THỨ BẢY 1/3/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC BIỂN ĐỨC XVI

Thánh Giáo Phụ Âu Quốc Tinh - Sự Nghiệp Văn Chương

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 13/2/2008

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (139)

Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô

2. Việc tôn sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Thông Điệp Thánh Thể

  ĐTC Gioan Phaolô II

Dẫn Nhập (8)

           YÊU Thương Tha Nhân              

Cuộc Họp Quốc Tế Thứ Hai của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Âu Châu diễn ra tại Vatican ngày 22-24/10/1998

Mối Liên Hệ giữa Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền Năm 1948 và Hiến Chương Nhân Quyền về Gia Đình Năm 1983 của Tòa Thánh Rôma”

Một Số Quyền Lợi Của Gia Đình Và Quyền Sống Bị Khinh Thường (2.1-2.5)

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI:

 

Thánh Giáo Phụ Âu Quốc Tinh - Sự Nghiệp Văn Chương

 

Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 20/2/2008

Bài Giáo Lý 66 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền

 

(tiếp THỨ SÁU 29/2/2008)

De Civitate Dei – một tác phẩm sâu sắc quan trọng cho việc phát triển tư tưởng về chính trị của Tây phương và thần học Kitô giáo về lịch sử  - được viết vào giữa năm 413 và 426 với 22 cuốn. Cơ hội viết là biến cố đám quân Goths cướp phá thành Rôma vào năm 410. Nhiều người dân ngoại vẫn còn sống sót cùng với nhiều Kitô hữu đã nói rằng Rôma bị sụp đổ; vị Thiên Chúa của Kitô giáo và các vị Tông Đồ giờ đây không còn bảo vệ được thành này nữa. Trong khi đó các vị thần linh dân ngoại còn hiện hữu thì Rôma đã là một caput mundi, một đại thủ đô, và không ai ngờ rằng nó lại rơi vào tay quân thù. Giờ đây, với Vị Thiên Chúa của Kitô giáo, đại đô này dường như không an toàn hơn chút nào. Bởi thế, Vị Thiên Chúa của thành phần Kitô hữu không bảo vệ, Ngài không thể là vị Thiên Chúa đáng được trao phó bản thân cho. Thánh Âu Quốc Tinh đã trả lời cái chống đối này, một câu trả lời đã làm rung động nhiều tâm hồn của Kitô hữu cách sâu xa, bằng tác phẩm sâu sắc này, De Civitate Dei, giải thích những gì chúng ta cần phải và không được trông mong từ Thiên Chúa, và đâu là mối liên hệ giữa lành vực chính trị và lãnh vực đức tin, lãnh vực Giáo Hội. Tác phẩm này cả cho đến ngày nay vẫn là những gì căn cứ cho việc minh định giữa chủ nghĩa trần thế đích thực với thẩm quyền của Giáo Hội, niềm hy vọng chân thực lớn lao được đức tin cống hiến cho chúng ta.

Tác phẩm quan trọng này cho thấy lịch sử của nhân loại được cai trị bởi Đấng Quan Phòng thần linh nhưng hiện bị chia phân bởi hai tình yêu. Đây là một phác họa trọng yếu, việc dẫn giải của tác phẩm về lịch sử, một cuộcđối chọi giữa hai tình yêu: tình yêu bản thân mình, “cho đến độ khinh thường Thiên Chúa”, và tình yêu Thiên Chúa, “cho đến độ coi thường bản thân  mình” (De Civitate Dei XIV, 28), cho đến  độ được hoàn toàn thoát khỏi bản thân mình để sống cho người khác trong ánh sáng của Thiên Chúa. Bởi thế, đó có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất của Thánh Âu Quốc Tinh và có một tầm quan trọng lâu dài. Cũng quan trọng không kém là tác phẩm De Trinitate, một tác phẩm gồm có 15 cuốn về đề tài chính là đức tin Kitô giáo, đức tin vào vị Thiên Chúa Ba Ngôi. Tác phẩm này được viết qua hai giai đoạn: 12 cuốn đầu vào giữa năm 399 và 412, được xuất bản mà Thánh Âu Quốc Tinh không biết, vị đã hoàn tất và tái duyệt toàn b ộ văn chương của mình vào khoảng năm 420. Ở đây, ngài suy tư về Dung Nhan Thiên Chúa và tìm cách thấu hiểu mầu nhiệm này của Thiên Chúa là Đấng chuyên nhất, vị Hóa Công duy nhất của thế giới, của tất cả chúng ta, song vị Thiên Chúa duy nhất này thực sự là Vị Thiên Chúa Ba Ngôi, một tuần hoàn yêu thương. Ngài tìm cách để thấu hiểu mầu nhiệm khôn dò này: hữu thể Ba Ngôi thực sự, có 3 Ngôi Vị, lại là một Thiên Chúa duy nhất hiệp nhất chân thực nhất và sâu xa nhất. Tác phẩm De Doctrina Christiana trái lại là một thứ giới thiệu thích đáng về văn hóa cho việc dẫn giải Thánh Kinh nhất là chính Kitô giáo, một tác phẩm có một tầm quan trọng chủ yếu trong việc hình thành văn hóa Tây phương.

Cho dù ngài có hết sức khiêm nhượng, chúng ta chắc chắn cũng cần phải nhận thấy được tầm vóc thông minh của ngài. Tuy nhiên, đối với ngài việc rất quan trọng là mang sứ điệp của Kitô giáo đến cho thành phần bình dân hơn là viết những tác phẩm thần học cao đẹp. Cái chủ ý sâu xa nhất của ngài đã chi phối cả cuộc sống của ngài này xuất hiện trong một bức thư viết cho người bạn đồng nghiệp của ngài là Evodius, trong đó ngài đã cho người bạn này quyết định của ngài trong việc tạm ngưng việc đọc các cuốn De Trinitate, “vì chúng quá gay go và tôi nghĩ rằng ít người hiểu được chúng lắm; bởi thế, cần phải có nhiều bản văn chúng ta hy vọng mang lại lợi ích cho nhiều người” (Epistulae 169, 1, 1). Bởi thế, mục đích của ngài là truyền đạt đức tin một cách mà tất cả mọi người có thể hiểu được hơn là viết những tác phẩm thần học lớn. Trách nhiệm ngài sâu xa cảm thấy ấy liên quan tới việc đại chúng hóa sứ điệp Kitô giáo mà sau đó trở thành nguồn mạch cho các bản văn như tác phẩm De Catechizandis Rudibus, một lý thuyết cũng là một phương pháp giáo lý, hay tác phẩm Psalmus contra Partem Donati. Thành phần Donatists là cả một vấn đề ở Phi Châu của Thánh Âu Quốc Tinh, một cố tình ly giáo ở Phi Châu. Họ nói rằng: Kitô giáo thực sự là Kitô giáo Phi Châu. Họ chống lại mối hiệp nhất Kitô giáo. Vị đại Giám Mục này suốt đời chống lại ly giáo này, bằng việc tìm cách thuyết phục thành phần Donatist rằng chỉ trong mối hiệp nhất thì “tính chất Phi Châu” cũng mới chân thực. Và để thành phần bình dân có thể hiểu được mình, thành phần không thể hiểu được tiếng Latinh khó khăn của một hùng biện gia, ngài nói: Tôi thậm chí cần phải viết có những lầm lỗi về văn phạm bằng một tiếng Latinh rất giản dị hóa. Và ngài đã làm như thế, nhất là trong tác phẩm Psalmus, một loại thi ca giản dị chống lại thành phần Donatist, để giúp cho tất cả mọi người hiểu được rằng chỉ nhờ mối hiệp nhất của Giáo Hội mà mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa mới được thực sự nên trọn đối với tất cả mọi người và bình an mới triển nở trên thế giới.

Cả đống bài giảng được ngài thường nói buông “off the cuff”, được ghi chép lại trong khi ngài giảng và chuyền tay ngay sau đó, có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc xuất bản nhắm tới thành phần  quần  chúng rộng rãi hơn. Tác phẩm Enarrationes in Psalmos, một tác phẩm  được đọc rộng rãi vào Thời Trung Cổ nổi bật trong số những bài giảng nói buông ấy. Việc phát hành hằng ngàn các bài giảng của Thánh Âu Quốc Tinh – thường ngoài việc kiểm soát của tác giả – thuưc sự cho thấy sự phổ biến của chúng và sau đó bị phân tán nhưng vẫn còn sinh khí của nó. Thật vậy, vì tiếng tăm của tác giả mà các bài giảng của vị Giám Mục thành Hippo đã trở thành rất khan hiếm, sau khi các bản văn, được thích ứng với những bối cảnh mới, cũng trở thành những mẫu thức cho các vị Giám Mục và linh mục khác nữa.

Một bức bích họa ở Lateran có từ thế kỷ thứ 4 cho thấy rằng truyền thống diễn tả bằng tranh đã vẽ về Thánh Âu Quốc Tinh  với 1 cuốn sách trong tay, dĩ nhiên là gợi ý về bộ tác phẩm văn chương của ngài đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ như thế nơi tâm thức Kitô giáo và tư tưởng của Kitô Giáo, thế nhưng nó cũng cho thấy ngài yêu chuộng sách vở và đọc sách cùng với kiến thức của ngài về một thứ đại văn hóa này trong quá khứ. Possidius thuật lại rằng vào lúc lâm chung ngài không để lại gì hết, thế nhưng, “ đã khuyên rằng thư viện của Giáo Hội cùng với tất cả mọi mã số cần phải được gìn giữ cho các thế hệ tương lai”, nhất là những mã số về các tác  phẩm của ngài. Possidius nhấn mạnh rằng trong những điều ấy Thánh Âu Quốc Tinh “luôn tồn tại” và mang lại lợi ích cho độc giả của mình, cho dù “tôi tin rằng những ai có thể thấy ngài và nghe ngài đều có thể rút được lợi ích hơn từ việc liên hệ với Người khi chính Ngài nói trong thánh đường, nhất là những ai cảm thấy cuộc sống hằng ngày của mình nơi dân chúng” (Vita Augustini, 31). Phải, đối với cả chúng ta nữa, nó cũng trở thành tuyệt vời trong việc được nghe ngài nói. Tuy nhiên, ngài thật sự tồn tại nơi các bản văn của ngài và có mặt nơi chúng ta, nhờ đó cả chúng ta nữa có thể thấy được tính cách sinh động lâu dài của thứ đức tin được ngài dấn thân suốt cuộc đời của ngài. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

(những chỗ được in đậm lên là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2008/documents/hf_ben-xvi_aud_20080220_en.html

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


 

Phn Hai: Việc Trn Ho Sùng Kính Đức M

  

Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô

 

2. Việc tôn sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô

139.     Vị Sư Phụ nhân lành của chúng ta hạmình ẩn thân nơi cung lòng Đức Trinh Nữ, một người nô lệ bị giam cầm nhưng yêu thương, và bắt mình tùng phục Mẹ 30 năm. Như tôi đã nói trước đây, trí khôn của con người sẽ cảm thấy ngỡ ngàng ngơ ngác khi suy niệm một cách nghiêm chỉnh về hành động này của Đức Khôn Ngoan Nhập Thể. Người đã không muốn ban mình một cách trực tiếp cho nhân loại cho dù Người dễ dàng làm điều ấy. Người đã muốn xuất hiện qua Trinh Nữ Maria. Như thế, Người đã không đến thế gian không giống như những người khác nơi tầm vóc nam nhân của Người, mà là đến như một con trẻ yếu hèn lệ thuộc vào việc chăm sóc và chuyên chú của Mẹ Người. Được nung nấu bởi ước muốn làm vinh danh Thiên Chúa là Cha của mình, và cứu vớt nhân loại, Người đã thấy rằng không còn con đường nào tốt đẹp hơn hay ngắn ngủi hơn để làm như thế, bằng việc hoàn toàn phục tùng Mẹ Maria. 

Người đã hoàn toàn tùng phục Mẹ Maria không phải chỉ 8 năm, 10 năm hay 15 năm đầu của cuộc sống mình như các trẻ em khác, mà là 30 năm. Người đã làm hiển vinh Thiên Chúa là Cha của Người trong tất cả những năm phục tùng và lệ thuộc đó hơn là Người dùng chúng để làm phép lạ, giảng dạy một cách bao rộng, và hoán cải toàn thể loài người. Bằng không, Người đã không làm tất cả những điều như thế.  

Bởi vậy, còn vinh hiển muôn vàn nào chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa, khi noi gương bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta tỏ ra thuận phục Mẹ Maria! Trước một tấm gương thu hút và rạng ngời như thế trước mắt chúng ta, chẳng lẽ chúng ta lại có thể quá ngớ ngẩn đần độn đến nỗi tin rằng có một đường lối tốt đẹp hơn và ngắn ngủi hơn để làm vinh danh Thiên Chúa hơn là tùng phục Mẹ Maria như Chúa Giêsu đã làm?

(còn tiếp)

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Thông Điệp Thánh Thể


 
 
ĐTC Gioan Phaolô II

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html

Dẫn Nhập

8.         Khi Tôi nghĩ đến Thánh Thể, và nhìn vào đời sống của Tôi với tư cách là một vị linh mục, một vị Giám Mục và là vị Thừa Kế Thánh Phêrô, Tôi tự nhiên nghĩ đến nhiều lần và nhiều nơi Tôi đã cử hành Thánh Thể. Tôi nhớ nhà thờ xứ Niegowíc, nơi Tôi thi hành bài sai đầu tiên của mình, nhà thờ Thánh Florian ở Krakow cho sinh viên đại học, Vương Cung Thánh Đường Wawel, Đền Thờ Thánh Phêrô và nhiều đền thờ và nhà thờ ở Rôma cũng như trên khắp thế giới. Tôi đã có thể cử hành Thánh Lễ ở những nguyện đường dọc các sườn núi, trên các bờ hồ và các ven biển; Tôi đã cử hành Thánh Thể trên các bàn thờ dựng lên ở các thao trường cũng như ở các công viên thành phố… Cảnh trí của những lần cử hành Thánh Thể khác nhau này đã hiến cho Tôi một cảm nghiệm mãnh liệt về tính chất đại đồng và có thể nói tính chất vũ trụ của Thánh Thể. Phải, vũ trụ! Vì ngay cả khi Thánh Thể được cử hành ở bàn thờ thô sơ của một nhà thờ thôn quê thì Thánh Thể, một cách nào đó, bao giờ cũng được cử hành trên bàn thờ thế giới. Thánh Thể liên kết trời đất lại với nhau. Thánh Thể bao gồm và thấm nhập tất cả thiên nhiên tạo vật. Con Thiên Chúa đã làm người để phục hồi tất cả thiên nhiên tạo vật, bằng một tác động chúc tụng duy nhất tối cao, về cho Đấng đã tạo nên nó từ hư không. Là Vị Thượng Tế Hằng Hữu, bằng máu Thập Giá của mình, Người đã tiến vào thánh cung vĩnh cửu, nhờ đó trả về cho Đấng Hóa Công và là Cha tất cả mọi tạo sinh đã được cứu chuộc. Người làm như thế bằng thừa tác vụ tư tế của Giáo Hội cho vinh quang của Ba Ngôi Chí Thánh. Đây thực sự là mầu nhiệm đức tin mysterium fidei, một mầu nhiệm được nên trọn nơi Thánh Thể, ở chỗ, thế giới phát xuất từ bàn tay Thiên Chúa Hóa Công giờ đây trở về với Ngài do Chúa Kitô cứu chuộc.

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

      

Cuộc Họp Quốc Tế Thứ Hai của Những Chính Trị Gia và Các Nhà Lập Pháp ở Âu Châu diễn ra tại Vatican ngày 22-24/10/1998

 

“Mối Liên Hệ giữa Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền Năm 1948 và Hiến Chương Nhân Quyền về Gia Đình Năm 1983 của Tòa Thánh Rôma” 

  

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL,  chuyển dịch   

 

Một Số Quyền Lợi Của Gia Đình Và Quyền Sống Bị Khinh Thường 

 

2.1  "Các quyền lợi của con người mà tầm quan trọng phổ quát của chúng được nhấn mạnh năm 1948 không được công nhận một cách hoàn toàn hay được tôn trọng ở mọi nơi, bởi chính quyền hay bởi các cơ cấu tổ chức riêng tư. Đây là một số trường hợp liên quan đặc biệt đến gia đình và sự sống mà bất hạnh thay cũng xẩy ra ngay cả ở Âu Châu nữa.  

 

2.2  "Khoản 3: Quyền sống bị chối bỏ bởi những khoản luật cho phép - thực ra là khuyến khích - phá thai, hủy thai, và trợ tử ở nơi một số xứ sở. 

 

2.3  "Khoản 12: Quyền tôn trọng tính cách riêng tư và danh thơm tiếng tốt của con người, qua những vận động về báo chí, những tố giác xảo quyệt, những 'nhãn hiệu' có tính cách kỳ thị (như 'những tên thủ cựu', 'những người hùng luân ly', 'những kẻ cuồng nhiệt ủng hộ sự sống'); thái độ cười nhạo thành phần giới trẻ tỏ ra chống lại tính cách bi quan về dục tính v.v.   

 

2.4  "Khoản 16: Quyền kết hôn và lập gia đình, qua việc hạ giá cơ cấu hôn nhân; việc các vị chính quyền không màng chi tới tình trạng lệch lạc về đạo lý của xã hội (như tính cách hỗn độn của giới trẻ, sống chung mà không hề có ý dấn thân hay cảm quan trách nhiệm, tình trạng phát triển về bạo lực, ngay cả trong việc chiêu mộ đồng tính luyến ái mà không tôn trọng kẻ khác và những tổ chức hiện hữu), việc thu thuế gia đình và các qui chế ác cảm với gia đình. 

 

2.5  "Khoản 26: Quyền lợi của cha mẹ trong việc chọn chương trình giáo dục được cung cấp cho con cái họ, qua việc lạm dụng việc dạy tính dục cho con cái họ ở nhà trường hay nơi những chương trình chăm sóc sức khỏe, việc ngừa thai và đôi khi phá thai cho vị thành niên đã được tách khỏi quyền bảo vệ của cha mẹ họ, việc giới hạn tự do của phụ huynh trong việc chọn chương trình giáo dục và học đường cho con cái hợp với những niềm xác tín của họ. 

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net