CHÚA NHẬT 30/3/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

ĐTC Gioan Phaolo II

Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa

Bài Giảng Lễ cung hiến Tân Đền Thờ Chúa Tình Thương ở Lagiewniki, ngoại ô thành phố Krakow

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

ĐTC Gioan Phaolo II

Mẹ Maria được thụ thai vô nhiễm nguyên tội

Loạt Bài về Thời Điểm Maria

   MẾN Yêu Thánh Thể  

 Lòng Thương Xót Chúa

Thánh Mary Faustina Kowalska (1905-1938), Vị Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa

Nhật Ký của Chị Thánh Faustina

               YÊU Thương Tha Nhân              

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Trường Sinh

   ...Một Tinh Thần

 

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

ĐTC Gioan Phaolo II

 

"Hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa...

Chớ gì lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giãi ra 'tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha'”.

 

Bài Giảng Lễ cung hiến Tân Đền Thờ Chúa Tình Thương ở Lagiewniki, ngoại ô thành phố Krakow

 


 

Thứ Bảy, 17/8/2002, ĐTC đã dâng thánh lễ cung hiến Tân Đền Thờ Chúa Tình Thương. Có khoảng 20 ngàn người theo dõi cuộc cung hiến này ở bên ngoài ngôi đền thờ, một ngôi đền thờ được xây trên ba năm, gần tu viện của Thánh Nữ Faustina. Bên trên nhà tạm khổng lồ bằng vàng theo hình quả cầu thế giới là một bức hình Chúa Giêsu Tình Thương, bức hình được vây chung quanh bằng một bụi gai bị gió lay chuyển, tiêu biểu cho việc con người chiến đấu chống lại tình trạng yếu hèn của mình. Mặc dù không được ở gần chỗ ĐTC, các người tham dự bên ngoài đền thờ vẫn âm thầm quì gối trên vỉa hè để theo dõi lễ nghi cung hiến này qua máy phát thanh. Bất chấp khí hậu hết sức nóng bức, ĐTC cũng vẫn không rút ngắn lễ nghi cung hiến ngôi đền thờ này. Theo lòng cảm xúc, ĐTC đã nói lên những lời tự phát như sau: “Ai có thể nghĩ rằng có người đã từng bước đi ở nơi đây với những chiếc giầy bằng gỗ mà một ngày kia lại là người cung hiến ngôi đền thờ này nhỉ?” Bởi vì, cách ngôi đền thờ này ít thước là khu hầm mỏ Solvay, nơi ĐTC khi còn trẻ đã làm việc trong thời kỳ Nazi chiếm đóng Balan. Cuối lễ, ĐTC đã gặp riêng cựu tổng thống Balan thời hậu Cộng Sản cũng là vị chủ tịch Công Đoàn Liên Đới thời Cộng Sản là Lech Walesa. Sau đây là bài giảng của ĐTC trong thánh lễ cung hiến ngôi tân đền thờ Chúa Tình Thương này.

 


“Ôi Tình Thương của Thiên Chúa khôn thấu và khôn lường,
Ai mới xứng đáng tôn thờ Chúa và chúc tụng Ngài đây?
Ôi ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa Toàn Năng,                                       

Chúa là niềm hy vọng ngọt ngào của các tội nhân”
(Nhật Ký, 951).
Anh Chị Em thân mến!

1. Hôm nay Tôi muốn lập lại những lời đơn sơ và chân thành này của Thánh Nữ Faustina để hợp với thánh nhân cũng như với tất cả anh chị em tôn thờ mầu nhiệm khôn thấu và khôn lường của tình thương Thiên Chúa. Như Thánh Faustina, chúng ta muốn loan báo rằng, ngoại trừ tình thương của Thiên Chúa, không còn một nguồn hy vọng nào khác cho loài người nữa. Chúng ta cần tin tưởng lập lại rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa!

Việc loan báo này, việc tuyên xưng lòng tin tưởng vào tình yêu toàn năng của Thiên Chúa là việc đặc biệt cần thiết ở thời đại chúng ta đây, khi mà nhân loại đang trải qua một tình trạng biến loạn trước những xuất hiện của sự dữ. Việc kêu cầu lòng thương xót Chúa cần phải được vang lên từ thẳm cung của các cõi lòng đầy những khổ đau, băn khoăn về tương lai và sống trong bất ổn, đồng thời lại trông mong một nguồn hy vọng vững chắc. Đó là lý do tại sao chúng ta đến đây hôm nay, đến Ngôi Đền Thờ Lagiewniki này, để một lần nữa thoáng thấy nơi Chúa Kitô dung nhan của Thiên Chúa Cha: “Người Cha của tình thương và là Thiên Chúa của tất cả mọi niềm ủi an” (2Cor 1:3). Bằng con mắt linh hồn của mình, chúng ta mong nhìn vào đôi mắt của Chúa Giêsu nhân hậu, để thấy được sâu xa trong ánh mắt của Người những gì phản ảnh nội tâm của Người, cũng như thấy được ánh sáng ân sủng là những gì chúng ta đã thường xuyên lãnh nhận, và là những gì Thiên Chúa ban lại cho chúng ta mỗi ngày cũng như vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta.

2.- Chúng ta sắp cung hiến ngôi nhà thờ mới này cho Tình Thương của Thiên Chúa. Trước khi thực hiện điều này, Tôi (ĐTC ngỏ lời chào những vị liên hệ với Ngôi Đền Thờ và những vị liên quan đến việc loan truyền lòng thương xót Chúa…)

3.- Hỡi Anh Chị Em! Khi chúng ta cung hiến ngôi thánh đường mới này, chúng ta cũng có thể đặt vấn đề đã làm cho vua Solomon phải bối rối khi vua cung hiến Đền Thờ Giêrusalem để làm nhà cho Thiên Chúa: “Thế nhưng, có thật Thiên Chúa sẽ ở trên mặt đất này hay chăng? Kìa, trời và trời cao không thể chứa nổi Ngài thì ngôi nhà tôi xây cất lên đây lại càng không thể nào làm nổi!” (1Kg 8:27). Phải, thoạt nhìn thì thật là bất xứng hợp khi trói buộc việc Thiên Chúa hiện diện vào một “nơi chốn” nào đó. Chúng ta không bao giờ được quên rằng thời gian và không gian đều hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Tuy nhiên, cho dù thời gian và cả thế giới này được coi như “đền thờ” của Ngài, Thiên Chúa vẫn chọn một thời điểm nào đó và địa điểm nào đó để con người có thể cảm nghiệm được một cách đặc biệt sự hiện diện của Ngài và ân sủng của Ngài. Được thúc đẩy bởi cảm quan đức tin của mình, con người hành trình đến những nơi này, tin tưởng rằng, ở đó họ sẽ thực sự tìm thấy chính mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trong cùng một tinh thần tin tưởng ấy, Tôi đã đến Lagiewniki để cung hiến ngôi thánh đường mới này. Tôi tin tưởng rằng đây là nơi đặc biệt Thiên Chúa chọn để gieo vãi ân sủng tình thương của Ngài. Tôi cầu xin cho ngôi thánh đường này được luôn luôn trở thành một nơi loan báo sứ điệp tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa; một nơi của hoán cải và thống hối; một nơi cử hành Thánh Thể; một suối nguồn tình thương; một nơi nguyện cầu và liên lỉ kêu xin tình thương cho chúng ta cũng như cho toàn thế giới. Tôi dùng những lời của vua Solomon mà cầu nguyện rằng: “Ôi Chúa là Thiên Chúa của tôi, xin hãy nhậm lời cầu nguyện cùng với lời van xin của tôi tớ Chúa đây, hãy lắng nghe tiếng kêu và lời cầu do tôi tớ Chúa dâng lên trước nhan Chúa hôm nay đây; xin Chúa hãy ghé mắt ngày đêm trông coi ngôi nhà này… Xin hãy nghe lời kêu cầu của tôi tớ Chúa cũng như của Yến Duyên dân Chúa, khi họ cầu xin Ngài ở nơi đây. Từ trời cao, nơi Ngài cư ngụ, xin hãy lắng nghe, và khi lắng nghe, xin Ngài hãy thứ tha cho” (1Kgs 8:28-30).
 

4.- “Thế nhưng, giờ đã đến, và giờ ấy là lúc này đây, khi mà những kẻ tôn thờ chân thực sẽ tôn thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những người tôn thờ Ngài như thế” (Jn 4:23). Khi chúng ta đọc những lời này của Chúa Giêsu ở nơi Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa này, chúng ta đặc biệt nhìn nhận rằng không một ai có thể đến đây nếu không đến trong Thần Linh và chân lý. Chính là Chúa Thánh Thần, Đấng Ủi An và là Thần Chân Lý, Đấng hướng dẫn chúng ta theo những đường nẻo của Lòng Thương Xót Chúa. Bằng việc làm cho thế gian nhận ra những gì “liên quan đến tội lỗi, sự công chính và việc phân xử” (Jn 16:8), Ngài cũng làm tỏ hiện tất cả ơn cứu độ trong Chúa Kitô. Việc “thuyết phục” liên quan đến tội lỗi này có liên hệ nhị trùng với Thập Giá Chúa Kitô. Một mặt, Thánh Linh khiến cho chúng ta, nhờ Thập Giá của Chúa Kitô, có thể nhìn nhận tội lỗi, hết mọi tội lỗi, nơi tất cả chiều kích sự dữ chất chứa và tiềm ẩn nơi tội lỗi. Mặt khác, Thánh Linh cho phép chúng ta, cũng nhờ Thập Giá Chúa Kitô, thấy được tội lỗi theo chiều kích của mysterium pietatis, tức là chiều kích mầu nhiệm tình yêu nhân hậu và thứ tha của Thiên Chúa (x Thông Điệp Dominum et vivificantem, 32).

Như thế, việc “thuyết phục liên quan đến tội lỗi” này cũng trở thành một niềm xác tín là tội lỗi có thể bị loại trừ và con người có thể phục hồi phẩm vị của mình là con cái dấu yêu của Thiên Chúa. Thật vậy, Thập Giá “là việc Thiên Chúa hạ mình thẳm sâu nhất xuống với con người […]. Thập giá chẳng khác gì một sự giao chạm của tình yêu hằng hữu trên những vết thương đau trong cuộc sống của con người” (Dives in misericordia, 8). Tảng đá nền của Ngôi Đền Thờ này sẽ mãi mãi nhắc nhở cho chúng ta về chân lý này, vì nó được mang về đây từ Núi Canvê, như thể từ chân Cây Thập Giá là nơi Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.

Tôi hết sức tin tưởng rằng ngôi thánh đường mới này sẽ luôn luôn là một nơi được con người đến với Thiên Chúa trong Thần Linh và chân lý. Họ sẽ đến đây với lòng tin tưởng là những gì đồng hành với tất cả những ai khiêm hạ biết mở lòng mình ra cho hoạt động của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa, cho một tình yêu mạnh hơn cả tội lỗi nặng nề nhất. Ở nơi đây, trong ngọn lửa của tình yêu thần linh, tấm lòng con người sẽ bừng lên lòng ước ao hoán cải, và ai tìm kiếm hy vọng sẽ gặp được niềm ủi an.

5.- “Lạy Cha hằng hữu, vì tội lỗi của chúng con và của toàn thế giới, con xin dâng lên Cha Mình Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của Con Cha yêu dấu là Chúa Giêsu Kitô; vì những sự khốn khó của Cuộc Người Khổ Nạn, xin Cha thương đến chúng con và toàn thế giới” (Nhật Ký, 476). Thương đến chúng con và toàn thế giới… Thế giới ngày nay cần đến tình thương của Thiên Chúa biết bao! Nơi hết mọi lục địa, từ vực sâu khốn khổ của loài người, tiếng kêu cầu xót thương dường như đang vang dậy. Nơi nào thù hằn và đòi rửa hận thống trị, nơi nào chiến tranh mang lại đau thương và chết chóc cho thành phần vô tội, thì ở đó cần đến ân sủng tình thương để ổn định lòng trí con người và tạo lập hòa bình. Nơi nào thiếu hụt lòng trọng kính sự sống và phẩm vị con người thì ở đó cần đến tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng mà trong ánh sáng của Ngài, chúng ta thấy được giá trị khôn tả của hữu thể con người. Cần phải có tình thương để bảo đảm rằng hết mọi bất công trên thế giới này sẽ được kết thúc trong chân lý rạng ngời.

Thế nên, hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với một lòng thiết tha mong ước thấy sứ điệp của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua Thánh Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế giới biết đến và làm cho lòng họ tràn đầy niềm hy vọng. Chớ gì sứ điệp này, từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê hương thân yêu của chúng ta cũng cho khắp thế giới. Chớ gì lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giãi ra “tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha” (x Nhật Ký, 1732).

Tia sáng này cần phải thắp lên bởi ân sủng của Thiên Chúa. Ngọn lửa tình thương này cần phải được chuyền đi cho thế giới. Trong tình thương của Thiên Chúa thế giới mới tìm thấy hòa bình và nhân loại mới tìm thấy hạnh phúc! Tôi ký thác công việc này cho Anh Chị Em thân mến, cho Giáo Hội ở Krakow và ở Balan, cũng như cho tất cả mọi người sùng mộ Lòng Thương Xót Chúa đến đây từ Balan hay từ khắp nơi trên thế giới. Chớ gì anh chị em là những chứng nhân cho tình thương!

6.- Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nơi Con của Cha là Đức Giêsu Kitô, Cha đã mạc khải tình yêu của Cha ra và đã tuôn đổ tình yêu Cha xuống trên chúng con trong Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi. Hôm nay đây chúng con xin ký thác cho Cha vận mệnh của thế giới cũng như của hết mọi con người nam nữ.

Xin Cha hãy cúi mình xuống trên tội nhân chúng con, hãy chữa lành nỗi yếu hèn của chúng con, hãy chiến thắng tất cả mọi sự dữ, và hãy ban cho tất cả mọi dân tộc trên thế giới được cảm nghiệm thấy tình thương của Cha. Chớ gì họ luôn tìm thấy nguồn hy vọng nơi Cha, Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Cha Hằng Hữu, vì Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Con Cha, xin Cha thương đến chúng con và toàn thế giới!

Amen.

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

TUẦN BẢY TRƯỚC LỄ MẸ THAI LỜI 31/3/2008

Kỷ niệm Lộ Đức 150 năm Danh Xưng: "Mẹ Hoài Thai Vô Nhiễm"

 ĐTC Gioan Phaolô II

 

Mẹ Maria được thụ thai vô nhiễm nguyên tội 

 

Loạt Bài về Thời Điểm Maria 

                                   

1- Đức Maria “đầy ơn phúc” được Giáo Hội công nhận là Đấng “hoàn toàn thánh thiện và không vương nhiễm một tì ố tội lỗi nào”, “từ giây phút đầu tiên trong lòng thai mẫu đã được sáng ngời với một sự thánh thiện trọn vẹn có một không hai” (Lumen Gentium, 56).

Việc nhận biết này đã phải trải qua một tiến trình dài suy tư về tín lý để rồi cuối cùng đã dẫn đến việc long trọng công bố tín điều Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Danh xưng “được đầy ơn phúc”, do thiên thần ngỏ cùng Đức Maria vào lúc Truyền Tin, ám chỉ hồng ân thần linh phi thường ban cho người nữ trẻ Nazarét này liên quan đến vai trò làm mẹ như lời loan báo, thế nhưng, một cách trực tiếp hơn, danh xưng ấy cho thấy hiệu quả của ân sủng thần linh nơi Đức Maria; Đức Maria được tràn đầy ơn phúc bề trong một cách vĩnh viễn nên Mẹ cũng đã được thánh hóa. Danh hiệu kecharitoméne này có một ý nghĩa rất phong phú và Chúa Thánh Thần đã không ngừng làm cho Giáo Hội ngày càng hiểu biết sâu xa hơn.

2- Trong các bài giáo lý trước đây, Tôi đã cho thấy là nơi lời chào của thiên thần, lời diễn tả “đầy ơn phúc” hầu như đóng vai trò như là một tên gọi: đó là tên gọi của Đức Maria trong con mắt của Thiên Chúa. Theo dụng ngữ của các dân Semite (biệt chú của người dịch: chính yếu là Do Thái và Ả Rập, trước đó có cả Assyria và Phonicia) thì tên gọi nói lên thực tại của người và vật mang tên ấy. Bởi thế, danh xưng “đầy ơn phúc” cho thấy chiều kích sâu xa nhất nơi bản vị của người nữ trẻ Nazarét này, ở chỗ, người nữ trẻ Nazarét ấy được ân sủng khuôn đúc và là đối tượng của lòng Thiên Chúa ưu ái, đến độ bản chất của người nữ này được làm nên bởi tấm lòng biệt ái ấy.

Công Đồng Chung Vaticanô II nhắc lại việc các Vị Giáo Phụ ám chỉ về sự thật này khi các ngài gọi Mẹ Maria là “Đấng hoàn toàn thánh hảo”, đồng thời các ngài cũng xác nhận là Mẹ được “Chúa Thánh Thần thực sự khuôn đúc và hình thành như một tạo vật mới” (Lumen Gentium, 56).

Nếu hiểu ân sủng theo ý nghĩa của “ơn thánh hóa” là ơn làm phát sinh thánh đức nơi con người thì ân sủng đã làm cho Mẹ Maria trở thành tạo vật mới, làm cho Mẹ hoàn toàn phù hợp với dự án của Thiên Chúa.

3- Việc suy tư về tín lý bởi thế có thể qui về cho Mẹ Maria một tầm mức trọn lành thánh thiện mà, để hoàn bị, cần phải bao gồm cả giây phút mở màn cuộc sống của Mẹ nữa.

Đức Giám Mục Theoteknos ở Livias miền Palestine, vị đã sống vào khoảng thời gian giữa năm 550 và 650, xem như đã ngả về chiều hướng tinh tuyền nguyên thủy này. Khi trình bày cho thấy Mẹ Maria “thánh hảo và tuyệt mỹ”, “tinh tuyền và vô tì tích”, ngài đã nói đến việc hạ sinh của Mẹ bằng những lời thế này: “Là người bởi đất xét tinh tuyền vô nhiễm, Mẹ được sinh ra như thần cherubim” (Panegyric for the feast of the Assumption, 5-6).

Lời diễn tả vừa rồi, khi nhắc lại việc tạo dựng nên con người đầu tiên, một con người được khuôn đúc bởi đất xét không nhiễm tội lỗi, đã gán cho việc Mẹ Maria vào đời cũng có những đặc tính này, đặc tính nguồn gốc của Mẹ Maria cũng “tinh tuyền và vô nhiễm”, tức là, không có bất cứ một tội lỗi nào. Việc so sánh với thần cherubim cũng nhấn mạnh đến sự thánh thiện trổi vượt làm nên đặc tính của cuộc sống Mẹ Maria từ giây phút hiện hữu đầu tiên của Mẹ.

Chủ trương của giám mục Theoteknos đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc suy tư về tín lý nơi mầu nhiệm của Mẹ Chúa. Các vị Giáo Phụ Hy Lạp và Đông Phương công nhận ân sủng đã làm cho Mẹ Maria tinh tuyền, một là trước biến cố Nhập Thể (Thánh Gregory Nazianzen, Oratio, 38, 16), hai là vào chính giây phút Nhập Thể (Thánh Ephrem, Severian Gabala, James Sarug). Giám mục Theoteknos Livias xem ra muốn thấy Mẹ Maria hoàn toàn tinh tuyền ngay từ khi Mẹ bắt đầu cuộc sống. Thật vậy, vị được ấn định trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế phải có một nguồn gốc trọn lành thánh hảo, hoàn toàn vô tì tích.

4- Vào thế kỷ thứ tám, Andrew ở Crete là thần học gia đầu tiên thấy được Mẹ Maria là một tạo vật mới nơi việc vào đời của Mẹ. Nhà thần học ấy lập luận như thế này: “Hôm nay đây (biệt chú của người dịch: hiểu theo ý nghĩa toàn câu văn thì chữ “hôm nay đây” ám chỉ ngày lễ Sinh Nhật Đức Mẹ) nhân loại nhận được nét đẹp cổ kính xa xưa của mình, nơi tất cả những gì chiếu tỏa ra từ tính cách cao sang vô nhiễm của họ. Nỗi ô nhục của tội lỗi đã làm tối tăm mù mịt đi ánh quang cùng với nét hấp dẫn của bản tính nhân loại; thế nhưng, khi Người Mẹ của Đấng Tuyệt Mỹ sinh vào đời thì bản tính này đã lấy lại nơi con người của Mẹ những đặc ân xưa kia, cũng như được khuôn đúc theo mẫu thức hoàn hảo thực sự xứng đáng với Thiên Chúa... Việc canh tân bản tính của chúng ta bắt đầu vào ngày hôm nay đây, và cái thế giới già lão, được Thiên Chúa hoàn toàn biến đổi, sẽ lãnh nhận những hoa trái của cuộc tạo dựng lần hai” (Serm. I on the Birth of Mary).

Thế rồi, sử dụng lại hình ảnh đất xét của thuở nguyên khai, nhà thần học này phát biểu: “Thân xác của Đức Trinh Nữ là thứ đất Thiên Chúa đã cầy sới, là hoa trái đầu mùa của thứ đất Adong được Chúa Kitô thần linh hóa, là hình ảnh đúng như vẻ đẹp trước kia, là đất xét được nhào nặn bởi Vị Nghệ Sĩ thần linh”. (Serm I on the Dormition of Mary).

Cuộc đầu thai tinh tuyền và vô nhiễm của Mẹ Maria như thế được coi như mở màn cho việc tân tạo. Đó là vấn đề liên quan đến đặc ân riêng giành cho người nữ được tuyển chọn làm Mẹ Chúa Kitô, Người Mẹ loan báo thời gian viên mãn ân sủng cho toàn thể nhân loại biết như ý Thiên Chúa muốn.

Tín lý này, cũng vào thế kỷ thứ tám còn được Thánh Germanus Contantinople và Thánh John Damascene bàn đến, đã làm sáng tỏ giá trị về sự thánh thiện ngay từ ban đầu của Mẹ Maria, một sự thánh thiện được trình bày cho thấy như mở màn cho việc Cứu Chuộc thế giới.

Như thế, truyền thống Giáo Hội đã thấm nhuần và làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực của danh xưng “đầy ơn phúc” như thiên thần đặt cho Đức Thánh Trinh Nữ. Mẹ Maria đầy ơn thánh hóa và đầy ơn thánh hóa này ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc sống. Ơn thánh hóa này, theo Thư gửi Giáo Đoàn Êphêsô (1:6) là ơn được ban trong Chúa Kitô cho tất cả mọi tín hữu. Sự thánh thiện ngay từ ban đầu của Mẹ Maria là tiêu biểu cho một thứ mẫu mực thượng đẳng về tặng ân, cũng như tiêu biểu cho việc phân phát ân sủng của Chúa Kitô trên thế gian.

 
 

(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 15/5/1996,
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 22/5/1996)


 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 



  
Lòng Thương Xót Chúa

 

Thánh Mary Faustina Kowalska (1905-1938), Vị Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa

 

Nhật Ký của Chị Thánh Fuastina

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh chuyển  dịch

 

Nữ tu Mary Faustina, vị tông đồ của Lòng Thương Xót Thần Linh, ngày nay thuộc về nhóm của các vị thánh phổ thông nhất và nổi tiếng nhất trong Giáo Hội. Qua ngài, Chúa Giêsu đã thông truyền cho thế giới đại thông điệp về lòng thương xót của Thiên Chúa và mạc khải cho biết một kiểu mẫu trọn lành Kitô giáo dựa vào lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa cũng như vào thái độ xót thương đối với tha nhân.

Chị vào đời ngày 25/8/1905 ở Gogowiec Balan trong một gia đình quê mùa nghèo nàn và đạo hạnh. Chị là người con thứ ba trong 10 người con. Chị được rửa tội và lấy tên Helena ở Nhà Thờ giáo xứ Đwinice Warckie. Ngay từ thời còn thơ nhi, chị đã nổi bật về lòng yêu chuộng nguyện cầu, làm việc, tuân phục và cảm thương người nghèo khổ. Chị rước lễ lần đầu vào năm 9 tuổi, sống giây phút một cách rất thấm thía khi nhận thức được sự hiện diện của Vị Khách Thần Linh trong linh hồn của chị. Chị đã đến trường 3 năm. Vào năm 16, chị đã rời nhà để đi làm việc với vai trò giữ nhà ở Aleksandrów, odi và Ostrówek, để kiếm thêm phương tiện hầu hỗ trợ bản thân và giúp đỡ cha mẹ của chị.

Vào năm 17 tuổi, chị đã cảm thấy những rung động đầu tiên của ơn gọi tu trì. Sau khi học xong, chị muốn gia nhập một tu viện nữ, song cha mẹ của chị không cho phép. Vào ngày 1/8/1925, trong một thị kiến thấy Chúa Kitô Khổ Nạn, được Người kêu gọi, chị đã vào tu trong Dòng Chị Em Đức Mẹ Tình Thương và lấy tên là Nữ Tu Mary Faustina. Chị đã ở trong dòng này 13 năm và sống ở một số nhà khác nhau. Chị đã sống ở Kraków, Pock và Vilnius, những nơi chị đã làm việc như một người nấu bếp, một người làm vườn và một người chuyên chở.

Theo bề ngoài, không có gì cho thấy chị có một đời sống nội tâm đầy thần bí. Chị nhiệt thành thi hành các công việc của chị và trung thành giữ luật lệ của đời sống tu trì. Chị sống trầm tĩnh, đồng thời lại rất thản nhiên, vui tươi, đầy lòng nhân ái và tình yêu vô tư đối với tha nhân. Mặc dù đời sống của chị có vẻ tầm thường, đơn điệu và u tối, chị đã âm thầm kết hợp hết sức mật thiết với Thiên Chúa.

Chính mầu nhiệm Tình Thương Thiên Chúa, một mầu nhiệm chị đã chiêm ngắm nơi lời Chúa cũng như nơi các hoạt động hằng ngày của đời chị, đã đặt nền tảng cho linh đạo của chị. Tiến trình chiêm niệm này cũng như việc tìm hiểu mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa đã góp phần vào việc phát triển nơi Nữ Tư Mary Faustina thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa như một trẻ thơ cùng với thái độ thương xót đối với tha nhân. Ôi Chúa Giêsu, mỗi một vị thánh của Chúa đều phản ảnh một trong những nhân đức của Chúa; con muốn phản ảnh trái tim cảm thương trắc ẩn của Chúa, một trái tim đầy tình xót thương; con muốn tôn vinh trái tim Chúa. Ôi Chúa Giêsu, xin tình thương của Chúa ghi khắc vào lòng con cũng như vào linh hồn của con như một thứ niêm ấn, và đó là huy hiệu của con đời này và đời sau” (Nhật Ký, 1242). Nữ tu Faustina là một nữ tử trung thành của Giáo Hội, một Giáo Hội chị đã mến yêu như một Người Mẹ và là một Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Ý thức được vai trò của mình trong Giáo Hội, chị đã cộng tác với tình thương của Thiên Chúa trong công việc cứu độ các linh hồn hư đi. Để đáp ứng một lời yêu cầu đặc biệt cũng như để theo gương của Chúa Giêsu, chị đã biến cuộc sống của chị thành của lễ hy sinh cho chính mục đích này. Trong đời sống thiêng liêng của mình, chị còn nổi bật về lòng yêu mến Thánh Thể và hết sức tôn sùng Mẹ Tình Thương.

Những năm tháng chị sống trong tu viện chất chứa đầy những tặng ân phi thường, như các mạc khải, các thị kiến, được in dấu thánh kín đáo, được tham dự vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa, được ơn một lúc ở hai nơi, được biết những gì thầm kín trong linh hồn con người, được ơn nói tiên tri, hay ơn đính hôn và thành hôn thần bí hiếm hoi. Mối liên hệ sống động với Thiên Chúa, với Thánh Mẫu, với các Thiên Thần, vơiùi Các Thánh, với các linh hồn trong Luyện Ngục, tức với tất cả thế giới siêu nhiên, trở nên thực hữu như thế giới chị thấy được bằng con mắt giác quan của chị. Mặc dù được trang bị bằng những ân huệ phi thường như thế, Nữ Tu Mary Faustina cũng thừa biết rằng chúng thực sự không làm nên sự thánh thiện. Trong Nhật Ký của mình, chị đã viết: “Không phải là các thứ ân huệ, các thứ mạc khải, các thứ ngất ngây, các thứ tặng ân đổ xuống trên một linh hồn là những gì làm cho linh hồn này nên trọn lành, mà là sự hiệp nhất thân mật của linh hồn với Thiên Chúa. Những tặng ân này được gọi là những thứ trang sức của linh hồn, nhưng không làm nên yếu tính của linh hồn hay sự trọn lành của linh hồn. Sự thánh thiện và trọn lành của con là ở chỗ kết hiệp mật thiết ý muốn của con với ý muốn của Thiên Chúa” (1107).

Chúa Giêsu đã chọn Nữ Tu Mary Faustina làm Tông Đồ và làm “Thư Ký” của Tình Thương Người, để chị có thể nói cho thế giới biết về đại sứ điệp của Người. Người nói với chị rằng: “Trong Cựu Ước, Cha đã sai các tiên tri tuyên phán những lời sấm xét cho dân của Cha. Ngày nay Cha cũng đang sai con mang tình thương của Cha đến cho con người trên khắp thế gian này. Cha không muốn trừng phạt nhân loại đớn đau, song Cha muốn chữa lành nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha” (Nhật Ký 1588).

Sứ mạng của Nữ Tu Mary Faustina gồm có 3 công việc phải làm:

• Nhắc nhở thế giới những gì liên quan đến sự thật của đức tin chúng ta được mạc khải trong Thánh Kinh về tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa đối với hết mọi người.

• Van nài tình thương Thiên Chúa cho toàn thế giới nhất là cho các tội nhân, bằng việc thực hành những thể thức mới tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa được Chúa Giêsu chỉ vẽ, như việc tôn kính tấm ảnh Lòng Thương Xót Chúa với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa, Lễ Chúa Tình Thương được cử hành vào Chúa Nhật Thứ Nhất sau Phục Sinh, lần chuỗi Chúa Tình Thương và cầu nguyện vào Giờ Tình Thương (3 giờ chiều). Chúa Giêsu đã hứa nhiều điều kèm theo những thể thức tôn sùng trên đây, miễn là người ta ký thác cuộc đời của mình cho Thiên Chúa và chủ động thực hành tình yêu thương tha nhân.

• Công việc thứ ba nơi sứ mệnh của Nữ Tu Mary Faustina là ở chỗ khởi xướng phong trào tông đồ cho Chúa Tình Thương, bằng việc thực hiện việc loan báo và khẩn nài tình thương của Chúa cho thế giới cũng như bằng việc nỗ lực nên trọn lành Kitô giáo, theo những qui lệ được chị Nữ Tu này phác họa. Những qui lệ này đòi tín hữu phải tỏ ra thái độ tin tưởng vào Thiên Chúa như trẻ nhỏ, một thái độ được thể hiện nơi việc làm trọn ý muốn của Ngài, cũng như nơi thái độ xót thương đối với tha nhân của mình. Ngày nay, phong trào này đã có cả hằng triệu triệu người trên khắp thế giới; nó bao gồm cả các viện tu, các tổ chức giáo dân, các hiệp hội, các cộng đồng khác nhau làm tông đồ cho Chúa Tình Thương…

Sứ vụ của Nữ Tu Mary Faustina đã được ghi lại trong cuốn Nhật Ký của chị là việc chị đã tuân giữ theo lơiụi yêu cầu đặc biệt của Chúa Giêsu cũng như của các cha giải tội của chị. Nơi cuốn nhật ký này, chị đã trung thành ghi lại tất cả những gì Chúa Giêsu mong muốn và diễn tả những lần hội ngộ giữa linh hồn chị và Chúa Giêsu. Người đã nói với chị rằng: “Hỡi Bí Thư của mầu nhiệm hết sức sâu xa của Cha, con hãy biết rằng công việc của con là viết xuống hết mọi điều Cha tỏ cho con về tình thương của Cha, cho lợi ích của những ai nhờ đọc được những điều ấy sẽ được an ủi trong tâm hồn họ và được lòng can đảm tiến đến với Cha” (Nhật Ký 1693). Tác phẩm của Nữ Tu Mary Faustina đã chiếu sáng một cách phi thường về mầu nhiệm của Chúa Tình Thương. Nó mang lại hân hoan chẳng những cho thành phần chất phác thất học, mà còn cho cả các học giả coi nó như là một nguồn mạch thêm thắt cho công việc nghiên cứu thần học luận lý. Cuốn Nhật Ký này đã được chuyển dịch sang nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha, Ả Rập, Nga, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc và Slovak.

Nữ Tu Mary Faustina, bị dày vò bởi chứng lao phổi cũng như bởi vô số khổ đau chị đã chấp nhận như một của lễ hy sinh tự nguyện cầu cho các tội nhân, đã qua đời tại Krakow lúc mới ở vào tuổi 33, hôm 5/10/1938, nổi tiếng về đời sống nội tâm sâu xa và kết hợp nhiệm mầu với Thiên Chúa. Tiến Trình điều tra phong thánh cho chị được bắt đầu vào thời đoạn 1965-1967 ở Krakow, và Tiến Trình Phong Chân Phước cho chị được bắt đầu ở Rôma năm 1968 và chấm dứt vào năm 1992. Vào ngày 18/4/1993, ĐTC GPII đã phong thánh cho chị.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ tài liệu VIS


 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

  

Tuần Bát Nhật Phục Sinh

 

Trường Sinh

 

 Ơn Gọi Làm Người

 

 

(hôm qua: Một Ước Mơ ... … Một Thực Tại; Một Thần Linh... )

 

… Một Tinh Thần

 

Phải, theo Kitô Giáo, tất cả mọi sự sẽ qua đi, nhưng tình yêu sẽ không bao giờ qua đi, trái lại, nó sẽ vô cùng bất tận như chính Thiên Chúa được Thánh Kinh của họ định nghĩa là Tình Yêu (xem Thư 1 của Gioan 4:8,16). Thật vậy, nếu sự sống chỉ thấy được qua việc phát triển của sinh vật và được thể hiện nơi tấm vóc thành toàn của nó theo bản tính của mỗi loài sinh vật thế nào, thì sự sống nơi loài linh ư vạn vật là con người cũng được phát triển và đạt đến tầm vóc thành toàn của mình nơi một con người có một tình yêu trọn hảo như vậy. Tình yêu trọn hảo chính là tầm vóc trọn hảo của thực tại sự sống, là chính sự sống hiện thân, vì tình yêu mạnh hơn sự chết và bất biến như sự sống. Thế nhưng, trong tất cả mọi sinh vật hiện hữu ở thời gian và không gian này tình yêu chỉ hiện hữu nơi duy loài người, vì họ có hồn thiêng, với một tâm linh biết ý thức và tự do chọn lựa. Như thế, tâm linh con người chính là mầm mống trường sinh nơi con người, một mầm mống sẽ triển nở trong thời gian và không gian bằng những tác động yêu thương chân chính và trọn hảo của họ, một thứ tình yêu trọn hảo đến độ khiến con người có thể thắng vượt mọi sự dữ, kể cả hận thù và sự chết, một tình yêu biến đổi con người trở thành đại đồng (universal), trở thành tất cả, trở thành mọi sự cho mọi người.

 

Thế nhưng, thực tế cho thấy, theo bản tính tự nhiên, con người không thể nào có một tình yêu trọn hảo này, nhờ đó có thể đạt đến tầm vóc thành nhân của mình được, tức đạt đến trường sinh vinh phúc. Đó là lý do, chính Tình Yêu đã hóa thân làm người, qua việc Thiên Chúa là Thần Linh nhập thể, một biến cố được Kitô Giáo long trọng cử hành hằng năm vào ngày Lễ Giáng Sinh, để qua bản tính loài người của Ngài giống như họ, con người có thể được thông hiệp với Thần Tính vô cùng trọn hảo và viên mãn của Ngài. Thật thế, với bản tính loài người, Vị Thiên Chúa Nhập Thể nơi con người Giêsu Nazarét tỏ cho họ biết Tình Yêu trọn hảo phải như thế nào, ở chỗ chẳng những đã trở nên bình đẳng với người yêu là con người tạo sinh vô cùng thấp hèn qua việc Nhập Thể hóa thân làm người, mà còn hiến mạng sống mình cho con người tội lỗi xấu xa nữa, qua việc Ngài Tử Nạn trên Thập Giá, một biến cố được Kitô Giáo hết sức long trọng cử hành vào dịp Lễ Phục Sinh hằng năm. Đó là lý do, theo kinh nghiệm tâm lý và bản chất yêu thương, bất cứ khi nào con người yêu nhau không coi nhau như bản thân mình và không hy sinh cho nhau đến tận cùng, họ sẽ không bao giờ có thể nên một với nhau, không bao giờ có thể đạt đến tầm vóc thành toàn của mình, trái lại, họ sẽ luôn ở trong tình trạng bất toàn và bất hạnh, thậm chí đi đến chỗ chia rẽ là chết, như hiện nay đang xẩy ra nơi hiện tượng ly dị và phá thai, kể cả nơi lãnh vực chính trị có tính cách tân thực dân theo chiều hướng của một thứ văn hóa sự chết.

 

Như thế, để có thể đạt đến tầm vóc thành nhân của mình là tình yêu trọn hảo, con người cần sống Tinh Thần của Vị Thiên Chúa Làm Người nơi Con Người Giêsu Nazarét, một Con Người chẳng những là chính thực tại Sự Sống hiện thân, mà còn là Đạo Lộ dẫn con người đi vào cõi trường sinh vinh phúc nữa. Nếu Con Người lịch sử Giêsu Nazarét chính là nơi gặp gỡ giữa vĩnh hằng và thời gian, giữa Thần Linh và nhân gian như thế, thì có thể khẳng định là trong cả không gian vũ trụ bao la hầu như vô tận này, chỉ có trái đất mới có con người và bởi thế, tất cả thiên nhiên tạo vật hữu hình và hữu hạn này, kể cả không gian và thời gian là môi trường sống của con người, cũng chỉ được tham hưởng trường sinh vinh phúc ở một cấp độ nào đó với con người, nơi con người và nhờ con người, một loài duy nhất có hồn thiêng là mầm mống bất tử và có khả năng tâm linh giao tiếp với Thần Linh và được Thần Linh Hóa để trở thành toàn hào và bất biến như Ngài là Thần Linh. Vậy, là phản ảnh Thần Linh, qua hồn thiêng có tâm linh ý thức và tự do của mình, con người chỉ có thể trở thành Thần Linh nơi Con Người Giêsu Nazarét bằng một Tình Yêu Trọn Hảo mà thôi.

 

Tóm lại, chỉ có con người nào được Tình Yêu Trọn Lành, một tình yêu viên mãn sự sống, bất biến và toàn năng có thể thắng vượt tất cả mọi sự dữ lẫn sự chết này chiếm đoạt và điều khiển, là họ được siêu thoát và được tận hiệp với Thực Tại Thần Linh, với Thiên Chúa Toàn Thiện, được thực sự nếm hưởng sự sống trường sinh vinh phúc ngay ở đời này. Đó là lý do, Thánh Kinh Kitô Giáo, qua cảnh chung thẩm trong ngày tận thế, đã mạc khải cho biết con người chỉ được hưởng cõi phúc trường sinh khi có một đức bác ái trọn hảo (xem Phúc Âm Mathêu 25:31-46). Đối với thành phần Kitô hữu thực sự sống đức ái trọn hảo này, điển hình là một Têrêsa Calcutta của hậu bán thế kỷ 20, hay thành phần thiện chí đang thực sự thành tâm nỗ lực tìm kiếm đức ái trọn hảo này, bằng những hành động từ bi hỉ xả, bằng những việc cứu nhân độ thế, bằng những hoạt động tề gia trị quốc bình thiên hạ để mang lại công lý và hòa bình cho đại gia đình nhân loại, thì cái chết chính là cửa ngõ để họ, sau một kiếp đời nỗ lực sống trọn ơn gọi làm người, vĩnh viễn đi vào cõi phúc trường sinh là Thực Tại Thần Linh Toàn Chân, Toàn Thiện và Toàn Mỹ!

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net