Tuần Lễ Đức GH BĐ XVI (14-30/4/2008): Tông Du (15-20), Sinh Nhật (16), Đắc Cử (19) và Đăng Quang Giáo Hoàng (24)

 

THỨ NĂM 24/4/2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

“Cả hình ảnh về người mục tử và hình ảnh về người đánh cá đều làm phát ra một tiếng mời gọi hiệp nhất tỏ tường”

Bài Giảng Lễ Đăng Quang 24/4/2005

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI

Maria: “Mẹ của Giáo Hội”

 Bài Giảng Kỷ Niệm 40 Năm Bế Mạc Công Đồng Chung Vaticanô II 8/12/2005

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI

"Mối liên hệ giữa đức tin và lý trí là một thách đố nghiêm trọng đối với văn hóa hiện đang chi phối thế giới Tây phương"

 Chúa Nhật IV Thường Niên 28/1/2007 về Thánh Tôma Tiến  Sĩ với Vấn Đề Tổng Luận Lý Trí và Đức Tin

  YÊU Thương Tha Nhân  

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI

Nhận Định của Chư Giới Kitô Giáo về vị Tân Giáo Hoàng 265

      

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

“Cả hình ảnh về người mục tử và hình ảnh về người đánh cá đều làm phát ra một tiếng mời gọi hiệp nhất tỏ tường”

Bài Giảng Lễ Đăng Quang 24/4/2005


Trọng kính Chư Huynh Hồng Y,
Chư huynh giám mục và linh mục,
Chư tôn vị thẩm quyền cùng chư vị thuộc ngoại giao đoàn,
Anh chị em thân mến.

Trong những ngày đầy căng thẳng này đây, chúng ta đã hát kinh cầu các thánh vào 3 dịp khác nhau: vào dịp lễ an táng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II; vào dịp các vị hồng y nhập mật viện bầu giáo hoàng; và một lần nữa vào ngày hôm nay khi chúng ta hát lên với câu đáp ‘Tu illum adiuva’ – xin nâng đỡ phù trì vị tân Thừa Kế Thánh Phêrô. Vào mỗi dịp, tôi đều cảm thấy hết sức ủi an một cách đặc biệt khi nghe đến bài hát nguyện cầu này. Tất cả chúng ta đều cảm thấy lẻ loi cô quạnh làm sao ấy sau cuộc ra đi của Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng trên 26 năm trường đã là mục tử của chúng ta và dẫn dắt chúng ta tiến bước trong cuộc đời! Ngài đã vượt qua ngưỡng cửa của sự sống mai hậu, tiến vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Thế nhưng ngài đã không bước đi một mình. Những ai tin tưởng thì chẳng bao giờ lẻ loi một mình cả, cả khi còn sống lẫn khi qua đời. Vào lúc ấy, chúng ta có thể kêu cầu Chư Thánh thuộc mọi thời đại, bạn bè mình, anh chị em mình trong đức tin, biết rằng các vị sẽ theo nhau hộ tống mình về thế giới bên kia, tiến vào vinh quang của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng việc ngài trở về là những gì đã được đợi chờ. Giờ đây, chúng ta cũng biết rằng ngài đang ở nơi của ngài và thực sự là nhà của ngài.

Chúng tôi còn được ủi an khi chúng tôi long trọng tiến vào cuộc mật nghị, để chọn bầu người được Chúa chọn. Làm sao chúng ta có thể biết được tên tuổi của con người này? Làm sao 115 vị giám mục, đến từ mọi nền văn hóa và mọi quốc gia, có thể nhận ra người Chúa muốn trao phó sứ vụ tháo cởi đây? Một lần nữa, chúng ta biết rằng chúng ta không lẻ loi một mình, chúng ta biết rằng chúng ta được bao vây, dẫn dắt và hướng đạo bởi thành phần bạn hữu của Thiên Chúa. Và rồi giờ đây, trong lúc này đây, một người tôi tớ của Thiên Chúa như tôi đây lại phải gánh vác cả một công việc khổng lồ, một công việc thực sự vượt quá tất cả khả năng của loài người. Làm sao tôi có thể làm nổi việc này chứ? Làm sao tôi sẽ có thể làm được việc ấy chứ? Các bạn thân mến của tôi ơi, tất cả các bạn vừa kêu cầu cùng toàn thể chư thánh, được tiêu biểu bởi một số tên tuổi cao cả trong lịch sử của những gì Thiên Chúa tiếp xúc với loài người. Như thế, tôi cũng có thể nói bằng một niềm xác tín tái lập là: Tôi không lẻ loi một mình. Tôi không mang vác một mình những gì thực sự là tôi không bao giờ có thể một mình mang vác. Tất cả Chư Thánh của Thiên Chúa đều hiện diện ở đó để bảo vệ tôi, để hỗ trợ tôi và để nâng đỡ tôi. Rồi các lời nguyện cầu của anh chị em, anh chị em thân mến, việc ưu ái của anh chị em, lòng yêu thương của anh chị em, đức tin của anh chị em và niềm hy vọng của anh chị em là những gì hộ tống tôi. Thật vậy, việc các thánh cùng thông công không phải chỉ là việc hiệp thông của thành phần nam nữ cao cả đã ra đi trước chúng ta và là thành phần chúng ta biết đến tiếng tăm. Tất cả chúng ta đều thuộc về mối hiệp thông các thánh này, chúng ta là thành phần được lãnh nhận phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta là thành phần kín múc sự sống tự tặng ân Mình Máu Chúa Kitô là phương tiện Người biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta nên giống như Người.

Phải, Giáo Hội là những gì sống động – đó là một cảm nghiệm tuyệt vời trong những ngày này. Trong những ngày buồn thương trước tình trạng yếu liệt và qua đời của vị Giáo Hoàng, Giáo Hội đã trở thành hiển nhiên một cách tuyệt vời cho chúng ta thấy rằng Giáo Hội là những gì sống động. Và Giáo Hội thì trẻ trung. Giáo Hội mang trong mình tương lai của thế giới, và bởi đó, cho mỗi một người chúng ta thấy con đường dẫn đến tương lai. Giáo Hội sống động – Giáo Hội sống động vì Chúa Kitô sống động, vì Người thực sự đã sống lại. Nơi nỗi khổ đau chúng ta thấy trên gương mặt của Đức Thánh Cha vào những ngày Phục Sinh, chúng ta chiêm ngưỡng thấy mầu nhiệm của Cuộc Chúa Kitô Khổ Nạn và chúng ta đã chạm tới các thương tích của Người. Thế nhưng, qua những ngày ấy, chúng ta còn có thể, ở một ý nghĩa sâu xa, chạm đến được cả Đấng Phục Sinh nữa. Chúng ta đã có thể cảm nghiệm được niềm vui Người đã hứa hẹn như hoa trái của việc Người Phục Sinh sau một thời gian ngắn ngủi tối tăm.

Giáo Hội sống động, với những lời này, tôi hết sức vui mừng và tri ân cảm tạ gửi lời chào đến tất cả mọi anh chị em tụ họp ở nơi đây, chư huynh hồng y và giám mục khả kính của tôi, chư linh mục, phó tế, phục vụ viên Giáo Hội, giáo lý viên thân mến của tôi. Tôi xin gửi đến anh chị em tu sĩ nam nữ, thành phần nhân chứng cho việc hiện diện rạng ngời của Thiên Chúa. Tôi xin gửi lời chào đến anh chị em, thành phần tín hữu giáo dân, trầm mình nơi việc làm cao cả ở mọi lãnh vực của cuộc sống để dựng xây Vương Quốc của Thiên Chúa đang lan rộng khắp nơi trên thế giới. Với lòng cảm mến sâu xa tôi cũng gửi lời chào đến tất cả những ai được tái sinh trong Bí Tích Rửa Tội nhưng chưa hoàn toàn hiệp thông với chúng tôi; cả quí vị nữa, hỡi anh chị em nhân dân Do Thái, thành phần chúng tôi được chia sẻ cả một di sản thiêng liêng cao cả, một di sản được bắt nguồn từ những lời hứa bất khả vãn hồi của Thiên Chúa. Sau hết, như một làm sóng góp lực, tôi nghĩ đến tất cả mọi con người nam nữ ngày nay, đến những anh chị em tín ngưỡng cũng như vô tín ngưỡng.

Quí bạn thân mến! Vào lúc này đây tôi không cần phải trình bày chương trình hành vụ của tôi. Tôi đã nêu lên những gì tôi cảm thấy là công việc tôi phải làm ở Sứ Điệp hôm Thứ Tư 20/4, và sẽ còn có những dịp khác để nói lên điều này. Chương trình hành vụ thực sự của tôi đó là không phải làm theo ý của tôi, không phải là theo đuổi những ý tưởng riêng của tôi, mà là lắng nghe, cùng với toàn thể Giáo Hội, lời Chúa và ý Chúa, để được Người hướng dẫn, nhờ đó, Chính Người Đích Thân dẫn dắt Giáo Hội ở vào thời điểm lịch sử này của chúng ta. Thay vì nói về một chương trình hành vụ, tôi chỉ muốn nhận định về hai biểu hiệu phụng vụ tiêu biểu cho lễ đăng quang của Thừa Tác Vụ Thừa Kế Thánh Phêrô; ngoài ra, cả hai biểu hiệu này phản ảnh rõ ràng những gì chúng ta đã nghe công bố trong các bài đọc hôm nay.

Biểu hiệu thứ nhất đó là giây choàng tông phẩm (petrine pallium), được thêu bằng lông thuần túy, một sợi giây được quàng lên đôi vai của tôi. Dấu hiệu cổ kính này, một dấu hiệu được các vị giám mục Rôma đeo từ thế kỷ thứ 4, có thể được coi là hình ảnh cái ách của Chúa Kitô, một cái ách mà vị giám mục của thành này, Tôi Tớ của mọi Tôi Tớ Chúa, gánh trên đôi vai của mình. Ách của Thiên Chúa là ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn chúng ta chấp nhận. Và ý muốn này không đè nặng trên chúng ta, áp đảo chúng ta và làm cho chúng ta mất tự do. Biết được những gì Thiên Chúa muốn, biết được đâu là con đường sự sống, đó là niềm vui của dân Do Thái, đó là đại diễm phúc cho dân này. Đó cũng là niềm vui của chúng ta nữa: Ý muốn của Thiên Chúa không loại trừ chúng ta mà là thanh tẩy chúng ta, cho dù có đớn đau, nhờ đó ý muốn ấy dẫn chúng ta đến với bản thân mình. Nhờ đó, chúng ta chẳng những phụng sự một mình Người, mà còn phần rỗi của cả thế giới, của tất cả lịch sử nữa.

Biểu hiệu của giây choàng tông phẩm thậm chí còn có một ý nghĩa cụ thể hơn nữa, ở chỗ, lông của con cừu có mục đích tiểu biểu cho con chiên thất lạc, con chiên bệnh hoạn, hay con chiên yếu kém được vị mục tử vác trên vai mang đến giòng nước sự sống. Đối với các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội, dụ ngôn con chiên lạc, con chiên được người mục tử tìm kiếm trong sa mạc, là hình ảnh của mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội. Nhân loại, tức mọi người trong chúng ta đây, là con chiên lạc mất trong sa mạc không còn biết đâu là phương hướng nữa. Con Thiên Chúa sẽ không để cho điều này xẩy ra; Người không thể bỏ rơi nhân loại ở trong một tình trạng quá ư là khốn nạn như thế. Người đã vội vã từ bỏ vinh quang trên trời để ra đi tìm kiếm con chiên này và theo đuổi nó cho tới Thập Tự Giá. Người đã vác nó trên hai vai của Người và ẵm bồng nhân loại của chúng ta; Người ẳm bế tất cả chúng ta – Người là vị mục tử nhân lành đã bỏ mạng sống mình vì chiên. Điều giây choàng tông phẩm trước hết và trên hết muốn nói tới đó là tất cả chúng ta đều được Chúa Kitô bồng bế. Thế nhưng, đồng thời nó cũng mời gọi chúng ta hãy bao bọc lẫn nhau. Thế nên giây choàng tông phẩm này trở thành một biểu hiệu cho sứ vụ của vị chủ chăn, một sứ vụ đã được bài đọc thứ hai và bài Phúc Âm nói đến. Vị mục tử cần phải được nhiệt huyết thánh hảo của Chúa Kitô tác động, ở chỗ, đối với vị mục tử này không có vấn đề dửng dưng trước rất nhiều người đang sống trong sa mạc. Có nhiều thứ sa mạc. Có thứ sa mạc bần cùng, sa mạc đói khát, sa mạc hoang vắng, sa mạc cô đơn, sa mạc trụy ái. Có thứ sa mạc tăm tối về Thiên Chúa, trống rỗng tâm hồn không còn biết phẩm giá của mình hay mục đích của đời sống làm người nữa. Những thứ sa mạc bên ngoài trên thế giới này đang gia tăng, vì những sa mạc nội tâm đã trở nên quá rộng lớn. Bởi thế mà những kho tàng của trái đất này không còn được dùng để giúp vào việc kiến tạo một khui vườn của Thiên Chúa cho tất cả mọi người sống nữa, trái lại, chúng đã được sử dụng để phục vụ cho các thứ quyền lực khai thác và hủy hoại. Giáo Hội nói chung và tất cả mọi vị mục tử của Giáo Hội, như Chúa Kitô, cần phải lên đường dẫn dắt con người ra khỏi sa mạc ấy, hướng đến nơi có sự sống, hướng đến tình nghĩa với Con Thiên Chúa, đến Đấng ban sự sống cho chúng ta, một sự sống sung mãn.

Biểu hiệu con cừu còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa. Ở Cận Đông ngày xưa, thành phần vua chúa vốn có thói quen tỏ ra là những người mục tử chăn dắt nhân dân của họ. Đó là hình ảnh cho thấy quyền lực của họ, một hình ảnh khinh miệt, ở chỗ, đối với họ, hạ thần của họ như thể chiên cừu, một thứ chiên cừu mà người mục tử có thể sử dụng tùy ý. Khi vị mục tử của toàn thể nhân loại là Thiên Chúa hằng sống, Đích Thân trở thành một con cừu, Người đã đứng về phía các con cừu, với thành phần bị chà đạp và sát hại. Đó là cách Người tỏ Mình ra là người mục tử đích thực: ‘Tôi là Mục Tử Nhân Lành. Tôi bỏ mạng sống mình vì chiên’, Chúa Giêsu nói về Bản Thân mình như thế (Jn 10:14ff). Chính yêu thương, chứ không phải là quyền lực, đã cứu chuộc chúng ta! Đó là dấu hiệu của Thiên Chúa: Chính Ngài là tình yêu. Đã bao nhiêu lần chúng ta muốn rằng giá mà Thiên Chúatỏ mình ra mạnh mẽ hơn nữa, rằng giá mà Người ra tay một cách cương quyết hơn, khống chế sự dữ và tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. Tất cả mọi thứ ý hệ về quyền lực đều biện minh mình y hệt theo chiều hướng ấy, chúng biện minh cho việc hủy hoại bất cứ những gì chặn đường tiến bộ và giải phóng con người. Chúng ta cảm thấy khổ đau trước thái độ nhẫn nại của Thiên Chúa. Thế mà, chúng ta cần đến sự nhẫn nại của Người. Thiên Chúa, Đấng đã trở nên một con chiên con, nói với chúng ta rằng thế giới này được cứu độ bởi Đấng Chịu Đóng Đanh, chứ không phải bởi những ai đóng đanh Người. Thế giới này được cứu chuộc bởi sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Nó bị tiêu diệt bởi sự bất nhẫn của con người.

Một trong những đặc tính căn bản của một người mục tử đó là phải yêu thương thành phần được trao phó cho họ, thậm chí như họ yêu mến Chúa Kitô là Đấng họ phụng sự. ‘Hãy chăn chiên của Thày’, Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô như thế, và giờ đây, vào lúc này đây, Người nói câu đó với cả tôi nữa. Chăn nuôi nghĩa là yêu thương, và yêu thương cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu đau khổ. Yêu thương nghĩa là cống hiến cho chiên những gì thực sự là thiện hảo, đó là thứ dưỡng chất chân lý của Thiên Chúa, dưỡng chất lời Chúa, dưỡng chất hiện diện của Người, một hiện diện Người tỏ ra cho chúng ta nơi Bí Tích thánh. Các bạn thân mến, vào lúc này đây tôi chỉ có thể nói rằng xin hãy nguyện cầu cho tôi, để tôi biết yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn. Xin hãy cầu nguyện cho tôi, để tôi biết yêu thương đàn chiên của Người mỗi ngày một hơn, nói cách khác, yêu thương anh chị em, Hội Thánh, mỗi một người trong anh chị em và tất cả mọi người trong anh chị em. Xin hãy nguyện cầu cho tôi, để tôi không tẩu thoát vì sợ hãi khi thấy sói dữ. Chúng ta hãy cầu nguyện lẫn cho nhau, để Chúa bồng bế chúng ta và để chúng ta cũng biết bao bọc lẫn nhau.

Biểu hiệu thứ hai được phụng vụ hôm nay sử dụng để diễn tả việc bắt đầu thừa tác vụ thừa kế Thánh Phêrô là việc trao chiếc nhẫn của người đánh cá. Lời kêu gọi Thánh Phêrô trở thành một vị mục tử, như chúng ta đã nghe trong Phúc Âm, xẩy ra sau trình thuật về mẻ cá lạ, khi mà, sau cả một đêm các môn đệ thả lưới bị thất bại, họ thấy Chúa Kitô Phục Sinh ở trên bờ. Người bảo họ hãy thả lưới một lần nữa, và lưới đã đầy cá đến nỗi họ khó lòng kéo nó lên; 153 con cá lớn: ‘mà mặc dù quá nhiều cá mà lưới vẫn không bị rách’ (Jn 21:11). Trình thuật này, kể lại vào cuối cuộc hành trình của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người, tương quan với trình thuật vào thuở ban đầu, cả vào lúc ấy nữa, các môn đệ thâu đêm không bắt được gì; cũng lúc ấy, Chúa Giêsu đã mời gọi Simon hãy thả lưới một lần nữa ở chỗ nước sâu. Và Simon, nhân vật bấy giờ chưa được gọi là Phêrô, đã đáp lại một cách tuyệt vời là ‘Thưa Thày, vâng lời Thày con xin thả lưới’. Thế rồi ngài đã được trao cho sứ vụ: ‘Đừng sợ. Từ nay con sẽ trở thành tay chài lưới người ta’ (Lk 5:1-11). Cả ngày nay nữa, Giáo Hội và thành phần kế thừa các Tông Đồ được kêu gọi hãy tiến vào biển sâu lịch sử mà thả lưới để chinh phục con người nam nữ về cho Phúc Âm – cho Thiên Chúa, cho Chúa Kitô, cho sự sống đích thực. Các Vị Giáo Phụ đã dẫn giải rất khéo về công việc đặc biệt này. Đây là những gì các ngài nói: đối với cá, loài được dựng nên vì nước, nó sẽ chết nếu bị lấy ra khỏi biển khơi, bị đem ra khỏi yếu tố sống còn của nó để làm đồ ăn cho con người. Thế nhưng, nơi sứ vụ của một kẻ đánh cá người thì ngược lại mới đúng. Chúng ta đang sống trong cảnh xa lìa, trong những giòng nước mặn chết chóc và khổ đau; trong một biển cả tối tăm không ánh sáng. Lưới Phúc Âm đã kéo chúng ta đã kéo chúng ta ra khỏi những thứ nước chết chóc và mang chúng ta vào cảnh rạng ngời của ánh sáng thần linh, vào sự sống đích thực. Thật sự là như thế: khi chúng ta theo Chúa Kitô thực hiện sứ vụ này để trở thành những kẻ đánh cá người, chúng ta cần phải mang con người nam nữ ra khỏi biển khơi mặn mà đủ thứ hình thức xa lìa và mang họ vào mảnh đất sự sống, vào ánh sáng của Thiên Chúa.

Thật sự là thế: mục đích đời chúng ta sống là để tỏ Thiên Chúa cho con người. Và chỉ có nơi nào thấy được Thiên Chúa mới bắt đầu có sự sống mà thôi. Chỉ khi nào chúng ta gặp được Thiên Chúa hằng sống nơi Chúa Kitô chúng ta mới biết sự sống là gì. Chúng ta không phải là một thứ sản phẩm ngẩu nhiên và vô nghĩa của tiến hóa. Mỗi một người trong chúng ta là thành quả của tư tưởng Thiên Chúa. Mỗi một người trong chúng ta đều được ước định, mỗi một người trong chúng ta đều được yêu thương, mỗi một người trong chúng ta đều cần thiết. Không có gì tuyệt vời hơn là cảm thấy bàng hoàng trước Phúc Âm, trước việc được hội ngộ Chúa Kitô. Không có gì tuyệt vời hơn là nhận biết Người và nói với kẻ khác về tình nghĩa của chúng ta đối với Người. Công việc của vị mục tử, công việc của vị đánh cá người, thường có thể là những gì mỏi mệt. Thế nhưng, nó là những gì đẹp đẽ và tuyệt vời, vì nó thực sự là thứ việc phục vụ cho niềm vui, niềm vui của Thiên Chúa, một niềm vui cần được vang lên trong thế giới.

Đến đây tôi muốn thêm điều này nữa, đó là cả hình ảnh về người mục tử và hình ảnh về người đánh cá đều làm phát ra một tiếng mời gọi hiệp nhất tỏ tường. ‘Tôi còn có chiên khác chưa thuộc về đàn này; Tôi cần phải dẫn chúng nữa, và chúng sẽ lắng nghe tiếng Tôi. Rồi sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên’ (Jn 10:16); những lời này của Chúa Kitô ở cuối bài giảng của Người về vị Chủ Chiên Nhân Lành. Và trình thuật về 153 con cá lớn được kết thúc bằng câu nói hân hoan: ‘mặc dù quá nhiều cá mà lưới vẫn không bị rách’ (Jn 21:11). Than ôi, Chúa yêu ơi, giờ đây chúng con cảm thấy buồn lòng mà nhìn nhận rằng nó đã bị rách rồi! Nhưng không – chúng con không được buồn! Chúng con hãy vui lên vì Chúa đã hứa hẹn, một lời hứa không làm thất vọng, và chúng con hãy làm tất cả những gì chúng con có thể để theo đuổi con đường hướng đến hiệp nhất Chúa đã hứa. Chúng con hãy nhớ đến nó khi chúng con nguyện cầu cùng Chúa, khi chúng con nài xin Người: vâng, lạy Chúa, xin Chúa hãy nhớ lại lời Chúa hứa. Xin Chúa ban cho chúng con được trở thành một đàn chiên và một chủ chiên! Xin Chúa đừng để cho lưới của Chúa bị rách, xin hãy giúp chúng con trở thành những người tôi tớ của hiệp nhất!

Tới đây, tôi nghĩ về ngày 22/10/1978, ngày mà Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bắt đầu thừa tác vụ của mình tại Quảng Trường Thánh Phêrô đây. Những lời của ngài vào dịp ấy vẫn liên tục vang vọng trong tai tôi: ‘Đứng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô!’ Vị Giáo Hoàng này đã ngỏ cùng thành phần thế lực, thành phần quyền lực của thế giới này, những thành phần sợ rằng Chúa Kitô có thể lấy đi một cái gì đó khỏi quyền lực của họ nếu họ để cho Người vào, nếu họ để cho đức tin được tự do. Phải, Người chắc chắn sẽ lấy đi một cái gì đó khỏi họ: đó là cái thế lực hư hoại, cái mạo dụng luật lệ và tự do để làm những gì họ thích. Thế nhưng, Người sẽ không lấy đi bất cứ điều gì liên quan đến tự do và phẩm vị của con người, hay liên quan đến việc dựng xây một xã hội chân chính. Vị Giáo Hoàng này cũng nói điều đó với hết mọi người, nhất là giới trẻ. Không phải tất cả chúng ta đều hãi sợ một cách nào đó hay chăng? Nếu chúng ta để cho Chúa Kitô hoàn toàn đi vào cuộc đời của mình, nếu chúng ta trọn vẹn cởi mở bản thân mình cho Người, chúng ta có sợ rằng Người có thể sẽ lấy đi khỏi chúng ta một cái gì đó hay chăng? Chẳng lẽ chúng ta không sợ phải từ bỏ một cái gì đó quan trọng, một cái gì đó chuyên biệt, một cái gì đó làm cho đời sống hết sức tuyệt vời hay sao? Như thế chẳng lẽ chúng ta lại không liều mình đi đến chỗ làm suy giảm đi hay làm hụt hẫng mất cái tự do của chúng ta hay sao? Một lần nữa, vị Giáo Hoàng này đã nói: Không đâu! Nếu chúng ta để cho Chúa Kitô đi vào cuộc sống của chúng ta thì chúng ta chẳng những không bị mất đi một sự gì cả, không một sự gì, tuyệt đối là không có một sự gì, trái lại, nhờ đó còn làm cho cuộc của chúng ta được thanh thoát, tuyệt vời và cao cả. Không đâu! Chỉ có ở nơi mối thân tình này các cửa sự sống mới có thể rộng mở mà thôi. Chỉ có ở nơi tình nghĩa ấy khả năng cao cả của sự sống con người mới thực sự thể hiện mà thôi. Chỉ có ở trong tình nghĩa này chúng ta mới cảm thấy được vẻ đẹp và tự do mà thôi. Bởi thế, hôm nay đây, bằng quyền năng mãnh liệt và bằng niềm xác tín vững chắc, căn cứ vào kinh nghiệm bản thân lâu đời của mình, hỡi giới trẻ thân mến, tôi muốn nói cùng quí bạn rằng: Xin đừng sợ Chúa Kitô! Ngài không lấy đi một điều gì đâu, mà Người lại ban cho các bạn hết mọi sự. Khi chúng ta hiến mình cho Người, chúng ta nhận lại được gấp trăm. Phải, hãy mở cửa, mở rộng cửa cho Chúa Kitô – và các bạn sẽ tìm thấy sự sống đích thực. Amen.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo điện thư của VIS ngày 24/4/2005

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Maria: “Mẹ của Giáo Hội” (tiếp)

 

Bài Giảng Kỷ Niệm 40 Năm Bế Mạc Công Đồng Chung Vaticanô II 8/12/2005

 

“Một người càng gần Thiên Chúa họ càng gần với con người. Chúng ta thấy điều này nơi Mẹ Maria. Sự kiện Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa là lý do tại sao Mẹ rất gần gũi với con người. Vì thế mà Mẹ có thể là Mẹ của mọi niềm ủi an và mọi sự trợ giúp, một Người Mẹ mà bất cứ ai cũng có thể nói đến bất cứ loại nhu cầu nào về yếu đuối và tội lỗi, vì Mẹ hiểu biết mọi sự và, đối với mọi người, Mẹ là thứ quyền năng cởi mở của sự thiện hảo sáng tạo.

 

“Nơi Mẹ, Thiên Chúa đã in ấn hình ảnh của Ngài, hình ảnh của Đấng theo con chiên lạc của mình cho tới tận các đồi núi và giữa các bụi gai tội lỗi trên thế giới này, để mình bị xâu xé bởi mạo gai những tội lỗi ấy hầu vác chiên trên vai mang về nhà.

 

“Là một người mẹ xót thương, Mẹ Maria là hình ảnh tiền thân và là bức chân dung vĩnh viễn của Người Con. Như thế, chúng ta thấy rằng hình ảnh của Người Trinh Nữ Sầu Thương, của Người Mẹ, vị chia sẻ khổ đau của mình và tình yêu của mình, cũng là hình ảnh thực sự của Mẹ Vô Nhiễm. Trái tim của Mẹ đã được nới rộng bằng việc Mẹ cùng với Thiên Chúa hiện hữu và cảm nhận. Nơi Nẹ, sự thiện hảo của Thiên Chúa trở nên rất gần gũi với chúng ta.

 

“Vậy Mẹ Maria đứng trước chúng ta như một dấu hiệu của niềm ủi an, phấn chấn và hy vọng. Mẹ hướng về chúng ta mà nói: “Hãy can đảm thách thức Thiên Chúa! Hãy thử làm như thế! Đừng sợ Ngài! Hãy can đảm liều mình sống đức tin! Hãy can đảm liều mình sống thiện hảo!  Hãy can đảm liều mình sống bằng một con tim tinh tuyền! Hãy dấn thân cho Thiên Chúa thì các con sẽ thấy rằng chính nhờ làm thế mà cuộc sống của các con mới trở nên nẩy nở và nhẹ nhàng, không tẻ nhạt mà tràn đầy vô vàn những hào hứng phấn khởi, vì sự thiện hảo vô cùng của Thiên Chúa không bao giờ hao mòn!”

 

“Vào ngày lễ này đây, chúng ta hãy cảm tạ Chúa về dấu hiệu cả thể của sự thiện hảo Người đã ban cho chúng ta nơi Mẹ Maria, Mẹ của Người và Mẹ của Giáo Hội. Chúng ta hãy cầu xin Người hãy đặt Mẹ Maria trên con đường chúng ta đi như một thứ ánh sáng cũng giúp chúng ta trở thành ánh sáng và chiếu ánh sáng này vào đêm tối lịch sử. Amen”.

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


Đức Giáo Hoàng Biểm Đức XVI

"Mối liên hệ giữa đức tin và lý trí là một thách đố nghiêm trọng đối với văn hóa hiện đang chi phối thế giới Tây phương"

 

Chúa Nhật IV Thường Niên 28/1/2007 về Thánh Tôma Tiến  Sĩ với Vấn Đề Tổng Luận Lý Trí và Đức Tin

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Lịch phụng vụ hôm nay tưởng nhớ Thánh Tôma Aquinas, vị đại tiến sĩ của Giáo Hội. Bằng đặc sủng của một triết gia và thần học gia,  ngài đã cống hiến một mẫu thức hòa hợp vững chắc giữa lý trí và đức tin, những chiều kích của tinh thần con người, những chiều kích được hoàn toàn hiện thực khi chúng gặp gỡ và trao đổi với nhau.

 

Theo ý nghĩ của Thánh Tôma thì lý trí con người, có thể nói là, ‘hít thở’, tức là nó chuyển động ở một chân trời rộng mở làm cho nó có thể cảm thấy khả năng tối đa của mình. Tuy nhiên, khi con người chỉ biết nghĩ về n hững đối tượng vật chất và thí nghiệm, thì họ cảm thấy bí trước những câu hỏi về đời sống, về chính mình và về Thiên Chúa, biến mình trở thành bần cùng.

 

Mối liên hệ giữa đức tin và lý trí là một thách đố nghiêm trọng đối với văn hóa hiện đang chi phối thế giới Tây phương, và chính vì lý do ấy mà Đức Gioan Phaolô II của chún g ta đã viết một bức thông điệp, mang tựađề chính là ‘Đức Tin và Lý Trí’. Tôi cũng đã tiếp tục luận đề này mới đây, trong bài diễn từ cho Đại Học Đường ở Regensburg.

 

Thực ra vấn đề phát triển tân tiến của các khoa học mang lại vô vàn hiệu quả tích cực là những gì luôn cần được nhìn nhận. Tuy nhiên, đồng thời cũng cần phải công nhận rằng cái khuynh hướng chỉ coi những gì cảm nghiệm thấy mới là xác thực đã khiến cho lý trí của con người bị giới hạn lại và gây ra một thứ tâm bệnh bất nhất đáng sợ, hiển nhiên trước mắt mọi người, bởi việc đồng hiện hữu giữa chủ nghĩa duy lý với chủ nghĩa duy vật, và giữa siêu đẳng kỹ thuật với những thứ bản năng buông thả.

 

Bởi thế, cần phải làm sao tái khám phá một cách mới mẻ cái lý sự của con người hướng về ánh sáng của ‘Lời’ thần linh cũng như về mạc khải tuyệt hạo của nó là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Một khi đức tin Kitô giáo là những gì đích thực thì nó không làm triệt tiêu tự do hay lý trí của con người; vậy thì tại sao đức tin và lý trí lại sợ hãi nhau, nếu nhờ gặp gỡ nhau và trao đổi với nhau chúng có thể thể hiện chính bản thân mình một cách tốt đẹp nhất chứ?

 

Đức tin bao gồm lý trí và làm hoàn hảo lý trí, và lý trí, nhờ được soi sáng bởi đức tin, tìm thấy sức mạnh để tiến  tới chỗ nhận biết Thiên Chúa và những thực tại linh thiêng. Lý trí con người chẳng mất đi một sự gì khi nó cởi mở trước những nội tại của đức tin; trái lại, đức tin cần đến việc tư do và ý thức gắn bó của lý trí.

 

Bằng một đức khôn ngoan bao trùm vươn rộng, Thánh Tôma Aquina đã gây nên một cuộc đối chọi phong phú đối với tư tưởng Ả Rập và Do Thái trong thời đại của ngài, đến nỗi ngài được coi như là một bậc thày muôn thuở của việc đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo khác. Ngài đã biết giới thiệu cái tổng luận Kitô Giáo giữa lý trí và đức tin này, cái tổng luận tiêu biểu cho một gia sản quí báu của văn minh Tây phương, cái tổng luận mà cả ngày nay cũng cần phải được sử dụng đến để đối thoại một cách hiệu nghiệm với các truyền thống văn hóa và tôn giáo lớn ở Đông phương và Nam phương trên thế giới này.  

 

Chúng ta hãy nguyện cầu để Kitô hữu, nhất là những ai thuộc lãnh giới hàn lâm và văn hóa, làm sao có thể bày tỏ cho thấy hơn nữa cái tính chất hữu lý nơi niềm tin của họ và làm chứng cho niềm tin này bằng một cuộc đối thoại được tác động bởi yêu thương. Chúng ta xin tặng ân này của Chúa nhờ lời chuyển cầu của Thánh Tôma Aquinas, nhất là của Mẹ Maria là Tòa Đức Khôn Ngoan.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 28/1/2007

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI


Nhận Định của Chư Giới Kitô Giáo về vị Tân Giáo Hoàng 265



Âu Châu

Thượng Phụ Giáo Chủ Giáo Hội Chính Thống Nga Alexiy II:

“Tôi xin gửi lời chúc mừng về việc Ngài được chọn vào sứ vụ Rôma xưa. Tôi chúc Ngài đưoơc Chúa giúp đỡ trong việc phục vụ cao cả để dẫn dắt Giáo Hội Công Giáo Rôma. Giáo Hội của chúng ta, những giáo hội có thẩm quyền và ảnh hưởng, cần phải liên kết nổ lực của mình lại để truyền bá những giá trị Kitô giáo cho nhân loại tân tiến. Thế giới trần thế này đang lạc mất linh đạo của nó và cần chứng từ chung của chúng ta hơn bao giờ hết”.

ĐTGM Giáo Chủ Giáo Hội Anh Giáo Rowan Williams:

“Chúng tôi xin chúc Giáo Hoàng Biển Đức XVI mọi phúc lành để thi hành nhiều trách nhiệm lớn lao ngài sắp sửa đảm nhận cho những người Công Giáo Rôma khắp thế giới. Tôi mong được gặp ngài và cùng làm việc với nhau để xây dựng trên di sản được vị tiền nhiệm của ngài để lại, khi chúng ta tìm cách phát động việc hiểu biết nhau giữa các Giáo Hội của chúng ta để phục vụ Phúc Âm cũng như cho mối hiệp nhất Kitô giáo”.

Stanislas Lalanne, phát ngôn viên của HĐGM Pháp quốc và là cựu học sinh của HY Ratzinger:

“Khi tôi gặp ngài, tôi thích cái rõ ràng nơi việc diễn tả của ngài, cái thông minh hiếm có của ngài, cái hiểu biết sâu xa ngoại thường của ngài, đức tin hết sức sâu xa của ngài, và ngài đồng thời cũng có cách nói chuyện với quí vị bằng một thứ ngôn từ bình dị”.

Javier Echevarria, Chủ Hội Opus Dei, Tây Ban Nha:

“Đầy là giây phút rất vui mừng cho toàn thể Giáo Hội. Người Công giáo trên khắp thế giới tạ ơn Thiên Chúa về tặng ân tân giáo hoàng Biển Đức XVI”.

ĐTGM Ba Lê Andre Vingt-Trois:

“Điều này cho thấy rằng những chia rẽ bất khả giải hòa chúng ta đã diễn tả trong mấy ngày vừa qua không phải là tất cả những gì bất khả giải hòa nữa”.

Cha Juan Antonio Martinez Camino, Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha:

“Giáo Hoàng Biển Đức XVI là một con người có một tầm cỡ thần học lớn lao, có một tầm vóc mục vụ cao cả, người hiểu được suy tư tân thời với tư cách là một thần học gia và một triết gia như ít người hiểu được”.

Giám Mục Wolfgang Huber, Chủ Tịch Giáo Hội Thệ Phản Đức Quốc:

“Một mặt thì đây là một quà tặng lớn lao cho thành phần đại kết khi có một con người đầy kinh nghiệm về thần học, kiến thức và khôn ngoan như Joseph Ratzinger lãnh nhận sứ vụ này. Đồng thời, người ta phải nói rằng trong những năm gần đây ngài đã đối xử với thành phần đại kết ở một mức độ khá tẩy chay và thành kiến… và đó chính là điểm tôi hy vọng vai trò mới này sẽ mang lại cho ngài một tinh thần bao rộng mới mẻ”.

Bernd Goegring, Nhóm Đại Kết Đức Quốc Kirche Von Unten:

“Chúng tôi coi việc chọn bầu Ratzinger như là một thứ tai họa. Thật là thất vọng, cho dù đã được tin đoán trước. Chúng tôi có thể cho rằng không có vấn đề cải tỏ nào từ ngài trong những năm tới đây… Tôi nghĩ rằng càng có nhiều người quay lưng lại với giáo hội”.

Mỹ Châu Latinh:


Thần học gia Ruben Dri người Á Căn Đình và là giáo sư Đại Học Buenos Aires:


“Đây là một chiến thắng cho thành phần thiên hữu tín điều và tư bản. Đối với tôi, đây là một việc chọn lựa tầm bậy nhất họ có thể thực hiện. Nó bao gồm cả cái xấu xa nhất của vai trò làm giáo hoàng của Gioan Phaolô II, một vai trò không mang lại những tính chất khá hơn vốn là đặc sủng và là khả năng chính trị của vị này”.


Leonardo Boff, thần học gia chủ trương thần học giải phóng người Ba Tây đã bỏ làm linh mục ra lấy vợ năm 1992:


“Đối với vị này (Mỹ Châu Latinh)… vẫn sẽ là mối âu lo, vì tương lai của giáo hội lệ thuộc vào Mỹ Châu Latinh”.


Jurandir Arauj, Ban Đặc Trách về Người Ba Tây Phi Châu của HĐGM Ba Tây:


“Dường như là ngài quá bảo thủ. Hy vọng rằng Thánh Linh sẽ giúp ngài đổi thay. Chúng tôi mong thấy một con người như Gioan Phaolô”.


Alfredo Petit, Giám Mục Phụ Tá giáo phận Havana, Cuba:


“Tên tuổi được chọn thật là thích hợp cho những lúc này đây, vì Biển Đức XV là một con người chiến đấu để thiết lập công lý và hòa bình sau Thế Chiến I. Tôi nghĩ rằng đó cũng sẽ là chương trình của vị tân giáo hoàng này nữa’.


Linh mục dòng Tên ở Chí Lợi Antonio Delfau:


“Kiểu cách của ngài khác với của Đức Gioan Phaolô II… (Ratzinger) là kiến trúc sư của các văn kiện lớn liên quan đến thần học giải phóng. Văn kiện đầu tiên là một văn kiện lên án gắt gao thần học giải phóng và văn kiện sau đó phục hồi những điều tốt của thần học giải phóng này. Chắc chắn hồng y Ratzinger ở hậu trường của nhiều bản tuyên ngôn về tín điều khác nữa của Đức Gioan Phaolô II, mặc dù Đức Gioan Phaolô II là một con người có lối suy tư riêng của mình”.


Chủ Bút tờ Nguyệt San Công Giáo Criterio Á Căn Đình Jose Maria Poirier:


“Ngài có thể là người Âu Châu thế nhưng những người Âu Châu thường có một nhãn quan bao rộng hơn những người Mỹ Châu Latinh. Ngài biết vấn đề của Mỹ Châu Latinh rất rõ. Chúng tôi không mong là sẽ có những gì lạ lùng xẩy ra ngay. Ngài là một con người khôn ngoan mà tôi đã có dịp gặp gỡ. Ngài là một con người thinh lặng lâu dài và có những lời từ ái, một con người suy tư và có tư tưởng”.


Trung Đông


Trưởng Tôn Sư Israel Meir Lau ở thủ đô Tel Aviv:


“Ngài được biết đến như là một người bạn của nhân dân Do Thái. Và tôi hy vọng, nguyện cầu và ước mong ngài theo bước chân của Đức Gioan Phaolô II… nơi việc ngài tiến đến và thân tình một cách tốt đẹp với nhân dân Do Thái trên thế giới cũng như với riêng nước Do Thái”.


Bắc Mỹ:


Tôn Sư David Rosen, Tiểu Ban Do Thái Hoa Kỳ:


“Hồng y Ratzinger đã tỏ ra cho thấy một quyết tâm sâu xa trong việc tiến triển mối liên hệ Công Giáo và Do Thái và chúng tôi mong tiếp tục mối liên hệ hoạt động sát cánh với Giáo Hội”.
Á Châu:


TGM Ramon Arguelles ở Lipa City, Nam Manila, Phi Luật Tân:


“Ngài là kết quả của một cuộc chọn bầu tốt đẹp. Chúng ta hãy nguyện cầu Chúa ban cho ngài sức mạnh và khôn ngoan để dẫn dắt một giáo hội sinh động”.


Cha Henry D’souza, Thư Ký Điều Hành của Uỷ Ban truyền thông xã hội của Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ:


“Chúng ta trông đợi hòa bình và hòa giải giữa các nền văn hóa và tôn giáo dưới thời của vị tân giáo hoàng này. Tôi nghĩ ngài có một cá thể xuất chúng, ngài là một nhà trí thức, sâu xa tu đức và rất là từ ái. Tôi nghĩ ngài sẽ thi hành di sản của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II”.


Thày Mani Mekkunnel, Thư Ký Hội Đồng Tu Sĩ Toàn Quốc Ấn Độ:


“Sẽ có những cuộc bàn tán phòng trà riêng tư về việc chọn bầu ĐHY Ratzinger có tốt cho Ấn Độ hay chăng. Đa số có lẽ không thoải mái, thế nhưng cũng có những người nói rằng: ‘Tạ ơn Chúa giờ đây Giáo Hội được cứu rồi”.


Masduki Maidlowi, nhân vật cao cấp của nhóm Hồi Giáo lớn nhất ở Nam Dương:


“Tôi hy vọng vị tân giáo hoàng sẽ thực thi cùng một tinh thần hòa bình và hòa hợp liên tôn như Giáo Hoàng Gioan Phaolô II”.


Phi Châu

 

TGM Anh Giáo Nam Phi Desmond Tutu:


“Chúng tôi hy vọng một người cởi mở hơn với những phát triển gần đây hơn trên thế giới, với tất cả vấn đề về thừa tác vụ của nữ giới cũng như với một chủ trương hợp lý hơn về vấn đề bọc cao su và hội chứng liệt kháng và vi khuẩn liệt kháng”.


Cha Michel Kama ở vương cung thánh đường ở Dakar, Senegal là nơi có 95% Hồi giáo:


“Ngài là một người bảo thủ theo ý nghĩa cao quí của chữ nghĩa. Tôi tin rằng ngài sẽ tiếp tục công cuộc của Đức Gioan Phaolô II, nhất là vấn đề đối thoại giữa Kitô hữu với tín đồ Hồi giáo. Tôi cầu xin Chúa ban cho chúng ta một vị giáo hoàng. Giờ đây chúng ta đã có một vị mà chúng ta không được quên rằng các vị hồng y da đen cũng đã bầu cho ngài”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo CNN 20/4/2005

Chủ Tịch hiệp hội Do Thái ở Đức Paul Spiegel:

“Tôi tin rằng ngài sẽ tiến triển hơn trên con đường thành đạt hướng tới việc hiểu biết giữa Kitô hữu và người Do Thái để mang lại thiện ích cho cả hai tôn giáo”.

Chủ Tịch Hội Đồng Trung Ương Người Hồi Giáo ở Đức Nadeem Elyas:

“Vị hồng y này luôn là bàn tay phải của Đức Gioan Phaolô II và chắc chắn đã góp phần nhiều vào việc cởi mở chiếm được điều ưu tiên này (đối thoại giữa Công giáo và Hồi giáo)”.

Liên Hiệp Thế Giới Tin Lành:

“Khi Giáo Hoàng Biển Đức XVI sửa soạn đảm nhận những trách nhiệm cao cả về thiêng liêng và trần thế của ngài, tổ chức Liên Hiệp Thế Giới Tin Lành hỗ trợ ngài bằng lời nguyện cầu để ngài được ân sủng tiếp tục thừa tác vụ của các vị tiền nhiệm trong một tiến trình luôn canh tân cho lợi ích của giáo hội toàn cầu cũng như nhân loại”.

Tổng Thư Ký của Hội Đồng Thế Giới Chư Giáo Hội Samuel Kobia:

”Chúng ta dâng lời tạ ơn Vị Chúa chung của chúng ta là Đức Giêsu Kitô vì đã ban cho Giáo Hội Công Giáo Rôma một vị tân Giám Mục Rôma, một vị nổi tiếng về tính cách nguyên tuyền về thần học và lòng trung thành theo giáo hội, về tính cách đơn thành theo phúc âm và cảm quan về mục vụ, một vị thừa kế Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Giáo Hoàng Biển Đức XV, cả hai vị đều được nổi tiếng là ‘các vị Giáo Chủ của hòa bình’.

“Việc ngài được tuyển chọn trùng hợp với biến cố kỷ niệm 40 40 năm Công Đồng Chung Vaticanô II, một cuộc mở màn cả thể cho cuộc hành trình đại kết trong Giáo Hội Công Giáo Rôma.

“Chúng ta hãy nguyện cầu cùng Chúa Giêsu Kitô của chúng ta, xin Người ban cho Giáo Triều của ngài biến Giáo Triều của ngài thành một thời điểm cho Giáo Hội Công Giáo Rôma áp dụng , bằng một quyết tâm mới, các giáo huấn và tinh thần cởi mở đại kết được gia tăng từ Công Đồng Chung Vaticanô II cho đời sống tín hữu của Giáo Hội cũng như đời sống của toàn Giáo Hội”.

ĐGM Hilarion Alfeyev ở Vienna và Áo, đại diện cho Giáo Hội Chính Thống Nga cho các tổ chức Âu Châu:

”Là một vị giám mục Chính Thống sống và làm việc ở Âu Châu, tôi mong đợi gì nơi tân giáo triều này?

“Trước hết, mong rằng Giáo Hội Công Giáo tiếp tục bảo trì giáo huấn về tín lý và luân lý tông truyền của mình, không nhượng bộ trước những áp lực từ các nhóm ‘cấp tiến’ đòi hỏi cho phụ nữ được truyền chức, chấp thuận thứ hôn nhân ‘được gọi là đồng tính’, phá thai, ngừa thai, triệt sinh an tử, v.v. Chắc chắn giáo hoàng Biển Đức XVI, người đã cho thấy rõ chủ trương của mình về các vấn đề ấy, sẽ tiếp tục chống lại các nhóm ấy, những nhóm hiện hữu cả trong lẫn ngoài Giáo Hội Công Giáo.

“Sau nữa, tôi hy vọng rằng tân giáo triều này được đánh dấu bằng một cuộc mở ra những mối liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Chính Thống Nga, và sẽ có một cuộc gặp gỡ giữa vị Giáo Hoàng Rôma và Thượng Phụ Moscow. Cuộc gặp gỡ này cần phải được mở đầu bằng những bước cụ thể theo chiều hướng hiểu biết nhau hơn, cũng như bằng bàn thảo kỹ lưỡng về một chủ trương chung đối với các vấn đề chia rẽ chính.

“Rồi tôi hy vọng rằng sẽ có một sự cải thiện chung nơi mối liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo và thế giới Chính Thống. Trong năm 2000, tôi đã đại diện Tòa Thượng Phụ Moscow tham dự cuộc họp của Ủy Ban Thần Học Công Giáo và Chính Thống Chung là phiên họp bàn về vấn đề ‘Giáo Hội Đông Phương hiệp nhất’. Phiên họp không đi đến một thỏa thuận nào về vấn đề này, và việc bàn luận, đầy chán nản, thất vọng và gay go ở cả đôi bên, đã được kết thúc mà không có một quyết định rõ ràng nào về hoạt động của ủy ban này có được tái diễn nữa hay chăng. Tôi hy vọng rằng dưới giáo triều mới ủy ban được bắt đầu lại, hay một ủy ban mới cho việc đối thoại song phương được hình thành để bàn về vấn đề ‘hiệp nhất Giáo Hội Đông Phương’, vấn đề quyền tối thượng và các vấn đề thần học cùng giáo hội học khác là những gì vẫn còn chia rẽ hai giáo hội của chúng ta”.

Tiến Sĩ Jonathan Sacks, tôn sư trưởng ở Hiệp Vương Quốc:

“Chúng tôi chào mừng vị tân Giáo Hoàng và chúc ngài được mọi thành đạt nơi những thách đố lớn lao trước mắt. Là một nhà lãnh đạo toàn cầu trong một thời đại toàn cầu hóa, tiếng nói của ngài là những gì hệ trọng trong việc điều chỉnh một số thách đố lớn lao của thế kỷ 21 này”.

Giám đốc toàn quốc Hiệp Hội Chống Phỉ Báng Abraham Foxman:
“Chúng tôi chào mừng vai trò tân giáo hoàng của Hồng Y Joseph Ratzinger. Theo quan điểm của Do Thái, sự kiện ngài xuất thân từ Âu Châu là những gì quan trọng, vì ngài mang theo ngài một kiến thức và ký ức của một lịch sử Âu Châu đau thương cũng như của một kinh nghiệm Do Thái Âu Châu thế kỷ 20.

“Sống trong Thế Chiến Thứ Hai, Hồng Y Ratzinger có nhiều cảm quan về lịch sử Do Thái cũng như về Cuộc Diệt Chủng Do Thái. Ngài đã tỏ ra cảm tính này vô khối lần, trong những cuộc họp với thành phần lãnh đạo Do Thái cũng như qua những bản văn quan trọng lên án nạn bài Do Thái, và bày tỏ nỗi đau buồn sâu xa đối với nạn Diệt Chủng Do Thái.

“Trong những năm chúng tôi làm việc để cải tiến những mối liên hệ Công Giáo và Do Thái, ADL đã có những cơ hội làm việc với Hồng Y Ratzinger. Chúng tôi mong được tiếp tục mối liên hệ ấy”.

ĐTGM Giáo Chủ Giáo Hội Anh Giáo Rowan Williams:

“Việc ngài được tuyển chọn cũng có mợt tầm vóc quan trọng đối với Kitô hữu khắp nơi. Tôi mong được gặp ngài và cùng làm việc với nhau để xây dựng trên di sản được vị tiền nhiệm của ngài để lại, khi chúng ta tìm cách phát động việc hiểu biết nhau giữa các Giáo Hội của chúng ta để phục vụ Phúc Âm cũng như cho mối hiệp nhất Kitô giáo.

“Ngài là một thần học gia có một tầm vóc lớn, người đã viết một số bài suy niệm sâu xa về bản tính của Thiên Chúa và giáo hội. Việc ngài chọn danh hiệu Biển Đức cho thấy rằng ngài muốn liên kết nhãn quan của mình về Giáo Hội với tinh thần đan viện vừa phục vụ vừa chiêm niệm. Chúng tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho ngài trong những ngày tháng tới đây”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit 23/4/2005

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net