

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI:

Huấn Từ Nguyện Kinh Truyền Tin Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1/2008

 

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Chúng ta đã bắt đầu một năm mới và tôi chúc mọi người được an bình và thịnh vượng. Tôi phó dâng nó cho sự chở che trời cao của Đức Trinh Nữ, Vị được phụng vụ hôm nay kêu cầu bằng một tước hiệu quan trọng nhất là Mẹ Thiên Chúa. Bằng tiếng “xin vâng” Mẹ thưa với thiên  thần vào ngày Truyền Tin, Vị Trinh Nữ này bởi Thánh Thần đã thụ thai trong lòng dạ của mình Lời hằng hữu, và Mẹ đã hạ sinh Người vào đêm Giáng Sinh.

 

Ở Bêlem, vào thời điểm viên trọn, Chúa Giêsu đã được Mẹ Maria sinh ra: Con Thiên Chúa đã hóa thân làm người vì phần  rỗi của chúng ta, và vị Trinh Nữ này thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa. Tặng ân cao cả này được ban cho Mẹ Maria không phải chỉ giành riêng một mình cho Mẹ mà là cho tất cả chúng ta. Thật vậy, nơi đức trinh nguyên phong phú của Mẹ, Thiên Chúa đã ban “cho con người những phúc lộc của ơn cứu độ đời đời… vì nhờ Mẹ chúng ta đã lãnh nhận tác giả sự sống” (cf. collect prayer).

 

Mẹ Maria, sau khi đã cống hiến xác thịt khả tử cho Người Con duy nhất của Thiên Chúa, đã trở thành mẹ của thành phần tín hữu và toàn thể nhân loại.

 

Chính vì nhân danh Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và nhân loại, mà 40 năm qua, vào ngày đầu tiên trong năm, Giáo Hội đã cử hành Ngày Hòa Bình Thế Giới. Đề tài được chọn cho năm  nay đó là “Gia Đình Nhân Loại, một Cộng Đồng Hòa Bình”.

 

Cùng một tình yêu xây dựng và bảo tồn mối hiệp nhất nơi gia đình, một khối xây dựng quan trọng của xã hội, cũng giúp vào những mối liên hệ của tình đoàn kết và sự hợp tác giữa các dân tộc trên thế giới là những phần tử của một gia đình nhân loại duy nhất.

 

Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhắc nhở điều này khi khẳng định rằng: “Cộng đồng của tất cả mọi dân tộc là một cộng đồng duy nhất, có một nguồn gốc duy nhất…. Nó cũng chỉ có một cùng đích duy nhất là Thiên Chúa” (Nostra Aetate, 1). Bởi thế, nơi gia đình, xã hội và hòa bình có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau.

 

Tôi đã viết trong sứ điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới hôm nay là “Bởi thế, bất cứ ai, cho dù không biết, mưu đồ phá hoại cơ cấu gia đình là người tác hại đến hòa bình nơi toàn thể cộng đồng này, quốc gia cũng như quốc tế, vì họ làm yếu kém đi những gì thực sự là tác nhân căn bản của hòa bình” (khoản 5).

 

Cũng thế, “chúng ta không sống với nhau chỉ vì tình cờ; tất cả c hung ta đang tiến b ước  trên cùng một con đường như những con người nam nữ, bởi đó như là anh chị em với nhau” (khoản 6). Mỗi người chúng ta thật sự cần phải đảm nhận trách nhiệm trước nhan Thiên Chúa và nhìn nhận nơi Ngài nguồn mạch nguyên thủy cho việc hiện hữu của riêng chúng ta cũng như của những người khác.

 

Chớ gì việc ý thức này làm bừng lên quyết tâm thực hiện việc làm cho nhân loại trở thành một cộng đồng hòa bình đích thực, được chi phối bởi “một luật lệ chung… một thứ luật lệ bảo trì tự do chân thực chứ không phải hứng khởi mù quáng, và bảo vệ thành phần yếu kém khỏi bị kẻ mạnh áp bức” (khoản 11).

 

Chớ gì Mẹ Maria, Mẹ của Vị Hoàng Tử Bình An, hỗ trợ Giáo Hội trong việc không ngừng phục vụ cho hòa bình của Giáo Hội, và giúp cho cộng đồng chư quốc, thành phần chư quốc sẽ cử hành 60 năm Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền, bắt đầu tiến bước trên con đường đoạn kết đích thực và hòa bình bền vững.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/1/2008

 

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

 

Lời Mở Đầu của người dịch

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

Thánh Long Mộng Phố  (Louis Montfort) đã viết một số tác phẩm về Mẹ tuy mỏng nhưng rất hay. Chẳng hạn cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (đã được Lm Nguyễn Tri Ân, OP, dịch năm 1957 và nguyệt san Dân Chúa Mỹ Châu xuất bản ở hải ngoại năm 1980), Bí Mật Kinh Mân Côi (đã được người dịch này chuyển ngữ và xuất bản từ năm 1994 và đã tái bản năm 1997 và 2002) và Bí Mật Maria. Sở dĩ những tác phẩm Thánh Mẫu của thánh Long Mộng Phố rất hay là vì thánh nhân viết với tất cả tâm huyết của mình, với tất cả kinh nghiệm sống của Mẹ. Sở dĩ rất hay là vì thánh nhân viết theo thần hứng, đôi khi đã nói tiên tri, như trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria. Sở dĩ rất hay là vì ý tưởng của thánh nhân hết sức xuất sắc và chuyên biệt có một không hai. Sở dĩ rất hay là vì chẳng những vẫn còn hợp thời và càng ngày càng cần thiết. Một trong những hoa trái trổ sinh từ một trong những tác phẩm Thánh Mẫu của thánh nhân là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị đã đọc, thực hành và lấy khẩu hiệu Giáo Hoàng “tất cả của con là của Mẹ” từ tác phẩm Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria. Đó là lý do Màn Điện Toán Thời Điểm Maria, kể từ Lễ Trái Tim Mẹ, 8/6/2002, Quan Thày của Nhóm Hiệp Sĩ Trái Tim Mẹ (năm thứ 5), bắt đầu phổ biến tác phẩm Bí Mật Maria của thánh nhân, một tác phẩm, như được biết, chưa hề được dịch sang Việt Ngữ. Tuy nhiên, vì ngăn trở, tác phẩm này và tác phẩm Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria đã không được liên tục phổ biến. Cho đến nay, nhân dịp vừa khai mạc thời điểm mừng kỷ niệm Biến Cố Lộ Đức 150 năm, 1858-2008, được bắt đầu từ Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/2007 đến 8/12/2008, Thời Điểm Maria tái phổ biến lại từ đầu và (lần này) liên tục cho tới hết hai tác phẩm Thánh Mẫu thời danh và khẩn trương hơn bao giờ hết hiện nay. Xin kính mời Quí Thân Hữu của Màn Điện Toán Thời Điểm Maria theo dõi.
 

 

Kinh Cầu Chúa Thánh Thần

 

Xin Chúa thương xót chúng con.

Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.

Xin Chúa thương xót chúng con.

Lạy Cha là Đấng Toàn Năng, xin thương xót chúng con.

Lạy Chúa Giêsu, Con Hằng Hữu của Chúa Cha, Đấng Cứu Thế, xin cứu độ chúng con.

Lạy Thần Linh của Chúa Cha và Chúa Con, là sự sống vô tận của Chúa Cha và Chúa Con, xin thánh hóa chúng con.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin nghe lời chúng con.

Xin Chúa Thánh Thần, Đấng nhiệm sinh từ Chúa Cha và Chúa Con, thấm nhập vào tâm trí chúng con.

Xin Chúa Thánh Thần, Đấng ngang hàng với Chúa Cha và Chúa Con, thấm nhập vào tâm trí chúng con.

 

Ngài là Hứa Hẹn của Thiên Chúa Ngôi Cha

- xin thương xót chúng con (từ đây xin thưa cùng câu này),

Ngài là Tia sáng thiên đình,

Ngài là Tác Giả của tất cả mọi điều thiện hảo,

Ngài là Nguồn Nước thiên cung,

Ngài là Ngọn Lửa thiêu đốt,

Ngài là Đức Ái nhiệt tình,

Ngài là Dầu Xức thiêng liêng,

Ngài là Tinh Thần yêu thương và chân thật,

Ngài là Tinh Thần khôn ngoan và thâm hiểu,

Ngài là Tinh Thần huấn dụ và dũng mạnh,

Ngài là Tinh Thần minh thức và thảo hiếu,

Ngài là Tinh Thần kính sợ Chúa,

Ngài là Tinh Thần hồng ân và nguyện cầu,

Ngài là Tinh Thần bình an và nhu hiền,

Ngài là Tinh Thần nết na và thơ ngây,

Ngài là Thánh Thần An Ủi,

Ngài là Thánh Thần Thánh Hóa,

Ngài là Thánh Thần điều khiển Giáo Hội,

Ngài là Tặng Ân của Thiên Chúa Đấng Tối Cao,

Ngài là Thần Linh tràn lan vũ trụ,

Ngài là Thần Linh thừa nhận con cái Thiên Chúa,

 

Lạy Chúa Thánh Thần, xin khiến cho chúng con biết ghê tởm tội lỗi.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin đến canh tân bộ mặt trái đất.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin chiếu giãi ánh sáng của Chúa vào linh hồn chúng con.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ghi khắc lề luật của Chúa trong tâm trí chúng con.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa Tình Yêu của Chúa.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin mở cho chúng con kho tàng hồng ân của Chúa.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con cầu nguyện cho nên.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin soi động chúng con bằng những thiên hứng của Chúa.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin dẫn dắt chúng con đi theo con đường cứu độ.

Lạy Chúa Thánh Thần, ban cho chúng con kiến thức nào cần thiết nhất.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin tác động chúng con biết thực hiện điều thiện hảo.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban cho chúng con công nghiệp của tất cả mọi nhân đức.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin làm cho chúng con kiên trì sống công chính.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin trở nên phần thưởng đời đời cho chúng con.

 

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin sai Thánh Thần Chúa đến với chúng con.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin đổ xuống hồn chúng con những tặng ân của Chúa Thánh Thần.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban cho chúng con Thần Linh khôn ngoan và thảo hiếu.

 

Xướng:  Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Hãy tràn đầy lòng trí của tín hữu Chúa.

Đáp:       Và thắp lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu của Chúa.

 

Chúng ta hãy cầu nguyện.

 

Ôi Chúa Cha từ bi thương xót, xin Thần Linh của Chúa hãy sáng soi, nung nấu và thanh tẩy chúng con, để Ngài có thể thấu nhập chúng con bằng sương sa thiên đình của Ngài và làm cho chúng con được sinh hoa kết trái nơi những việc thiện hảo; nhờ Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Đấng cùng Cha và hiệp nhất với Thần Linh, muôn đời hằng sống và hiển trị. Amen.

 

(Kinh Cầu Chúa Thánh Thần này được trích dịch từ cuốn Preparation for Total Consecration according to Saint Louis Marie de Montfort, Montfort Publications, Bay Shore, New York, 6th Printing 2001, pgs 21-23 – Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, Ngày Đầu Năm Dương Lịch 1/1/2003)

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Thánh Giáo Phụ Basil

 

 Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI:

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 4/7+1/8/2007

trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

 

"Thánh Basil đã sống hoàn toàn trung thành phục vụ Giáo Hội nơi thừa tác vụ giáo phẩm đa dạng của mình"

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Hôm nay chúng ta nhớ đến một trong những vị đại Giáo Phụ cũa Hội Thánh, đó là Thánh Basil, một vị thánh được các bản văn phụng vụ Byzantine xác nhận như là một “ánh sáng của Giáo Hội”. Ngài là một vị đại giám mục của thế kỷ thứ bốn, được cả Giáo Hội Đông và Tây hết lòng ca ngợi vì đời sống thánh đức của ngài, về tín lý tuyệt hảo của ngài và về việc tổng hợp hài hòa nơi những khả năng suy tư và thực tiễn của ngài.

 

Ngài được sinh vào đời khoảng năm 330 trong một gia đình của những vị thánh, “một Giáo Hội tại gia thực sự”, những con người đã sống trong một bầu không khí sâu sa đức tin. Ngài đã thi hành việc học vấn của ngài với những vị hày giỏi nhất ở Nhã Điển và Constantinople. Không thỏa mãn với những thành đạt trần thế của mình, và ý thức được việc mất mát thời giờ nơi những theo đuổi vô bổ như thế, chính ngài đã tự thú rằng: “Vào một ngày kia, chỗi dạy sau một giấc ngủ say, tôi đã hướng về ánh sáng tuyệt vời của chân lý Phúc Âm… và than van cho cuộc đời khốn nạn của mình” (cf. Letters 223: PG 32, 824a). Được Chúa Kitô thu hút, tôi đã bắt đầu chỉ tìm kiếm Người và lắng nghe Người mà thôi (cf. "Moralia" 80, 1: PG 31, 860bc).

 

Ngài đã dứt khoát hiến mình cho đời sống đan tu trong nguyện cầu, cho việc suy niệm Thánh Kinh và những văn kiện của các Giáo Phụ của Hội Thánh, cũng như cho việc thưc thi đức bác ái (cf. Letters 2 and 22), theo gương của bà chị của ngài là Thánh Macrina, vị cũng đã sống đời khổ chế đan tu. Sau đó ngài được thụ phong linh mục, để rồi vào năm 370 làm giám mục Caesarea ở Cappadocia là nơi ngày nay gọi là Thổ Nhĩ Kỳ.

 

Qua việc giảng dạy và viết lách, ngài đã hăng say thi hành những hoạt động mục vụ, thần học và văn  chương. Bằng một sự quân bình khéo léo, ngài đã có thể hòa hợp việc phục vụ các linh hồn với việc giành giờ cầu nguyện cùng âm thầm suy niệm. Lợi dụng kinh nghiệm riêng của mình, ngài tỏ ra ưu ái với nhiều “hiệp hội” hay cộng đồng Kitô hữu hiến thân cho Thiên Chúa là những nơi ngài thường đến viếng thăm (cf. Gregory of Nazianzus. "Oratio 43,29 in Laudem Basilii": PG 36,536b). Nhờ các lời lẽ và bản văn của ngài, trong đó có nhiều điều vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay (cf. "Regulae Brevius Tractatae, Proemio": PG 31,1080ab), ngài đã khuyên họ hãy sống và nên  trọn lành. Nhiều người đã trích từ các bản văn của ngài để ấn định những qui chuẩn đan viện cổ thời, bao gồm cả Thánh Biển Đức, vị coi Thánh Basil như là bậc thày của mình (cf. "Regula" 73:5). 

 

Thựa ra, Thánh Basil đã kiến tạo nên một thứ đan tu đặc biệt, không khép mình khỏi Giáo Hội địa phương mà là cởi mở với Giáo Hội địa phương. Các vị đan sĩ của ngài thuộc về Giáo Hội địa phương, các vị là nhân trung sinh động của Giáo Hội này. Đi trước những người khác trong việc tỏ rat rung thành theo Chúa Kitô và không chỉ nơi việc tin tưởng họ còn tỏ ra mạnh mẽ sùng mộ Người – mến yêu Người – nhất là nơi các hoạt động bác ái. Những đan sĩ này, những người thành lập các trường học và nhà thương, để phục vụ thành phần nghèo khổ và cho thấy đời sống Kitô hữu một cách trọn vẹn. Người Tôi Tớ Chúa là Đức Gioan Phaolô II, khi nói về đan viện tu, đã viết rằng: “Nhiều người tin tưởng rằng đan viện tu, một cơ cấu rất ư là quan trọng cho toàn thể Giáo Hội, đã được chính yếu thiết lập qua hết mọi thời đại bởi Thánh Basil – hay, ít là, bản tính của đan viện tu không thể được thiết định hết sức tốt đẹp nếu thiếu việc góp phần quan trọng yếu của Thánh Basil” ("Patres Ecclesiae," 2).

 

Làm giám mục và làm mục tử của một giáo phận rộng lớn, Thánh Basil tỏ ra liên  lỉ quan tâm tới những điều kiện khó khăn về thể lý tín hữu gặp phải; ngài đã lên án các sự dữ; ngài đã hoạt động cho thành phần nghèo khổ và sống ngoài lề xã hội; ngài đã nói chuyện với thành phần cai trị để giảm bớt những khổ đau của dân chúng, nhất là trong những lúc thảm họa; ngài đã tìm kiếm tự do cho Giáo Hội, chống lại những thành phần cầm quyền để bênh vực quyền được tuyên xưng đức tin (cf. Gregory of Nazianzus, "Oratio 43: 48-51 in Laudem Basilii": PG 36,557c-561c). Thánh Basil làm chứng choThiên Chúa, Đấng là tình yêu và đức ái, bằng việc xây cất các bệnh viện cho thành phần cần đến (cf. Basil, Letters 94: PG 32,488bc), hết sức giống như một thành phố xót thương, mang tên “Basiliade” (cf. Sozomeno, "Historia Eccl." 6,34: PG 67, 1387a). Nó đã từng trở thành hứng khởi cho các cơ cấu bệnh viện tân tiến trong việc phục hồi và chữa trị thành phần bệnh nhân.

 

N hận thấy rằng “phụng vụ là tột đỉnh mà hoạt động của Giáo Hội hướng về; đồng thời là nguồn mạch xuất phát tất cả mọi năng lực của Giáo Hội” ("Sacrosanctum Concilium," 10), Thánh Basil,  cho dù quan tâm tới việc bác ái, dấu hiệu cho đức tin, cũng đã trở thành một “phụng vụ canh tân gia” khéo léo (cf. Gregory of Nazianzus, "Oratio 43,34 in Laudem Basilii": PG 36,541c). Ngài đã để lại cho chúng ta một kinh nguyện Thánh Thể tuyệt vời (hay anaphora) là kinh nguyện được gọi theo tên của ngài, và ngài đã góp phần vào việc tổ chức vấn đề cầu nguyện cùng thánh vịnh:

 

Nhờ ngài dân chúng đã yêu mến và biết đến các bài Thánh Vịnh, và tiến tới chỗ cầu nguyện bằng thánh vịnh thậm chí vào giờ khuya (cf. Basil, "In Psalmum" 1,1: PG 29,212a-213c). Như thế chúng ta thấy được rằng phụng vụ, việc tôn thờ và nguyện cầu liên kết với đức bác ái và lệ thuộc lẫn nhau.

 

Với lòng nhiệt thành và can đảm, Thánh Basil đã chống lại thành phần lạc giáo, thành phần chối bỏ rằng Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa như Chúa Cha (cf. Basil, Letters 9,3: PG 32,272a; "Ep." 52: 1-3: PG 32,392b-396a; "Adv. Eunomium" 1,20: PG 29,556c). Cũng thế, ngược lại với những ai chối bỏ thần tính của Thánh Linh, ngài dạy rằng Thần Linh cũng là Thiên Chúa, và “phải được liệt kê với và tôn vinh cùng Chúa Cha và Chúa Con” (cf. "De Spiritu Sancto": SC 17bis, 348). Vì thế mà Thánh Basil là một trong những vị đại Giáo Phụ đã hình thành tín lý về Chúa Ba Ngôi: một Thiên Chúa duy nhất, vì Ngài là tình yêu, Ngài là Thiên Chúa có 3 ngôi, Đấng làm nên mối hiệp nhất sâu xa nhất về hiện hữu, mối hiệp nhất thần linh.

 

Trong tình yêu của mình đối với Chúa Kitô cũng như đối với Phúc Âm của Người, vị đại Giáo Phụ người Cappadocian này cũng đã hoạt động để hàn gắn những chia rẽ trong Giáo Hội (cf. Letters 70 and 243), bằng cách làm việc để tất cả mọi người có thể hoán cải về với Chúa Kitô và lời của Người (cf. "De Iudicio" 4: PG 31,660b-661a) là một quyền năng hiệp nhất mà tất cả mọi tín hữu cần phải tuân phục (cf. ibid. 1-3: PG 31,653a-656c).

 

Tóm lại, Thánh Basil đã sống hoàn toàn trung thành phục vụ Giáo Hội nơi thừa tác vụ giáo phẩm đa dạng của mình. Theo chương trình được ngài phác họa thì ngài đã trở thành “vị tông đồ và thừa tác viên của Chúa Kitô, là vị ban phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa, là người rao giảng tin mừng về Nước Trời, là mô phạm và là khuôn phép của lòng đạo hạnh, là con mắt của thân mình Giáo Hội, là vị mục tử của đàn chiên Giáo Hội, là vị lương y nhân hậu xót thương, là người cha và nuôi dưỡng, là cộng tác viên của Thiên Chúa, là người nông dân của Thiên Chúa và là xây dựng viên đền thờ Thiên Chúa” (cf. "Moralia" 80: 11-20: PG 31: 864b-868b).

 

Đó là chương trình được vị giám mục thánh này cống hiến cho những ai loan báo lời Chúa – hôm qua cũng như hôm nay – một chương trình chính Người dấn thân thực hiện. Vào năm 379, Thánh Basil, chưa đầy 50 tuổi, bị tiêu hao bởi khổ công hoạt động và khổ hạnh, đã về cùng Chúa, “trong niềm hy vọng sự sống trường sinh, nhờ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” ("On Baptism" 1,2,9). Ngài là một con người thực sự sống bằng ánh mắt gắn chặt vào Chúa Kitô, một con người yêu thương tha nhân mình. Tràn đầy niềm hy vọng và hân hoan của đức tin, Thánh Basil cho chúng ta thấy làm thế nào để trở thành những Kitô hữu thực sự.
 

 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/7/2007

 

 

Thánh giáo phụ Basil về Mầu Nhiệm Thiên Chúa

Anh Chị Em thân mến,

 

Sau thời gian nghỉ 3 tuần vừa qua, chúng ta lại tiếp tục các cuộc gặp gỡ Thứ Tư của mình. Hôm nay, tôi chỉ muốn tiếp tục bài giáo lý vừa rồi mà chủ đề là đời sống và các bản văn của Thánh Basil, một vị Giám Mục ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, thuộc miền Tiểu Á, trong thế kỷ thứ 4 sau Chúa Kitô Giáng Sinh. Đời sống và các việc làm của vị đại Thánh này tràn đầy những tư tưởng để suy tư và những giáo huấn vẫn còn thích hợp với chúng ta ngày nay.

 

Trước hết là vấn đề qui chiếu về mầu nhiệm Thiên Chúa, vẫn còn là một qui chiếu ý nghĩa nhất và quan trọng nhất đối với con người. Chúa Cha là “nguyên lý của tất cả mọi sự và là căn nguyên cho hữu thể của tất cả mọi sự hiện hữu, là nguồn mạch của sinh linh” (Hom. 15, 2 de fide: PG 31, 465c); trên hết, Ngài là “Cha của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Anaphora Sancti Basilii). Tiến lên với Thiên Chúa qua các tạo vật của Ngài, chúng ta “nhận thấy được sự thiện hảo và khôn ngoan của Ngài” (Basil, Adversus Eunomium 1, 14: PG 29, 544b).

 

Chúa Con là “hình ảnh của sự thiện hảo và là ấn tín của Cha trong cùng một hình dạng” (cf. Anaphora Sancti Basilii). Bằng việc vâng lời của mình và bằng Cuộc Khổ Nạn của mình, Lời Nhập Thể đã thi hành sứ vụ của mình là Đấng Cứu Chuộc nhân loại (cf. Basil, In Psalmum 48, 8; PG 29, 452ab; cf. also De Baptismo 1, 2: SC 357, 158).

 

Sau hết, ngài đã nói đầy đủ về Chúa Thánh Thần, Đấng ngài đã viết hẳn một cuốn sách. Thánh nhân cho chúng ta thấy rằng vị Thần Linh này làm cho Giáo Hội dậy men, làm cho Giáo Hội tràn đầy tặng ân của Ngài và thánh hóa Giáo Hội.

 

Ánh sáng rạng ngời của mầu nhiệm thần linh được phản ánh nơi con người là hình ảnh của Thiên Chúa, và thăng hóa phẩm vị của con người. Nhìn lên Chúa Kitô, người ta hoàn toàn hiểu được phẩm giá con người.

 

Thánh Basil đã than lên rằng: “Hỡi con người, hãy chú ý đến sự cao cả của mình, bằng cách nhớ lại giá phải trả cho ngươi: hãy nhìn vào giá cứu chuộc của ngươi để thấu hiểu được phẩm giá của mình!” (In Psalmum 48, 8: PG 29, 452b). 

 

Đặc biệt là các Kitô hữu, khi hòa hợp đời sống của mình với Phúc Âm, thì nhận thấy rằng tất cả mọi dân tộc đều là anh chị em; đời sống đóng vai quản gia đối với các sự vật được Chúa ban cho, đó là lý do tại sao mỗi một người có trách nhiệm với kẻ khác, và ai giầu có thực sự cần phải “thừa hành các chỉ thị của Thiên Chúa là Đấng Ân Ban” (Hom 6 de avaritia: PG 32, 1181-1196). Tất cả chúng ta đều phải giúp đỡ nhau và cộng tác với nhau như là các chi thể của một thân thể duy nhất (Ep 203, 3).

 

Về điểm này, ngài đã sử dụng những lời lẽ mạnh mẽ can trường trong các bài giảng của mình. Thật vậy, bất cứ ai muốn yêu thương tha nhân như bản thân mình, theo giới lệnh của Thiên Chúa, “đều phải không có gì hơn tha nhân của mình” (Hom. in divites: PG 31, 281b).

 

Vào những lúc đói kém và thảm họa, vị Giám Mục thánh này đã kêu gọi tín hữu bằng những lời thiết tha “đừng da mãn hơn hoang thú… khi lấy những gì con người có chung hay vơ lấy những gì thuộc về tất cả mọi người” (Hom. tempore famis: PG 31, 325a).

 

Tư tưởng sâu xa của Thánh Basil nổi bật ở câu gợi cảm này: “Tất cả những gì kẻ thiếu thốn cơ cực trông chờ vào bàn tay của chúng ta giống như thể chúng ta trông chờ vào bàn tay của Thiên Chúa khi chúng ta thiếu thốn vậy”.

 

Bởi thế, Thánh Gregory Nazianzus đã hết sức có lý để ca ngợi Thánh Basil. Thánh nhân nói: “Thánh Basil thuyết phục chúng ta rằng vì chúng ta là loài người, chúng ta không được khinh thường nhân loại hay phạm đến Chúa Kitô, Thủ Lãnh chung của tất cả mọi người, bằng tác hành phi nhân đối với con người; trái lại, chính chúng ta cần được lợi ích bằng việc học được từ những cái bất hạnh của kẻ khác và cần phải Thiên Chúa sử dụng lòng cảm thương của chúng ta, vì chúng ta cần đến lòng xót thương” (Gregory Nazianzus, Orationes 43, 63; PG 36, 580b).

 

Những lời lẽ này rất ư là hợp thời. Chúng ta thấy rằng Thánh Basil thực sự là một trong những vị Giáo Phụ về giáo huấn xã hội của Giáo Hội vậy.

 

Ngoài ra, Thánh Basil nhắc nhở chúng ta rằng để giữ cho tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và với con người được sống động, chúng ta cần đến Thánh Thể, thứ lương thực thích đáng cho thành phần lãnh nhận phép rửa, thứ lương thực có thể nuôi dưỡng những năng lực mới xuất phát từ Phép Rửa (cf. De Baptismo 1, 3: SC 357, 192).

 

Thật là hết sức hân hoan khi có thể tham phần vào Thánh Thể (cf. Moralia 21, 3: PG 31, 741a), được thiết lập “để bảo trì liên lỉ việc tưởng niệm Đấng đã chết đi và sống lại vì chúng ta” (Moralia 80, 22: PG 31, 869b).

 

Thánh Thể, một tặng ân vĩ đại của Thiên Chúa, bảo tồm nơi mỗi một người chúng ta việc tưởng nhớ đến ấn tín phép rửa và làm khả dĩ cho việc sống ơn Phép Rửa cách trọn vẹn và trung thành.  

 

Đó là lý do vị Giám Mục thánh thiện này đã thường xuyên khuyên nhủ hãy Hiệp Lễ thường xuyên, thậm chí hằng ngày: “Việc hiệp lễ thậm chí hằng ngày, việc lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô, là điều tốt lành và hữu ích; vì Người đã tỏ tường phán rằng: “’Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời’ (Jn 6:54). Bởi thế ai còn dám nghi ngờ là việc tiếp tục hiệp thông với sự sống thì không sống viên trọn?” (Ep. 93: PG 32, 484b).

 

Tắt một lời, Thánh Thể cần thiết cho chúng ta nếu chúng ta biết đón nhận trong chúng ta sự sống chân thật, sự sống đời đời (cf. Moralia 21, 1: PG 31, 737c). Sau hết, dĩ nhiên là Thánh Basil cũng quan tâm tới thành phần chọn lọc của Dân Chúa là giới trẻ, tương lai của xã hội. Ngài đã nói một Bài Diễn Từ cho họ về cách thức làm sao để mưu lợi từ văn hóa của dân ngoại vào thời ấy.

 

Ngài rất công bằng và cởi mở nhìn nhận rằng nơi văn chương Hy Lạp và Latinh cổ kính cũng có những mẫu gương nhân đức. Những mẫu gương sống chân chính ấy có thể giúp ích cho thành phần Kitô hữu trẻ trung đang tìm kiếm chân lý và đường ngay nẻo chính để sống (cf. Ad Adolescentes 3).

 

Bởi thế, người ta cần phải lấy từ các bản văn của chư tác giả cổ thời những gì thích đáng và hợp với sự thật: nhờ đó, bằng đường lối nhận định và cởi mở – một vấn đề của ‘việc nhận thức’ thực sự và thích hợp – giới trẻ tăng trưởng trong tự do.

 

Với hình ảnh thông dụng về những con ong bám lấy những cánh hoa chỉ để hút những gì chúng cần để làm mật, Thánh Basil khuyên dạy rằng: “Như những con ong có thể hút ngụy từ hoa, không như những con vật khác chỉ biết thưởng thức mùi thơm và mầu sắc, cũng thế, từ những bản văn này… người ta có thể rút lấy được một thứ lợi ích nào đó cho tâm linh. Chúng ta cần phải sử dụng những thứ sách vở ấy, theo gương của con ong trong tất cả mọi sự. Chúng không bậu trên mọi cây hoa như nhau, cũng chẳng tìm cách lấy tất cả nhụy hoa ở những hoa chúng đậu lại, nhưng chỉ hút lấy từ những bông hoa này những gì chúng cần để làm mật và không lấy những gì còn lại. Và nếu chúng ta khôn ngoan, chúng ta sẽ lấy từ những bản văn này những gì thích hợp cho chúng ta, và hợp với sự thật, bỏ qua những gì khác” (Ad Adolescentes 4).

 

Thánh Basil trước hết đã khuyên giới trẻ hãy tăng trưởng trong nhân đức, trong lối sống ngay thẳng: “Trong những sự vật khác… chuyền từ vật này sang vật kia như kiểu chơi súc sắc, thì chỉ có một mình nhân đức mới là sự thiện bất khả đoạt và kéo dài suốt đời và sau khi chết” (Ad Adolescentes 5).

 

Anh chị em thân mến, tôi nghĩ người ta có thể nói rằng vị Giáo Phụ này từ xa xưa cũng đã nói với chúng ta và bảo cho chúng ta biết những điều hệ trọng. Trước hết là sự tham dự một cách chuyên chú, sáng suốt và sáng tạo vào nền văn hóa ngày nay.

 

Thế rồi tới trách nhiệm xã hội: đây là thời đại mà, trong một thế giới toàn cầu hóa, thậm chí thành phần dân chúng cách xa nhau về thể lý cũng thật sự trở thành láng giềng của nhau; bởi thế, hãy sống thân tình với Chúa Kitô là vị Thiên Chúa mang bộ mặt con người.

 

Sau cùng là việc nhìn nhận và công nhận Thiên Chúa Hóa Công, Cha của tất cả mọi người chúng ta: chỉ khi nào chúng ta cởi mở trước vị Thiên Chúa này, vị Cha chung này, chúng ta mới có thể xây dựng một thế giới chân chính và huynh đệ hơn.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2007/documents/hf_ben-xvi_aud_20070801_en.html


TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ