CHÚA NHẬT 16/3/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

"Với cây thập giá, Chúa Giêsu đã mở cánh cửa của Thiên Chúa, cánh cửa giữa Thiên Chúa và con người".

Bài Giảng Chúa Nhật Lễ Lá 1/4/2007 về việc Theo Chúa Kitô cách riêng với giới trẻ

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (169-170)

Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô

2. Việc tôn sùng này giúp chúng ta noi gương bắt chước Chúa Kitô

   MẾN Yêu Thánh Thể  

 ĐTC Gioan Phaolô II

Thông Điệp Thánh Thể (34-35)

Thánh Thể Và Vấn Ðề Hiệp Thông Xã Hội

     YÊU Thương Tha Nhân              

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

“Mối liên hệ đặc biệt nơi cuộc sống hôn nhân của thành phần lãnh nhận phép rửa đối với mầu nhiệm Thiên Chúa" (6-8)

Huấn Từ của  ngày 30/1/2003 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán 

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

"Với cây thập giá, Chúa Giêsu đã mở cánh cửa của Thiên Chúa, cánh cửa giữa Thiên Chúa và con người".

 

 

Bài Giảng Chúa Nhật Lễ Lá 1/4/2007 về việc Theo Chúa Kitô cách riêng với giới trẻ

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Trong cuộc rước của Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta liên kết với đám đông môn đệ, thành phần hân hoan hộ tống Chúa vào thành Giêrusalem. Khi các vị, chúng ta lớn tiếng chúc tụng Chúa về tất cả các việc lạ lùng chúng ta đã chứng kiến thấy. Phải, cả chúng ta nữa cũng đã thấy và tiếp tục thấy những việc lạ lùng của Chúa Kitô, ở chỗ, Người đã khiến cho các con người nam nữ từ bỏ những gì là tiện nghi thoải mái của đời sống ra sao để hoàn toàn dấn thân phục vụ người đau khổ; Người làm cho những con người nam nữ can trường ra sao trong việc chống lại bạo lực và dối trá, hầu tạo được chỗ đứng cho sự thật trên thế giới này; Người âm thầm dẫn dắt các con người nam nữ như thế nào trong việc hành thiện cho kẻ khác, trong việc mang lại hòa giải nơi đâu ghen ghét, kiến tạo hòa bình nơi đâu thù hận.

 

Cuộc rước này trước hết là một chứng từ hân hoan chúng ta hiến dâng lên cho Chúa Kitô, Đấng tỏ hiện dung nhan của Thiên Chúa đối với chúng ta và nhờ Người tâm can của Thiên Chúa mở rộng trước tất cả chúng ta. Theo Phúc Âm Thánh Luca, thì trình thuật về khởi điểm của cuộc nghênh đón ở ngoại thành Giêrusalem này được viết lên phần nào theo kiểu mẫu nghi thức đăng quang là những gì được Sách Các Vua Quyển Thứ Nhất kể đến khi Vua Solomon thừa kế triều đại Đavít (x 1Kgs 1:33-35).

 

Bởi vậy, việc rước lá cũng là một cuộc nghênh đón Chúa Kitô Vua: Chúng ta tuyên xưng vương quyền của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta nhìn nhận Chúa Giêsu là con vua Đavít, là Solomon thật sự – vị Vua của hòa bình và công lý. Việc nhìn nhận Người là Vua nghĩa là chấp nhận Người như Đấng tỏ cho chúng ta thấy đường lối, Đấng chúng ta ký thác bản thân mình và là Đấng chúng ta đi theo. Nghĩa là chấp nhận lời Người hằng ngày như là tiêu chuẩn vững chắc cho đời sống của chúng ta. Nghĩa là thấy nơi Người quyền bính chúng ta cần phải phục tùng. Chúng ta phục tùng Người vì thẩm quyền của Người là thẩm quyền  sự thật. 

 

Cuộc rước lá là – như đối với các môn đệ bấy giờ – trước hết là việc bày tỏ niềm hân hoan, vì chúng ta có thể nhận biết Chúa Giêsu, vì Người khiến chúng ta có thể trở thành bạn hữu của Người, và vì Người đã ban cho chúng ta chìa khóa sự sống. Niềm vui này, niềm vui ban đầu này, dù sao cũng là việc bày tỏ việc chúng ta ‘ưng thuận’ Chúa Giêsu và việc c hung ta sẵn lòng đi với Người bất cứ nơi nào Người dẫn chúng ta tới. Lời huấn dụ mở đầu phụng vụ của ngày hôm nay bởi thể mới có lý cho thấy cuộc rước lá này cũng tiêu biểu cho những gì c hung ta gọi là ‘việc theo Chúa Kitô’: Chúng ta đã đọc rằng ‘Chúng ta hãy xin ơn theo Người’. Lời bày tỏ ‘theo Chúa Kitô’ là lời diễn tả toàn thể cuộc sống Kitô hữu. Nó ở tại chỗ nào? ‘Theo Chúa Kitô’ cụ thể có nghĩa là gì?

 

Mới đầu, nơi các môn đệ đầu tiên, thì ý nghĩa này là những gì rất đơn giản và trực giác: nó có nghĩa là những con người này đã quyết định bỏ nghề nghiệp của mình, công việc của mình, cả đời của mình, để đi theo Chúa Giêsu. Nó có nghĩa là một nghề nghiệp mới: nghề làm môn đệ. Nội dung căn bản của nghề n ày đó là đi với vị sư phụ ấy, hoàn toàn ký thác bản thân  mình cho việc Người dẫn dắt. Như thế việc theo này là một điều gì bên ngoài đồng thời cũng là một điều gì đó rất nội tâm.

 

Khía cạnh bề ngoài là việc bước đi sau Chúa Kitô qua những nẻo đường của Người khắp mảnh đất Palestine; khía cạnh nội tâm là hướng đi mới của cuộc sống, một hướng đi không còn qui chiếu vào các thứ vật chất, vào nghề nghiệp quyết định đời sống con người trước đó, vào ý muốn cá nhân của con người nữa, mà việc con người hoàn toàn phó mình cho ý muốn của Đấng Khác. Bấy giờ việc phụng vụ Người trở thành lẽ sống. Việc từ bỏ những gì người ta có mà điều này đòi hỏi, việc thoát ly bản thân mình, chúng ta đều có thể thấy được một cách rất rõ ràng ở một số cảnh trong Phúc Âm. 

 

Từ đó, chúng ta thấy được rõ ràng ý nghĩa việc theo Chúa cùng với yếu tính thực sự của nó, đó là vấn đề nó liên hệ tới việc biến đổi sâu xa đời sống. Nó đòi hỏi là tôi không còn đóng khung vào việc coi vấn đề hiện thực bản thân mình như là mục đích chính yếu của đời sống của tôi. Nó cần tôi phải tự nguyện hiến mình cho một Đấng Khác – vì sự thật, vì tình yêu, vì Thiên Chúa là Đấng, nơi Chúa Giêsu Kitô, đã đi trước tôi và chỉ vẽ cho tôi đường đi  nước bước.

 

Những gì chúng ta đang nói tới ở đây là một quyết định thiết yếu trong việc không còn coi trọng tiện ích và chiếm đạt, nghề nghiệp và thành đạt như là mục đích tối hậu của cuộc sống, mà là việc nhận biết sự thật và tình yêu như là những qui chuẩn đích thuưc. Chúng ta đang nói về việc chọn lựa giữa vấn đề sống cho bản thân mình và vấn đeê hy hiến bản thân mình – điều nào quan trọng hơn. Và chúng ta hiểu rằng sự thật và tình yêu không phải là những thứ giá trị trừu tượng; nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng đã trở thành một ngôi vị. Theo Người là tôi tiến tới việc phục vụ sự thật và tình yêu. Đánh mất bản thân mình là tôi tìm được nó.

 

Chúng ta hãy trở lại với phụng vụ và với cuộc rước lá. Phụng vụ lấy bài Thánh Vịnh 24 làm bài hát; bài thánh vịnh này cũng được sử dụng ở Do Thái như là một bài hát cho việc tiến lên núi đền thờ. Bài thánh vịnh này giải thích việc tiến lên bên trong được thể hiện qua hình ảnh tiến lên bề ngoài, và giải thích cho chúng ta biết một lần nữa những gì nó muốn nói đến việc tiến lên với Chúa Kitô.

 

‘Ai có thể tiến lên núi Chúa?’, bài thánh vịnh hỏi, và bài này nêu lên hai điều kiện thiết yếu. Những ai tiến lên và thực sự muốn lên tới đỉnh, tới tột đỉnh thực sự, cần phải là những con người tự hỏi mình về Thiên Chúa. Họ cần phải là những con người nhìn lại bản thân mình trong việc tìm kiếm Thiên Chúa, trong việc tìm kiếm dung nhan của Ngài. Các bạn trẻ thân mến, ngày nay việc này quan trọng như thế nào: không để mình bị đời sống xô đẩy; không mãn nguyện với những gì mọi người nghĩ tưởng, nói năng và tác hành. Hãy chuyên chú tới Thiên Chúa, hãy tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng ta không được để biến khuất trong linh hồn của chúng ta vấn đề về Thiên Chúa. Ước vọng những gì cao cả hơn. Ước vọng nhận biết Ngài – dung nhan của Ngài…

 

Một điều kiện rất cụ thể khác để tiến lên đó là: ‘Kẻ có bàn tay vô tội và một con tim  tinh tuyền’ là người có thể đứng trong nơi thánh. Những bàn tay vô tội – những bàn tay không được sử dụng vào các việc bạo động. Chúng là những bàn tay không được vấy bẩn bởi tình trạng băng hoại, bởi những thứ đút lót. Một con tim tinh tuyền – con tim tinh tuyền này vào lúc nào? Con tim tinh tuyền là con tim không giả vờ cũng không lừa dối mình và giả hình. Một con tim luôn trong sáng như nước trào dâng, vì nó không biết gì đến tính cách nhị nguyên hai lòng. Trái tim này tinh tuyền là trái tim kiệt quệ bởi say sưa khoái lạc; một con tim có tình yêu chân thật chứ không phải chỉ hăng say trong chốc lát. Những bàn tay vô tội và con tim tinh tuyền: Nếu chúng ta bước đi với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tiến lên và được thanh tẩy khiến chúng ta thực sự tiến tới tột đỉnh là đích điểm của con người, đó là mối thân nghĩa với chính Thiên Chúa.

 

Bài Thánh Vịnh 24 nói về cuộc tiến lên được kết thúc bằng phụng vụ tiến vào trước cổng đền thờ: ‘Cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; cửa ơi, vươn mình lên nữa, để vua vinh quang tiến vào’. Trong phụng vụ cũ của Chúa Nhật Lễ Lá, vị linh mục, khi tiến tới cửa nhà thờ, đã dùng cây gậy của thánh giá gõ mạnh vào cánh cửa đóng bấy giờ được mở ra. Đó là một hình ảnh tuyệt vời về chính Chúa Giêsu, với gỗ thánh giá, với quyền năng tình yêu của Người ban cho chúng ta, Người đã gõ lên cánh cửa của Thiên Chúa từ cạnh của thế giới; từ cạnh của một thế giới không thể nào tìm thấy đường lối để đến với Thiên Chúa nữa.

 

Với cây thập giá, Chúa Giêsu đã mở cánh cửa của Thiên Chúa, cánh cửa giữa Thiên Chúa và con người. Giờ đây nó đang mở ra. Thế nhưng, cũng từ phía bên kia, Chúa gõ bằng cây thập giá của Người: Người đang gõ vào cánh cửa thế giới, vào cánh cửa của tâm can chúng ta, những cánh cửa rất thường và rất nhiều đóng lại trước Thiên Chúa. Và Người nói với chúng ta không nhiều thì ít bằng cách này, đó là: Nếu những chứng cớ Thiên Chúa ban chính mình Ngài nơi thiên nhiên tạo vật không thành công trong việc mở lòng các bạn ra cho Ngài; nếu lời Thánh Kinh và sứ điệp của Giáo Hội vẫn khiến các bản dửng dưng – thì hãy nhìn Ta đây, Chúa của các con và là Thiên Chúa của các con.

 

Chính lời kêu gọi này trong giờ phút này đây chúng ta hãy để nó thấm vào tâm can của chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta mở cửa lòng mình ra, con tim của thế giới ra, nhờ đó, Ngài là vị Thiên Chúa hằng sống, nơi Con của Ngài, tiến vào thời gian của chúng ta và chạm đến đời sống của chúng ta. Amen.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/3/2007

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Nguyên Tác của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


 

Phn Hai: Việc Trn Ho Sùng Kính Đức M

  

Chương Thứ Ba: Việc Tận Hiến Cách Hoàn Hảo cho Chúa Giêsu Kitô

 

3. Việc tôn sùng này chiếm được nhiều phúc lành từ Đức Mẹ    

  

(6) Việc tôn sùng này mang lại tình trạng dồi dào tự do thiêng liêng

 

169.     Việc tôn sùng này mang lại tình trạng dồi dào tự do thiêng liêng – tình trạng tự do của thành phần con cái Thiên Chúa – cho những ai trung thành thựa hành nó. Nhờ việc tôn sùng này, chúng ta biến mình làm nô lệ cho Chúa Giêsu bằng việc hoàn toàn hiến mình cho Người. Để tưởng thưởng chúng ta về việc làm nô lệ yêu thương ấy, Chúa của chúng ta giải thoát chúng ta khỏi hết mọi nỗi sợ hãi bối rối và đớn hèn là những gì có thể gò bó, giam cầm hay lộn xộn chúng ta; Người mở lòng chúng ta ra và làm cho nó đầy niềm cậy trông thánh đức nơi Thiên Chúa, giúp chúng ta coi Thiên Chúa là Cha của chúng ta; Người tác động chúng ta bằng một tình yêu quảng đại và thơ thảo.

 

170.     Không cần phải dừng lại để chứng minh sự thật ấy, tôi chỉ xin thuật lại một tình tiết mà tôi đã đọc được về đời sống của Mẹ Agnes Chúa Giêsu, một nữ tu Dòng Đaminh thuộc tu viện Langae ở Auvergne, vị đã qua đời một cách thánh đức ở đó vào năm 1634.

 

Khi Mẹ mới được 7 tuổi mà đã phải chịu đựng tình trạng rất buồn khổ thiêng liêng, Mẹ đã nghe thấy một tiếng nói với mẹ rằng nếu mẹ muốn được giải thoát khỏi nỗi sầu khổ ấy và được bảo vệ cho khỏi tất cả mọi kẻ thù, thì Mẹ phải biến mình làm nô lệ cho Chúa và Người Mẹ Phúc Đức của Người sớm bao nhiêu có thể. Khi vừa về đến nhà là mẹ liên hoàn toàn dâng mình cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria như nô lệ của các Ngài, mặc dù mẹ chưa bao giờ biết được một tí gì về việc tôn sùng này trước đó. Mẹ đã tìm một sợi guây xích bằng sắt, quấn nó quanh thắt lưng mình và cứ đeo nó cho đến khi qua đời. Sau đó, tất cả mọi đau khổ và hoang mang bối rối của mẹ đã biến  mất và mẹ cảm thấy dồi dào bình an trong tâm hồn.

 

Biến cố ấy đã khiến mẹ đi đến chỗ giảng dạy về việc tôn sùng này cho nhiều người khác là thành phần đạt được tiến bộ nhanh chóng bởi nó – trong số họ cho Cha Olier, vị sáng lập Chủng Viện Xuân Bích, cùng một số vị linh mục và sinh viên khác thuộc cùng chủng viện này. Một ngày kia, Đức Trinh Nữ đã hiện ra với Mẹ Agnes và đeo quanh cổ mẹ một sợi xích bằng vàng để tỏ cho mẹ biết rằng Người cảm thấy sung sướng biết bao khi Mẹ Agnes đã trở thành nô lệ của cả Người lẫn Con của Người. Và Thánh Cêcilia, vị theo hầu Đức Mẹ, đã nói với mẹ rằng: “Phúc thay cho những người nô lệ trung thành của Nữ Vương thiên đình, vì họ sẽ hoan hưởng niềm tự do đích thực”. Tibi servire libertas.

(còn tiếp)

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Thông Điệp Thánh Thể


 
 
ĐTC Gioan Phaolô II

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_17042003_ecclesia-de-eucharistia_en.html

Chương Hai

Thánh Thể Và Vấn Ðề Hiệp Thông Xã Hội

 

34.       Thượng Hội Giám Mục Thế Giới 1985 đã nhín thấy được nơi ý niệm về một “khoa giáo hội học của mối hiệp thông” ý tưởng chính yếu và nồng cốt của tất cả các văn kiện của Công Ðồng Chung Vaticanô II (67). Giáo Hội, trong cuộc lữ hành trần thế của mình, được kêu gọi bảo trì và phát triển mối hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi cũng như mối hiệp thông nơi thành phần tín hữu. Bởi thế Giáo Hội mới có được lời Chúa và các phép bí tích, nhất là Thánh Thể, để có thể “liên lỉ sống động và tăng trưởng” (68), và thể hiện chính bản chất của mình. Không phải là ngẫu nhiên từ ngữ hiệp thông đã trở thành một trong những tên gọi được gán ghép cho bí tích cao trọng này.

Như thế, Thánh Thể trở nên tuyệt đỉnh của tất cả mọi bí tích trong việc hoàn hảo mối hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa Cha, bằng việc đồng hóa với Người Con duy nhất của Ngài, nhờ hoạt động của Thánh Linh. Ý thức được đức tin, một cây viết nổi tiếng của truyền thống Bazantine đã nói lên sự thật này: đó là nơi Thánh Thể “không giống như bất cứ một bí tích nào khác, mầu nhiệm (của mối hiệp thông) hoàn hảo đến nỗi nó làm cho chúng ta đạt đến tuyệt đỉnh của tất cả mọi sự thiện hảo, nơi là đích điểm tối hậu của hết mọi ước muốn con người, vì đó là nơi chúng ta đạt tới Thiên Chúa, một Thiên Chúa liên kết bản thân mình với chúng ta bằng mối hiệp nhất hoàn hảo nhất” (69). Chính vì lý do này mà việc vun trồng trong tâm hồn chúng ta một liên lỉ ước muốn bí tích Thánh Thể là điều thiện ích. Ðó là khởi đầu của việc tập “hiệp thông thiêng liêng”, một mối hiệp thông thiêng liêng đã được diễm phúc thiết lập trong Giáo Hội qua nhiều thế kỷ, và được khuyến dụ bởi những vị thánh là thày dạy đời sống thiêg liêng. Thánh Têrêsa Giêsu đã viết: “Khi chị em không hiệp lễ và không dự lễ, chị em vẫn có thể thực hiện việc hiệp thông thiêng liêng là một việc làm hết sức ích lợi; nhờ việc hiệp thông thiêng liêng này tình yêu Thiên Chúa sẽ sâu xa rất nhiều nơi chị em” (70).

35.       Tuy nhiên, việc cử hành Thánh Thể không thể là khởi điểm cho mối hiệp thông; Thánh Thể vốn phải được hiểu là đã có mối hiệp thông này, một mối hiệp thông cần phải được củng cố và đạt đến mức độ trọn hảo. Bí tích Thánh Thể là việc diễn đạt mối liên kết hiệp thông này, cả nơi chiều kích vô hình của bí tích này, một chiều kích liên kết chúng ta với Chúa Cha cũng như với nhau trong Chúa Kitô và nhờ hoạt động của Thánh Thần, lẫn chiều kích hữu hình, một chiều kích bao gồm việc hiệp thông theo giáo huấn của các Tông Ðồ, nơi các bí tích và theo phẩm trật Giáo Hội. Vấn đề liên hệ sâu xa giữa những yếu tố vô hình và hữu hình nơi mối hiệp thông giáo hội này là những gì làm cho Giáo Hội trở thành như một bí tích cứu độ (71). Chỉ có như thế thì việc cử hành Thánh Thể mới ý nghĩa và mới thực sự tỏ ra tham dự vào việc cử hành này. Tóm lại, Thánh Thể thật sự cần phải được cử hành trong tình hiệp thông, nhất là việc bảo tồn trọn vẹn những mối liên hệ khác nhau của tình hiệp thông này.

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

     

ĐTC Gioan Phaolô II

 

“Mối liên hệ đặc biệt nơi cuộc sống hôn nhân của thành phần lãnh nhận phép rửa đối với mầu nhiệm Thiên Chúa”

  Huấn Từ của  ngày 30/1/2003 với Pháp Đình Roma dịp Mở Năm Tài Phán 

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL,  chuyển dịch

(từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 14/2/2003)  

 

6.         Từ những nguyên tắc này, người ta có thể rút ra nhiều thành quả cụ thể nơi bản chất của công việc mục vụ, luân lý và pháp lý. Tôi muốn đề cập đến một ít thành quả liên hệ đặc biệt với hoạt động pháp lý của quí chức.

 

Trước hết, quí chức không bao giờ được quên rằng mình nắm trong tay mầu nhiệm cao cả được Thánh Phaolô nói đến (x Eph 5:32), cả khi quí chức đối diện với một cuộc hôn nhân có tính cách bí tích theo đúng nghĩa của nó, lẫn trường hợp cuộc hôn nhân tự nó có tính chất linh thánh nguyên khởi, tức là được kêu gọi để trở thành một bí tích qua việc lãnh nhận phép rửa của đôi phối ngẫu. Việc chú trọng đến tính cách bí tích này làm nổi bật siêu việt tính nơi phận vụ của quí chức, mối giây thắt cột nó với công cuộc cứu độ. Đó là lý do khía cạnh đạo nghĩa phải thấm nhập vào tất cả mọi hoạt động của quí chức. Từ việc thực hiện những nghiên cứu khoa học về đời sống hôn nhân đến hoạt động hành sử công lý hằng ngày, sẽ không còn chỗ đứng trong Giáo Hội cho một nhãn quan về hôn nhân hoàn toàn nhất thời và tục hóa nữa, chỉ vì cái nhãn quan này không đúng về thần học cũng như về pháp lý.

 

7.         Theo chiều hướng này, chẳng hạn, cần phải lấy cẩn trọng về trách nhiệm của vị thẩm phán theo khoản Giáo Luật 1676 trong việc nâng đỡ và tích cực tìm cách làm vững chắc và hòa giải hôn nhân bao nhiêu có thể. Về phương diện tự nhiên cũng thế, thái độ nâng đỡ cuộc sống hôn nhân và gia đình phải được ưu tiên trước khi tiến đến pháp đình. Việc mục vụ cần phải từ từ giúp soi sáng cho lương tâm con người về sự thật liên quan đến phận sự trổi vượt của lòng trung thành là những gì được trình bày một cách thu hút và thuận lợi. Trong việc hoạt động để tiến tới chỗ tích cực thắng vượt được những xung khắc về hôn nhân, cũng như trong việc trợ giúp tín hữu đang ở vào trường hợp hôn nhân bất bình thường, cần phải tạo nên một sự hợp tác bao gồm hết mọi người trong giáo hội: như cả các vị mục tử, chuyên viên luật pháp, chuyên gia về các khoa tâm lý và tâm thần, thành phần giáo dân, nhất là những ai đã lập gia đình và có kinh nghiệm sống. Tất cả cần phải nhớ rằng họ đang đối diện với một thực tại linh thánh cũng như với một vấn đề động chạm đến phần rỗi các linh hồn.

 

8.         Tầm quan trọng của tính cách bí tích nơi hôn nhân, và nhu cầu cần phải có đức tin để nhận biết và sống trọn vẹn chiều kích này, có thể tạo nên một số hiểu lầm, hoặc liên quan tới việc cho phép cử hành hôn nhân hay liên quan tới những phán quyết về tính cách hiệu thành của hôn nhân. Giáo Hội không từ chối cho phép cử hành một cuộc hôn nhân đối với những ai có đủ điều kiện, cho dù họ chưa hoàn toàn về quan điểm siêu nhiên, miễn là con người này có ý hướng đúng đắn trong việc lập gia đình theo bản chất tự nhiên của hôn nhân. Thật vậy, song song với cuộc hôn nhân theo tự nhiên, người ta không thể nói đến một kiểu mẫu khác theo hôn nhân Kitô Giáo với những đòi hỏi siêu nhiên chuyên biệt.

 

Không được gạt bỏ sự thật này trong việc xác định những ranh giới về vần đề không bao gồm tính cách bí tích (x canon. 1101.2) cũng như về  “việc xác định xem có gì lầm lỗi nơi tính cách hiệu thành bí tích” (x can. 1099) như những lý do có thể hủy hôn. Trong cả hai trường hợp ấy, cần phải nhớ rằng, thái độ của những ai lập gia đình không để ý tới chiều kích siêu nhiên của hôn nhân có thể cho hủy hôn và không thành, chỉ khi nào nó tác hại tới tính cách thành hiệu của nó ở lãnh vực tự nhiên là lãnh vực cho thấy dấu hiệu của bí tích hôn nhân. Giáo Hội Công Giáo bao giờ cũng công nhận những cuộc hôn nhân giữa thành phần không lãnh nhận phép rửa như là một bí tích Kitô Giáo qua việc rửa tội của đôi phối ngẫu, Giáo Hội cũng không đặt vấn đề về sự thành hiệu của cuộc hôn nhân giữa một người Công Giáo với một người chưa chiụ phép rửa tội, nếu nó được cử hành với phép chuẩn cần thiết.

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net