THỨ SÁU 8/2/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC Biển Đức XVI

Cuộc Hành Trình Mùa Chay

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 6/2/2008, Thứ Tư Lễ Tro 

     CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (96)

II.  Những Dấu Hiệu Tôn Sùng Mẹ Maria một cách sai lầm và chân thực 

Việc tôn sùng Đức Mẹ cách giả tạo

   MẾN Yêu Thánh Thể  

          Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích            

       Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ  (134-137)    

Những Cuộc Rước Kiệu và Những Cuộc Hội Nghị Thánh Thể

           YÊU Thương Tha Nhân          

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Mùa Xuân Muôn Thuở

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

ĐTC Biển Đức XVI

 

Cuộc Hành Trình Mùa Chay

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 6/2/200, Thứ Tư Lễ Tro 

Anh Chị Em thân mến, 

Hôm nay, Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta lại bắt đầu cuộc hành trình Mùa Chay như mọi năm, với một tinh thần thiết hơn nguyện cầu và suy niệm hơn, ăn năn và hãm m ình hơn. Chúng ta đang tiến vào một mùa phụng vụ rất “thôi thúc” chúng ta sửa soạn cử hành Lễ Phục Sinh – tâm  điểm của niên lịch của Giáo Hội cũng như của chính cuộc sống của chúng ta – mời gọi chúng ta, hay chúng ta có thể nói, thôi thúc chúng ta sống đời Kitô hữu.  

Vì những gì chúng ta dấn thân làm cùng với những lo toan của chúng ta đang kềm giữ chúng ta sống cùng một nhịp đời quan thuộc, khiến chúng ta có nguy cơ quên đi cái tính cách ngoại thường nơi cuộc hành trình này khi Chúa Kitô muốn bao gồm cả chúng ta nữa, chúng ta cần phải bắt đầu lại mỗi ngày bằng một hành trình gay go của đời sống phúc âm, bằng cách âm thầm tĩnh tâm qua những giây phút suy tư làm tái sinh tinh thần của chúng ta. Với nghi thức  bỏ tro cổ kính này, Giáo Hội muốn đưa Mùa Chay vào một cuộc tĩnh tâm kéo dài 40 ngày

Nhờ đó, chúng ta mới có thể đi vào bầu khí của Mùa Chay, một bầu khí giúùp chúng ta tái nhận thức tặng ân chúng ta đã lãnh nhận nơi phép rửa, và là một bầu khí phấn khích chúng ta hãy tiến đến với bí tích hòa giải, đặt những quyết tâm hoán cải của chúng ta nơi biểu hiệu của lòng thương xót Chúa. Từ ban đầu, trong thời Giáo Hội sơ khai, Mùa Chay là một thời điểm đặc biệt cho thành phần dự tòng đang sửa soạn lãnh nhận bí tích rửa tội và Thánh Thể, những bí tích được cử hành trong đêm vọng Phục Sinh. Mùa Chay được coi là một thời điểm giúp cho người ta trở thành Kitô hữu, nhưng điều này không xẩy ra trong khoảnh khắc. Nó là một cuộc hành trình hoán cải và canh tân lâu dài. 

Những ai đã được rửa tội thì cuộc hành trình này đối với họ là việc tưởng nhớ đến bí tích mà họ đã lãnh nhận và liên  kết một lần nữa với Chúa Kitô trong cuộc hân  hoan cử hành Lễ Phục Sinh. Như thế, Lễ Phục Sinh đã có và  vẫn còn giữ được cho tới ngày nay cảm giác và tính chất của một phép rửa, ở chỗ nó bảo tồn được cái ý thức là một khi trở thành Kitô hữu thì không bao giờ kết thúc cuộc hành trình ở đằng sau chúng ta, mà là một đường lối gắt gao liên tục đòi phải nỗ lực canh tân.  

Trong việc bỏ tro lên đầu tín hữu, vị chủ tế nói rằng: “Hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” (x Gen 3:19), hay ngài lập lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu: “Hãy hoán cải và tin vào Phúc Âm” (x Mk 1:15). Cả hai việc thực hành này đều nhắc nhở về sự thật hiện hữu của con người: Chúng ta là những tạo vật hạn hữu, là những tội nhân liên lỉ cần phải ăn  năn và hoán cải.  Trong ngày sống và thời đại của chúng ta đây, quan trọng biết bao trong việc lắng nghe và tiếp nhận một tiếng gọi như thế! Khi cho rằng mình hoàn toàn biệt lập khỏi Thiên Chúa là con người trở thành nô lệ cho chính bản thân mình và thường cảm thấy mình lẻ loi khôn xiết. Lời mời gọi hoán cải này bởi thế là một sự thôi thúc hãy trở về với vòng tay của Thiên Chúa, một Người Cha săn sóc và nhân hậu, hãy tin tưởng nơi Ngài, hãy phó mình cho Ngài như thành phần con cái được thừa nhận, thành phần được tái sinh bởi tình Ngài yêu thương. 

(còn tiếp) 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/2/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)


 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


Phần I - Tổng Quan về Việc Thành Thật Sùng Kính Đức Mẹ

 

Tôn Sùng Mẹ Maria: Nội Dung 

  

II.  Những Dấu Hiệu Tôn Sùng Mẹ Maria một cách sai lầm và chân thực 

 

1. Việc tôn sùng Đức Mẹ cách giả tạo

 

Những kẻ tôn sùng có tính cách hời hợt

 

96.       Những kẻ tôn sùng có tính cách hời hợt giành tất cả lòng sùng kính Đức Mẹ vào những việc thực hành bề ngoài. Chỉ có những gì bề ngoài của lòng sùng kính mới thu hút họ, vì họ không có tinh thần nội tâm. Họ đọc nhiều kinh mân côi một cách vội vàng hấp tấp và giúp nhiều Thánh Lễ một cách chia lòng chia trí. Họ tham dự vào các cuộc cung nghinh Đức Mẹ mà chẳng có lòng tha thiết bên trong. Họ gia nhập các hiệp hội của Mẹ mà chẳng cải thiện đời sống hay kiềm chế các đam mê của họ hoặc noi gương bắt chước các nhân đức của Mẹ Maria. Tất cả những gì lôi cuốn họ đều theo chiều kích cảm xúc của lòng tôn sùng này, chứ bản chất của nó chẳng có một hấp lực nào. Nếu họ không cảm thấy sốt nóng qua các việc tôn sùng của họ thì họ cho rằng họ chẳng ra làm sao; họ trở nên buồn bực và bỏ hết mọi sự, hoặc có làm điều gì thì chỉ khi nào họ cảm thấy thích làm. Thế giới này có đầy những thành phần tôn sùng nông cạn ấy, và không còn gì nguy hiểm hơn cho những con người nguyện cầu, coi việc tôn sùng nội tâm như là chiều kích chính yếu và nỗ lực chiếm lấy nó, song lại bỏ bê việc thể hiện hợp lý bề ngoài là những gì luôn đi kèm theo lòng tôn sùng chân thực.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ


 
 
Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html

 

Chương VI

Việc Lưu Giữ Thánh Thể và Việc Tôn Thờ Thánh Thể Ngoài Thánh Lễ


 

2. Một Số Hình Thứ Tôn Thờ Thánh Thể Ngoài Thánh Lễ (134-141)

3. Những Cuộc Rước Kiệu và Những Cuộc Hội Nghị Thánh Thể (142-145)

142.     “Vị Giám Mục giáo phận cần phải phác họa các qui định về những cuộc rước kiệu liên quan đến việc tham dự cũng như đến việc thực hiện điều này một cách xứng đáng” (241), và cần phải cổ võ tín hữu thực hiện việc tôn thờ Thánh Thể.

143.     “Theo phán đoán của vị Giám Mục giáo phận, ở đâu có thể thì nên thực hiện việc rước kiệu qua các đường phố công cộng, nhất là vào dịp Lễ Trọng Kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô như là một chứng từ công khai đối với việc tôn kính Bí Tích Cực Linh này” (242), vì “việc tín hữu sốt sắng tham dự vào cuộc rước kiệu Thánh Thể vào dịp Lễ Trọng Kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô là một ân huệ Chúa ban hằng năm làm cho những ai tham dự được tràn đầy niềm vui mừng hoan hỉ” (243).

144.     Mặc dù việc này ở một số nơi không thể thực hiện được, cũng không thể để mất đi truyền thống tổ chức những cuộc rước kiệu thánh thể này. Trái lại, phải tìm những cách mới mẻ để thực hiện việc rước kiệu này theo các hoàn cảnh ngày nay: chẳng hạn, ở các đền thánh, hay ở các công viên với phép của chính quyền.

145.     Cần phải hết sức chú trọng tới giá trị mục vụ của các Hội Nghị Thánh Thể, và những cuộc hội nghị này “phải là một dấu chỉ đích thực của đức tin và đức mến” (244). Cần phải cẩn thận sửa soạn và thực hiện những cuộc hội nghị này theo những gì đã được qui định (245), nhờ đó tín hữu Chúa Kitô được dịp tôn thờ các mầu nhiệm Mình Máu Thánh Con Thiên Chúa một cách xứng hợp, cũng nhờ đó họ tiếp tục cảm nghiệm được nơi bản thân họ các hoa trái của Ơn Cứu Chuộc (246).

 
 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                   

Mùa Xuân Muôn Thuở
 

Chúc Mừng Năm Mới

Nếu thời tiết trong một năm có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông
thì một ngày sống hay một đời người cũng có 4 mùa như vậy.

Ngày Sống 4 Mùa là Sáng Xuân, Trưa Hạ, Chiều Thu và Đêm Đông.
Đời Người 4 Mùa với Tuổi Xuân:
0-20; Tuổi Hạ: 21-40; Tuổi Thu: 41-60; Tuổi Đông: 61-100.

Chỉ có một loại người không già, muôn thuở trẻ trung,
trường sinh bất tử, trọn lành hoàn thiện,
đó là con người sống trong Sự Thật,
sống theo Sự Thật, và đạt được Sự Thật.
Vì Sự Thật là một Thực Tại Toàn Hảo, một Thực Tại Bất Biến,
một Thực Tại không bao giờ đổi thay,
một Thực Tại không bao giờ cùng,
một Chân Trời Lịch Sử, một Trời Mới Đất Mới!

Kính chúc
Quí Thân Hữu của Gia-Đình Cao-Bùi
Tân Niên Giáp Thân 2004
được tràn đầy
Thần Chân Lý
cho
Hồn An,
Xác Mạnh,
Đời Vui,
Sống Thánh.
 

Trên đây là lời tôi chúc xuân Giáp Thân 2004 cho thân bằng quyến thuộc của gia đình tôi. Theo tôi, đó là tất cả những gì chẳng những chính tôi khao khát mà mọi người cũng đều hết sức ước mong.

Vào dịp Giáng Sinh cũng thế, tôi thích gửi đến cho mỗi người thân yêu và thân tình của tôi một chút suy tư về cuộc đời tương tự như vậy, hợp với ý nghĩa của từng dịp, để cùng nhau hướng về những gì là vĩnh tại. Vì cuộc đời mau qua tạm gửi này sẽ chẳng có ý nghĩa và giá trị gì nếu con người không hướng về, tìm kiếm và đạt tới cùng đích của mình.

Đó là lý do con người sống trên đời, dù cho mình là vô thần, vẫn không ngớt băn khoăn khắc khoải về số phận đời đời của mình. Việc họ tìm hết cách để tìm kiếm và chiếm đoạt hạnh phúc cho mình trên trần gian này, dù là những khoái lạc tạm bợ, thoáng qua như mây như khói, là dấu chứng thực sự kiện bất khả phủ nhận này.

Thậm chí kể cả những hành động tội lỗi của họ cũng cho thấy họ thực sự muốn tìm kiếm và chiếm đoạt hạnh phúc như lòng họ mong muốn. Giống như một người đói quá, đói đến mờ mắt, đói như Năm Ất Dậu 1945 ở Việt Nam, vớ được gì ăn nấy, ai cho gì liền cho vào miệng, chẳng cần biết ngon hay không ngon, nuốt được hay khó trôi, bổ béo hay nhiễm độc, miễn là thỏa mãn nhu cầu sinh tồn cấp bách trong khoảnh khắc của mình.

Tiếc thay, thực tế cho thấy, sau khi thỏa mãn những gì vồ vập nhất thời trong lúc mờ mắt ấy, con người thường đi đến chỗ quằn quại, bất mãn, bất an và bất hạnh. Một là vì họ đã ăn phải những gì không hợp với tì vị của họ, cho dù không phải là độc dược đi nữa, làm họ buồn nôn, đau quặn và buông thả bài tiết v.v. Hai là họ bị bội thực, làm họ khó thở, nặng nề, hầu như bất động không thể nhúc nhích được nữa, thậm chí có trường hợp bị chết vì bội thực, như đã từng xẩy ra sau biến cố đói Ất Dậu.

Đó là lý do con người, khi nhìn lại quá khứ, hay sau khi lầm lỡ, thường tự nhủ hay tự trách mình rằng:

• “Tại sao mình khờ đến thế nhỉ?”
• “Tại sao bấy giờ tôi lại làm như vậy ta?”
• “Tại sao lúc ấy tôi lại không làm như thế này, không làm như thế kia?”
• “Biết vậy thì mình không làm (hay) làm thế này có phải là hay hơn không?” v.v.

Những lời nói này, hay những câu tương tự như thế, là tất cả những gì chứng thực cho thấy môt cách hết sức hiển nhiên và quyết liệt những xác tín liên quan đến kinh nghiệm sống khôn ngoan sau đây:

1. Con người xu hướng về chân thiện mỹ và liên lỉ tìm chiếm chân thiện mỹ.
2. Con người là mầm mống sự thật chứa chất sự sống.
3. Cuộc đời là một cõi mộng, một giấc mơ đang được cuộc sống lay tỉnh, cho tới khi hoàn toàn giác ngộ.
4. Thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật.
5. Lịch sử là chứng nhân của sự thật.
6. Chỉ có con đường dẫn đến sự thật mới có sự sống.
7. Bất cứ điều gì phản trái hay không hợp với sự thật đều là những gì gian ác, xấu xa, độc hại.
8. Khôn ngoan nhất, can đảm nhất và trọn hảo nhất đó là sống sự thật.
9. Sự sống là tất cả sự thật.
10. Sự thật là thực tại toàn hảo.

Thật vậy, “con người tự nhiên xu hướng về chân thiện mỹ và liên lỉ tìm chiếm chân thiện mỹ”. Ở chỗ, lý trí luôn tìm biết sự thật; cõi lòng muốn chiếm hưởng sự thiện và tác hành làm sao cho hoàn mỹ. Đó là lý do tại sao chỉ có những ai, bất kể thuộc niềm tin hay tôn giáo nào, cố gắng tìm kiếm chân thiện mỹ, theo đuổi chân thiện mỹ, sống chân thiện mỹ, chiếm đạt chân thiện mỹ mới có thể đạt tới cùng đích của một vĩnh tại chân thực thiện hảo toàn mỹ cho thân phận làm người của mình.

Bởi vì, “con người là mầm mống sự thật chứa chất sự sống”, mà càng sống, dù ý thức hay vô thức, con người thấy rằng mỗi ngày mình một khôn hơn. Ở chỗ, biết phân biệt đâu là phải, đâu là trái; đâu là lành đâu là dữ; đâu là tốt đâu là xấu; đâu là hay đâu là dở; đâu là lợi đâu là hại. Cái ý thức sống cho thấy tầm mức khôn ngoan của con người về thực tại của bản thân mình cũng như về thực tại cuộc đời ấy không phải là những gì chân thật đầy thiện mỹ đang tỏ mình ra trong tâm linh của họ hay sao?

Một khi tâm linh của con người thấy được, hay thấu hiểu được, đúng hơn ý thức được những gì chân thật đầy thiện mỹ, qua cuộc sống, nhất là qua những “cái khó nó bó cái khôn”, qua “thất bại là mẹ thành công”, khiến họ mỗi ngày một trở nên khôn ngoan hơn, trưởng thành hơn, thành người hơn, được thể hiện bằng những tâm ngôn hành xứng với phẩm giá và tư cách làm người của mình, thì không phải hay sao: “cuộc đời là một cõi mộng, một giấc mơ đang được cuộc sống lay tỉnh, cho tới khi hoàn toàn giác ngộ”.

Như thế, quả thực “thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật”. Đối với tất cả mọi tạo vật, kể cả muôn loài sinh vật, như thực vật cỏ cây hoa lá, hay động vật chim trời cá biển hoang thú gia cầm, thời gian chẳng có nghĩa gì với chúng, vì chúng không có khả năng để biết có thời gian hay không và thời gian thực sự có cần hay chăng. Chỉ có một mình loài “nhân linh ư vạn vật” là con người mới chẳng những biết được có thời gian, biết mình đang sống trong thời gian, mà còn thấy được cả giá trị cũng như ý nghĩa đích thực của thời gian. Đối với ước vọng được sống trường sinh bất tử của mình thì thời gian, đối với con người, chẳng có nghĩa lý gì nếu không đưa con người đến vĩnh tại, tức đến một thực tại bất biến là sự thật, một sự thật đang từ từ theo giòng thời gian tỏ mình ra cho loài tạo vật duy nhất có tâm linh nhận thức là con người.

Nếu “thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật” thì “lịch sử là chứng nhân của sự thật”. Thực thế, lịch sử không phải chỉ là một công việc ghi chép lại những biến cố xẩy ra trong quá khứ, mà còn là chứng nhân cho thấy tất cả sự thật trong quá khứ, chẳng những qua những gì được nó ghi nhận mà còn qua những gì nó cảm nhận căn cứ khách quan vào công lý phổ quát vượt thời không. Ngoài ra, lịch sử không phải chỉ đóng vai chứng nhân sự thật của quá khứ mà còn đóng vai chứng nhân sự thật cho tương lai như một ngôn sứ của sự thật nữa. Bởi vì, cũng căn cứ vào công lý vượt thời không, lịch sử, qua những lời kêu gọi chân thực và huấn dụ mạnh mẽ của những vị có thẩm quyền ở từng thời đại, còn cho thế giới biết trước nó sẽ đi về đâu, tiến bộ hay thoái bộ, tương lai tối tăm mù mịt hay quang sáng rạng ngời.

Kinh nghiệm lịch sử dạy cho tâm linh mỗi ngày một khôn ngoan ý thức hơn của con người thiện tâm biết là “chỉ có con đường dẫn đến sự thật mới có sự sống”. “Con đường” đây bao gồm tất cả mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của con người. Nghĩa là, bất cứ dự định nào của con người, ý hướng nào của con người, dù ngay lành đến mấy, (chẳng hạn vì thương người mà giết người, như trong trường hợp trợ an tử), nếu không hợp với sự thật, không đúng với sự thật, (không ai được quyền giết người hay tự tử vì sự sống không thuộc về họ), đều không phải những những tâm hướng tốt. Về ngôn từ cũng thế, nếu không hợp hay không đúng với sự thật (chẳng hạn thề gian), đều trở thành những lời gian dối, tác hại, phải bồi thường theo đức công bằng. Về tác hành cũng vậy, nếu không hợp hay không đúng với sự thật, (chẳng hạn phá thai, dù thai nhi bị tật nguyền hay do bị hiếp mà có, bởi sự thật là bé không do họ mà có, càng bị hiếp càng chứng tỏ sự sống từ bé đến từ Thần Linh ban sự sống), đều là những gì sai quấy, bậy bạ, tác hại. Đó là lý do con người cần phải nhớ kỹ nguyên tắc luân lý sau đây: “Bất cứ điều gì phản trái hay không hợp với sự thật đều là những gì gian ác, xấu xa, độc hại”.

Như thế, “khôn ngoan nhất, can đảm nhất và trọn hảo nhất đó là sống sự thật”. Đối với thế gian, khôn ngoan nhất được căn cứ vào những quyết định hay những hành động nào đạt được lợi lộc nhiều nhất (về bất cứ một lãnh vực nào, như về tiền bạc theo thể lý, về tư kiến theo tâm lý, về danh giá theo luân lý, về thế lực theo xã hội), chứ không phải vào sự thật, dù con người có vì sự thật mà bị thiệt hại hay oán ghét. Cũng thế, chính vì ai cũng yêu mạng sống mình, tìm hết mọi cách để sinh tồn, mà đối với thành phần cuồng tín thì việc dám liều mạng ôm bom tự sát để khủng bố là hành động can đảm, chứ không phải thái độ dám đối diện với sự thật, tức dám nhìn nhận tha nhân là anh em của mình, dù họ có làm khốn mình, và mình phải yêu nhau như bản thân mình: nếu mình không muốn bị người khác sát hại thì đừng sát hại người khác; nếu người khác sát hại mình thì mình được quyền bảo mạng của mình trong giới hạn tự vệ chứ không được tiến đến chỗ uất hận đòi mạng. Chỉ khi nào con người có một thái độ khoan dung tha thứ theo sự thật của tình bác ái yêu thương, họ mới đạt tới mức độ hoàn hảo mà thôi.

Tóm lại, nếu con người càng sống càng khôn ngoan, càng biết được sự thật về bản thân mình cũng như về cuộc đời, về nhân sinh, về thế giới, nhờ đó, sống xứng hợp và xứng đáng với nhân phẩm, nhân cách và nhân vị của mình, thì không phải “sự sống là tất cả sự thật” hay sao? Sự sống chỉ có ý nghĩa thật sự và đạt được tối đa giá trị của mình trong sự thật mà thôi. Nghĩa là khi sự thật làm chủ điều khiển sự sống, và sự sống trở thành hiện thân của sự thật. Đó là lý do “cây ngay không sợ chết đứng”. Sự sống bất diệt quả thực chính là sự thật, vì sự thật là một thực tại bất biến. Nếu sự sống còn bị sự chết tiêu diệt, nuốt đi thì không thể nào là sự sống được. Bởi thế sự thật mới là phán quyết cuối cùng của tất cả mọi sự, nhất là của sự dữ và sự chết là những gì tự bản chất phản với những gì là thiện hảo. Sự dữ và sự chết tự chúng chỉ là một hiện tượng và vì thế, theo số phận của mình, chúng chắc chắn sẽ biến mất trước ánh sáng của sự thật, tức khi sự thật hoàn toàn tỏ hiện, hay khi sự sống đạt đến tầm vóc viên mãn của nó là chính tất cả sự thật.

Nếu sự thật là một thực tại bất biến thì “sự thật là thực tại toàn hảo”. Sự thật là một thực tại bao gồm tất cả những gì thiện hảo nhất, hay nói chính xác hơn, là chính thực tại toàn hảo. Nếu còn đổi thay, còn cải tiến, còn hoàn chỉnh, không thể nào lại là một thực tại toàn hảo được. Một con người toàn hảo không thể nào lại là một con người gian ác, dối trá, sống không đúng với thân phận làm người của mình, không hợp với ơn gọi làm người của mình. Trái lại, theo cảm nghiệm chung, con người toàn hảo phải là một con người yêu thương trọn lành, ở chỗ chẳng những biết dấn thân phục vụ tha nhân mà còn biết bao dung tha thứ cho những ai làm khốn mình, nhất là thành phần thụ ơn của mình. Nếu tình yêu mạnh hơn sự chết thì con người hy sinh phục vụ tha nhân đến hiến mạng sống mình cho tha nhân là con người toàn hảo nhất. Vì họ đã đạt đến sự thật, một sự thật bất biến, một sự thật làm chủ sự chết, một “sự thật là thực tại toàn hảo”, tức họ đã đạt đến một “sự sống là tất cả sự thật”.

Đến đây chúng ta thấy nếu “sự thật là thực tại toàn hảo”, mà toàn hảo lại liên quan đến yêu thương thì yêu thương là sống sự thật. Nếu xét theo chiều hướng này, chiều hướng liên quan đến sự thật này, thì người ta không còn nói được rằng không ai có thể định nghĩa được tình yêu nữa. Bởi vì, nếu yêu thương là sống sự thật thì tình yêu là ơn gọi hiệp thông.

Chính vì tình yêu là ơn gọi hiệp thông mà con người mới có xã hội tính, hướng ngoại và tự do. Đời người hướng ngoại nhất có thể nói đến tuổi dậy thì, thời điểm con người bắt đầu biết yêu và tìm yêu. Thế nên không lạ gì hôn nhân và gia đình mới thực sự là hiện thân của tình yêu, của ơn gọi hiệp thông này. Và do đó, bất cứ ai hay bất cứ khi nào con người vốn vị kỷ tìm mình của chúng ta sống ngược lại, sống phản lại với bản chất hay với sự thật tình yêu là ơn gọi hiệp thông này, chẳng hạn như trường hợp ly dị hay phá thai, là chúng ta đã không sống theo sự thật và không sống trong sự thật, bởi đó, chúng ta sẽ không thể nào hoàn thành ơn gọi làm người của mình, không đạt đến tầm vóc toàn hảo của mình, trái lại, chúng ta sẽ luôn sống trong bất hạnh.

Đúng thế, chính vì là một sinh vật biết yêu thương mà con người mới có tự do và mới cần tự do là khả năng yêu thương và là bản chất của tình yêu. Bởi vậy, một khi vì tự do con người tự biến mình trở thành nô lệ, (như nô lệ cho nghiện hút, cờ bạc, sắc dục, tính mê nết xấu v.v. đến nỗi muốn bỏ cũng không được, muốn chừa cũng không xong, lúc nào cũng bị nó chi phối, cũng bị nó sai khiến, thậm chí đi đến chỗ gian dối, trộm cướp để cung phụng cho các thứ thần tượng chủ nhân ông độc chiếm này), sống hoàn toàn bất xứng với nhân phẩm, nhân cách và nhân vị làm người của mình, tức là sống hoàn toàn trái với sự thật làm người của họ, thì đó không phải là tự do thật và không phải là chính bản chất của tình yêu là ơn gọi hiệp thông, mà là bản năng của thú tính thì đúng hơn.

Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế cho thấy, khi yêu, con người dễ trở thành mù quáng, tức càng khó nhận ra chân lý. Bởi thế, không lạ gì, chính khi yêu con người có thể lại bị tha hóa không còn là mình nữa, không còn là chủ thể yêu nữa, mà là một tay sai của đam mê nhục dục, yêu cuồng sống vội, yêu đồng phái tính v.v. Theo sự thật, nếu tình yêu là ơn gọi hiệp thông thì những thứ yêu cuồng sống vội, yêu đồng phái tính, yêu theo đam mê nhục dục, yêu động tí ly dị v.v. này không thể mang danh hay không đáng mang danh tình yêu, nếu không muốn nói nó không phải là tình yêu, mà chỉ là tình cảm thuần túy, thậm chí có trường hợp còn là tình dục lăng loàn thì đúng hơn.

Vấn đề ở đây là làm sao con người, tự mình vốn mù quáng, vốn bị chi phối bởi cuộc sống phức tạp, có thể nhận ra sự thật? Phải chăng nhờ ở lương tâm, vì lương tâm là tiếng nói của sự thật! Thế nhưng nhiều khi con người lại tỏ ra rất ư là bối rối ngay trước tiếng lương tâm của mình, không biết đó có phải là tiếng lương tâm hay chăng, nếu phải thì có nên làm theo hay chăng, vì làm theo thì bất lợi hơn là tác lợi! Có những trường hợp sau khi làm theo lương tâm rồi mà vẫn áy náy không yên!

Đó là lý do:

1. Con người xu hướng về chân thiện mỹ và liên lỉ tìm chiếm chân thiện mỹ.
2. Con người là mầm mống sự thật chứa chất sự sống.
3. Cuộc đời là một cõi mộng, một giấc mơ đang được cuộc sống lay tỉnh, cho tới khi hoàn toàn giác ngộ.
4. Thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật.
5. Lịch sử là chứng nhân của sự thật.
6. Chỉ có con đường dẫn đến sự thật mới có sự sống.
7. Bất cứ điều gì phản trái hay không hợp với sự thật đều là những gì gian ác, xấu xa, độc hại.
8. Khôn ngoan nhất, can đảm nhất và trọn hảo nhất đó là sống sự thật.
9. Sự sống là tất cả sự thật.
10. Sự thật là thực tại toàn hảo.

Xin chúc quí độc giả thân yêu được tràn đầy Thần Chân Lý để con người của chúng ta trở thành hiện thân của Sự Thật là thực tại hoàn hảo và cuộc đời của chúng ta trọn vẹn hiện thực sự sống là tất cả Sự Thật, là cả một Mùa Xuân Muôn Thuở!
 

Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh
 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net