THỨ BẢY 5/4/2008

 

Tuần Tưởng Niệm Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II băng hà 3 năm 2/4/2005-2008

 

   TIN Tưởng Giáo Hội  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

ĐTC Gioan Phaolo II với Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis”
       5)  "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" trong tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến          

   CẬY Nhờ Thánh Mẫu  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”

2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực - Huấn Từ Về Thánh Mẫu (3)

   MẾN Yêu Thánh Thể  

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN”

Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21)

               YÊU Thương Tha Nhân              

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ”

3) Con Người Hiện Đại - làm sao có thể được cứu khỏi sự dữ??? (2)

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI
 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phân tích và tuyển dịch

 

Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II với

Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis”
 

5)  "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" trong tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến:

 

 

Chúa Kitô, Ngôi Con là một với Chúa Cha, là Đấng mạc khải dự án của Thiên Chúa cho tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là cho con người.

            "Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc thế giới, là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, nên không có một danh hiệu nào khác ở dưới gầm trời này có thể cứu được chúng ta (x.Acts 4:12). Như chúng ta đọc thấy trong Thư gửi cho các tín hữu Êphêsô: 'Nơi Đức Kitô, chúng ta nhờ máu của Người mà được ơn cứu chuộc, được ơn tha thứ những lỗi phạm của mình, theo ân sủng dồi dào Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên chúng ta. Vì Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta, bằng tất cả khôn ngoan và sáng suốt... mục đích của Ngài đã phác họa nơi Chúa Kitô một dự án cho thời điểm viên trọn, mục đích đó là hiệp nhất tất cả trong Người, những sự trên trời cùng những sự dưới đất' (1:7-10). Vì thế, Chúa Kitô, Ngôi Con là một với Chúa Cha, là Đấng mạc khải dự án của Thiên Chúa cho tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là cho con người. Theo một câu đáng nhớ của Công Đồng Chung Vaticanô II thì Chúa Kitô 'hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người và làm sáng tỏ ơn gọi cao trọng của họ' (hiến chế Gaudium et Spes, đoạn 22). Người tỏ cho chúng ta ơn gọi này bằng việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về tình yêu của Cha".

(Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 4).

Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Chúa của vũ trụ, cũng là Chúa của lịch sử, một lịch sử mà Người là 'Alpha và Omega' (Rev.1:8;21:6), là 'nguyên thủy và là cùng đích' (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đã nói lên một lời thực sự về con người và về lịch sử của họ.

            "Việc 'trở nên một người trong chúng ta' (hiến chế Vui Mừng Và Hy Vọng, đoạn 22) nơi phần của Con Thiên Chúa đã xẩy ra hết sức khiêm hèn, nên không lạ gì các sử gia đời, chỉ chú trọng vào những biến cố náo động và những nhân vật danh tiếng, đã lấy Người, cho dù có quan trọng, cũng chỉ là những viện dẫn (references) mà thôi. Những viện dẫn về Chúa Kitô được tìm thấy trong 'Các Truyện Cổ Về Dân Do Thái', một tác phẩm do sử gia Flavius Josephus tổng hợp ở Rôma vào giữa những năm 93 và 94, và nhất là trong 'Annals' của Tacitus, được viết vào giữa những năm 115 và 120, một tài liệu mà khi tường thuật lại vụ thành Rôma bị cháy năm 64, Nêrô đã tưởng lầm là do những người Kitô giáo làm, nhà viết sử đã tỏ tường dẫn chứng về Chúa Kitô 'bị hành xử theo lệnh của quan tổng trấn Phongxiô Philatô trong triều đại Tibêriô'. Cả Suetonius nữa, trong cuốn truyện viết quãng năm 121 về đời của hoàng đế Claudiô, cho chúng ta biết rằng, những người Do Thái bị đuổi khỏi thành Rôma vì 'họ thường gây nên những cuộc phiến loạn theo xúi giục của một số Chrestus' (Vita Claudii 25:4). Đoạn văn này thường được cắt nghĩa như ám chỉ về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã trở nên căn nguyên tranh cãi trong những cộng đồng Do Thái ở Rôma. Việc phát triển nhanh chóng của Kitô giáo cũng là một chứng cớ quan trọng, như đã được Tiểu Pliny, vị tổng trấn ở Bithynia, tường trình cho hoàng đế Trajan, vào giữa những năm 111 và 113, về tình hình có một số đông dân chúng thường hay tụ họp nhau 'vào một ngày ấn định, trước hừng đông, để luân phiên hát thánh ca chúc tụng Đức Kitô như là một vị Thiên Chúa' (Epist.10:96).

            Thế nhưng, biến cố vĩ đại mà những sử gia ngoài Kitô giáo chỉ đề cập đến qua loa ấy lại có một tầm vóc hết sức quan trọng nơi những bản văn của Tân Ước. Những bản văn này, cho dù có là những văn kiện về đức tin đi nữa, nếu chúng ta để ý đến mối iên hệ toàn diện của chúng, thì chúng cũng là những chứng cớ lịch sử không phải không đáng tin. Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Chúa của vũ trụ, cũng là Chúa của lịch sử, một lịch sử mà Người là 'Alpha và Omega' (Rev.1:8;21:6), là 'nguyên thủy và là cùng đích' (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đã nói lên một lời thực sự về con người và về lịch sử của họ. Lời này được diễn tả một cách tóm gọn và hùng hồn qua Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái: 'Bằng nhiều thể nhiều cách, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta nhờ các tiên tri; thế nhưng, trong những ngày sau hết này, Ngài đã nói với chúng ta qua Người Con' (Heb.1:1-2)"

(Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 4) 

Chúa Giêsu Kitô làm cho mọi sự đuợc tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm hoàn tất mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh danh Thiên Chúa.

            "Chúa Giêsu được sinh ra từ dân tuyển chọn để hoàn tất lời hứa mà Abraham đã lãnh nhận và các tiên tri liên tục nhắc nhớ. Các tiên tri nhân danh Thiên Chúa và thay cho Ngài mà nói. Thật vậy, công cuộc của Cựu Ước được sắp xếp chính là để sửa soạn và loan truyền cho việc Đức Kitô đến, Đấng cứu chuộc hoàn vũ, cũng như cho vương quốc mà Người thiết lập. Bởi thế, những cuốn sách của Cựu Ưùớc mãi mãi là một chứng cớ cho một giáo thuyết thần linh xác thực (x. hiến chế Mạc Khải  đoạn 15). Giáo thuyết này đã đạt mục tiêu của nó nơi Đức Kitô: đúng thếø Chúa Giêsu không chỉ 'nhân danh Chúa' mà nói như các vị tiên tri, mà Người chính là Thiên Chúa nói bằng Lời hằng sống nhập thể của mình. Ở đây chúng ta chạm đến một điểm chính yếu làm cho Kitô giáo khác với tất cả mọi tôn giáo khác, những tôn giáo diễn tả việc con người tìm kiếm Thiên Chúa từ những thời cổ xưa nhất. Khởi điểm của Kitô giáo bắt nguồn từ việc Lời nhập thể. Như thế, không phải là con người tìm kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói với chính con người, và chỉ cho con người đường nẻo để con người có thể đến với Ngài. Đó là điều đã được công bố trong Phần Nhập Đề của Phúc Âm thánh Gioan: "Chưa có ai đã từng thấy được Thiên Chúa; Người Con duy nhất, Đấng ở trong lòng Cha, Người đã tỏ Cha ra" (Jn.1:18). Như thế, Lời nhập thể làm thỏa nguyện ước vọng nơi tất cả các đạo giáo của nhân loại. Chính Thiên Chúa đã làm cho con người được thỏa nguyện, ngoài mọi ước mong của con người. Đó là một mầu nhiệm của ân sủng.

            "Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không còn là một 'cuộc kiếm tìm Thiên Chúa một cách mù quáng' (Acts 17:27) nữa, mà là một đáp ứng của đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra. Nó là một đáp ứng mà con người nói với Thiên Chúa như với Hóa Công, với một Người Cha, một đáp ứng đã thành hiện thực nhờ một con người cũng chính là Ngôi Lời, mà nơi Người, Thiên Chúa đã nói với từng người, và nhờ Người mỗi người có thể đáp lại Thiên Chúa. Còn nữa, cũng ở nơi con người này mà mọi tạo vật đáp lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự mới cho tất cả mọi sự. Nơi Người, tất cả mọi sự có; chúng được thăng hóa rồi được trả về cho Hóa Công là Đấng dựng nên chúng. Như thế, Đức Kitô là mãn nguyện của ước vọng cho mọi tôn giáo trên thế giới, nên Người làø tầm mức viên trọn đích thực duy nhất của họ. Thiên Chúa nói thẳng với con người nơi Đức Kitô thế nào, tất cả loài người và toàn thể tạo vật cũng tự mình nói với Thiên Chúa trong Đức Kitô như vậy, thực sự đó là việc tự hiến mình cho Thiên Chúa. Mọi vật trở về với cội nguồn của mình là vậy. Chúa Giêsu Kitô làm cho mọi sự đuợc tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm hoàn tất mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh danh Thiên Chúa. Tôn giáo có nền tảng nơi Đức Kitô là một tôn giáo vinh quang; nó là một tầm vóc mới mẻ của sự sống để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa (x.Eph.1:12). Tất cả mọi tạo vật thực sự là một biểu hiện của vinh quang Người. Đặc biệt con người (vivens homo) là sự hiển linh của vinh quang Thiên Chúa, một loài được kêu gọi để sống bằng sự sống viên trọn trong Thiên Chúa"

(Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 6).

 

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “TOTUS TUUS” CỦA “MẸ ĐẤNG CỨU CHUỘC”

2.- “Totus Tuus”: Hiện Thực (3)

               

 

 

Huấn Từ Về Thánh Mẫu

 

Đối với huấn từ về Thánh Mẫu của Đức Gioan Phaolô II phải kể đến loạt bài Giáo Lý Thánh Mẫu của ngài cho các buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần. Loạt bài Giáo Lý Thánh Mẫu này gồm có 70 bài trong thời khoảng 1 năm rưỡi, từ ngày 6/9/1995 đến 12/11/1997, sau đó là loạt bài Giáo Lý về từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Kitô năm 1997, Chúa Thánh Thần năm 1998 và Chúa Cha năm 1999. Loạt bài về mỗi Ngôi này đều được kết thúc bằng một bài Giáo Lý về Thánh Mẫu, theo chiều hướng ngài bao giờ cũng kết lời về Thánh Mẫu ở tất cả mọi văn thư hay bài huấn dụ thuộc nội bộ Giáo Hội của ngài.

 

Vì lòng tôn sùng Thánh Mẫu chân chính chẳng những có tính cách Kitô học mà còn liên hệ cả với Chúa Ba Ngôi nữa, như ngài đã nhờ Thánh Long Mộng Phố cảm nhận được trong thời gian có ơn gọi làm linh mục, một cảm nhận ngài đã chia sẻ trong cuốn “Tặng Ân và Mầu Nhiệm” (đã được trích dẫn trên đây): “Tư tưởng về khoa Thánh Mẫu Học của Thánh Long Mộng Phố được bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cũng như mầu nhiệm Nhập Thể của Lời Thiên Chúa”, và ngài cũng đã lập lại cảm nhận này ở đầu bức Thông Điệp “Mẹ Đấng Cứu Chuộc”, ngay sau khi ngài trích dẫn lời Thánh Phaolô: “Khi tới thời gian viên trọn thì Thiên Chúa đã sai Con mình, hạ sinh bởi người nữ, hạ sinh theo lề luật, để cứu chuộc những ai lệ thuộc lề luật, nhờ đó chúng ta được ơn làm nghĩa tử. Và vì anh chị em là con mà Thiên Chúa đã sai Thần Linh Con Ngài đến với tâm can của chúng ta, vang lên ‘Abba! Lạy Cha’ (Gal 4:4-6)”, như sau: “những lời này tôn tụng chung cả tình yêu của Chúa Cha, sứ vụ của Chúa Con và tặng ân của Thần Linh…”. Sau đây là ba đoạn được trích trong 3 bài Giáo Lý về Thánh Mẫu được ngài chia sẻ để kết thúc từng loạt bài Giáo Lý dọn mừng Đại Năm Thánh 2000 về từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa:

 

Thánh Mẫu với Chúa Cha:

 

“Nơi Mẹ, ‘Nữ Tử dấu ái của Chúa Cha’ (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, đoạn 53), dự án thần linh yêu thương nhân loại được tở hiện. Vì nhắm tuyển lựa Mẹ làm mẹ cho Con của mình, Chúa Cha đã chọn Mẹ giữa tất cả mọi tạo vật và đã nâng Mẹ lên tới một phẩm vị cao cả nhất, cũng như lên tới một sứ vụ trọng đại nhất trong việc phục vụ dân của Ngài.

 

“Dự án của Chúa Cha bắt đầu được mạc khải qua ‘Protoevangelium’ (phúc âm tiên khởi), khi mà, sau lúc Adong và Evà sa ngã phạm tội, Thiên Chúa loan báo cho biết rằng Ngài sẽ gây mối thù giữa con rắn và người nữ: chính người con trai của người nữ sẽ đạp nát đầu con rắn (x.Gen 3:15).

 

“Lời hứa này đã được nên trọn trước hết ở biến cố Truyền Tin, khi Mẹ Maria được mời gọi trở nên một Người Mẹ của Đấng Cứu Thế”. (Bài 79, ngày 5/1/2000, đoạn 1)

 

Thánh Mẫu với Chúa Con:

 

“Trong thảm kịch Canvê, đức tin của Mẹ Maria cũng không hề xao xuyến. Đối với đức tin của các môn đệ thì thảm cảnh này thật là quá sức. Chỉ nhờ có tác dụng của lời Chúa Giêsu cầu nguyện mà Phêrô, cùng với các tông đồ khác cũng bị thử thách, đã có thể tiếp tục theo con đường đức tin để trở nên các chứng nhân cho việc Chúa Phục Sinh.

“Khi viết rằng Mẹ Maria đứng dưới chân Thập Giá, Thánh ký Gioan (x.19:25) cho chúng ta thấy rằng Mẹ Maria vẫn đầy can đảm trong giây phút khẩn trương nhất. Giây phút khẩn trương này thực là giai đoạn khó vượt nhất trong ‘cuộc hành trình đức tin’ của Mẹ (x.Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 58). Thế nhưng, vì Mẹ vẫn vững mạnh đức tin nên Me đãï có thể đứng đó. Bị thử thách, Mẹ Maria vẫn tiếp tục tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, và tin rằng, bằng hy hiến của Người, Người sẽ biến đổi định mệnh con người”. (ngày 6-5-98, bài 15, đoạn 5)

 

Thánh Mẫu với Thánh Thần:

 

“Từ Thập Giá, Đấng Cứu Thế muốn đổ xuống trên nhân loại những giòng sông chảy nước sự sống (x.Jn.7:38), tức là đổ xuống dồi dào Thánh Linh. Thế nhưng, Người muốn việc trào đổ ân sủng này phải được gắn liền với dung nhan của một người mẹ, Mẹ của Người. Vậy Mẹ Maria đã hiện lên như một tân Evà, một người mẹ sinh linh, hay Nữ Tử Sion, người mẹ của tất cả mọi dân nước. Tặng ân mẫu thân phổ quát này được bao gồm trong sứ vụ cứu chuộc của Đấng Thiên Sai: ‘Sau đó, biết rằng tất cả đã hoàn tất, Chúa Giêsu…’, Thánh Ký viết lời này ngay sau hai câu: ‘Này bà, người con của bà đó!’ và ‘Đó là người mẹ của con!’ (Jn.19:26-28).

 

“Nơi khung cảnh này, chúng ta mới có thể hiểu được sự hòa điệu của ý định Thiên Chúa liên quan đến vai trò của Mẹ Maria trong tác động cứu độ của Chúa Thánh Thần. Nơi mầu nhiệm Nhập Thể, Mẹ đã đóng một vai trò trọng yếu trong việc Mẹ cộng tác với Thần Linh; nơi mầu nhiệm hạ sinh và tăng trưởng con cái Thiên Chúa, việc trợ giúp từ mẫu của Mẹ Maria cũng gắn liền với tác động của Chúa Thánh Thần”.  (ngày 9/12/98, bài 43 đoạn 3).


 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

VỊ GIÁO HOÀNG CỦA “ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN TRẦN”

 

 

Mầu Nhiệm Cứu Độ nơi Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô – Chết là Vinh Thắng (x Phil 1:21)
 


Nếu Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, theo cảm nhận và chia sẻ của Đức Gioan Phaolô II được trích dẫn và chứng thực trong bài viết này, là mầu nhiệm liên quan đến Mầu Nhiệm Vượt Qua, tức chẳng những liên quan đến tội lỗi và sự chết, mà còn liên quan đến cả sự sống và vinh quang nữa, thì chính bản thân và cuộc đời Giáo Hoàng của Đức Gioan Phaolô II đã chứng thực như thế, và do đó, lại càng là một chứng cớ hùng hồn cho khẳng định: Mầu Nhiệm Cứu Chuộc là Cốt Lõi của Giáo Triều Đức Gioan Phaolô II.

Trước hết, về khía cạnh đau khổ và sự chết liên quan tới Mầu Nhiệm Cứu Chuộc, mầu nhiệm mà chính Con Thiên Chúa đã phải trải qua cuộc Khổ Nạn và Tử Giá vô cùng tang thương, nơi cuộc đời làm Giáo Hoàng của ngài, không phải hay sao, chính bản thân của ngài đã bị ám sát, gây ra bởi một tội ác, có thể nói, mở màn cho nạn khủng bố sau này, và cho dù có thoát chết, từ đó, bị ảnh hưởng bởi cuộc ám sát này, sức khỏe của một con người yêu thích thể thao như ngài đã bị sa sút, đến nỗi, nhiều lần dư luận đã cho rằng ngài sắp chết, vì ngài đã được mang vào bệnh viện đến 10 lần, thứ tự như sau: ngày 13/5/1981 ở bệnh viện Gemelli sau khi bị ám sát chết hụt ở Quảng Trường Thánh Phêrô; ngày 20/6/1981, tái nhập bệnh viện này và chịu một cuộc giải phẫu thứ hai vào ngày 5/8, Lễ Đức Mẹ Xuống Tuyết; ngày 15/7/1992, nhập cùng bệnh viện để được mổ vì cục bưới lành ở ruột; ngày 2/7/1993, được chụp CAT scan xem tình hình ra sao sau cuộc giải phẫu năm 1992; ngày 11/11/1993, cũng tại cùng bệnh viện sau khi bị gãy xương vai bên phải; ngày 29/4/1994, lại nhập bệnh viện này vì bị ngã gay xương đùi tối hôm trước; ngày 14/8/1996, nhập bệnh viện Regina Apostolorum Clinic ở Albano để được chụp CAT scan; ngày 8/10/1996, nhập bệnh viện Gemelli để cắt ruột dư; ngày 1/2/2005, nhập bệnh viện Gemelli vì bộ phận hô hấp bị nhiễm trùng cấp tính, cho đến ngày 10/2; và lần cuối cùng cấp tốc trở lại bệnh viện này vào ngày 24/2, vì cúm tái phát gây khó thở, và ở đó cho tới ngày 13/3. Để rồi, vào ngày 31/3, bị nhiễm trùng đường tiểu, và cuối cùng đã qua đời sau đó mấy ngày tại tông phòng của ngài ở Vatican.

Vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trước khi được trúng tuyển làm giáo hoàng 13 ngày, tức vào hôm 8/4/2005, ở phần cuối bài giảng của mình, đã nhận định về chung con người và về riêng cuộc khổ nạn cuối đời của Đức Gioan Phaolô II như sau:

“Bằng việc chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô, Thánh Phêrô đã đi vào mầu nhiệm vượt qua, thánh nhân đã tiến về phía thập tự giá và về cuộc phục sinh. Chúa Kitô đã nói về điều này bằng những lời: ‘… khi con còn trẻ, con thường tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý con muốn’ (Jn 21:18). Trong những năm đầu của giáo triều mình, những năm còn trẻ trung và đầy nhiệt huyết, Đức Thánh Cha đã đi đến tận cùng trái đất theo sự dẫn dắt của Chúa Kitô. Thế nhưng sau đó, ngài càng ngày càng đi sâu vào cuộc hiệp thông khổ đau với Chúa Kitô; càng hiểu được sự thật của những lời này: ‘Người ta sẽ thắt lưng cho con’. Và trong chính cuộc hiệp thông đau khổ này với Chúa Kitô một cách liên tục và càng gia tăng hơn, ngài đã loan báo Phúc Âm, loan báo mầu nhiệm về một tình yêu thương cho đến cùng tận (x Jn 13:1).

“Ngài đã giải thích cho chúng ta mầu nhiệm vượt qua như là một mầu nhiệm của lòng thương xót Chúa. Trong tác phẩm cuối cùng của mình, ngài đã viết: Cái giới hạn áp đặt trên sự dữ ‘tối hậu là Lòng Thương Xót Chúa’ (Hồi Niệm và Căn Tính, trang 60-61). Và khi suy nghĩ về biến cố mạng sống ngài bị cố sát, ngài đã nói: ‘Trong việc hy hiến mình cho tất cả chúng ta, Chúa Kitô đã cống hiến cho đau khổ một ý nghĩa mới, mở ra một chiều kích mới, một trật tự mới, đó là trật tự của yêu thương… Chính cái đau khổ này đốt cháy và thiêu rụi đi sự dữ bằng ngọn lửa yêu thương và rút ran gay từ tội lỗi cả một cuộc bừng nở đầy những thiện hảo’ (cùng nguồn, trang 189-190). Được thôi thúc bởi nhãn quan ấy, vị Giáo Hoàng này đã chịu đựng khổ đau và đã yêu qúi việc hiệp thông với Chúa Kitô, nên đó là lý do tại sao sứ điệp về khổ đau của ngài cùng việc thinh lặng của ngài là những gì thất là sống động và hiệu năng.

Không ai trong chúng ta có thể quên được cảnh tượng diễn ra hôm Chúa Nhật Phục Sinh vừa rồi trong cuộc đời của ngài, Đức Thánh Cha, đầy những đớn đau, lại tiến đến cửa sổ Tông Dinh của mình để ban phép lành ‘urbi et orbi – cho thành Rôma và cho thế giới’ một lần cuối cùng”.
 

 

 

TOP

 

 

YÊU THƯƠNG THA NHÂN

 

 

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

VỊ GIÁO HOÀNG “VUI MỪNG VÀ HY VỌNG” - “ĐỪNG SỢ”

  

3) Con Người Hiện Đại - làm sao có thể được cứu khỏi sự dữ??? (2)

 

Chưa hết, trong bài giảng phong chân phước cho 4 vị đồng hương của ngài vào Chúa Nhật 18/8/2002 trong chuyến thăm quê hương lần thứ 8 này, vị Giáo Hoàng đã ban hành Thông Điệp thứ hai về Chúa Cha “Giầu Lòng Thương Xót – Dives in Misericordia” ngày 30/11/1980, còn thấy hiện trạng vô cùng đáng thương của con người tân tiến, một hiện trạng rất cần đến vai trò của Giáo Hội trong việc mang tình thương của Chúa đến cho nhân loại, cho một thế giới ở vào thời điểm thế kỷ 20 càng ngày càng đi đến chỗ tự diệt vong nên lại càng đúng lúc cần đến Lòng Thương Xót Chúa, như ngài đã bày tỏ:

 

“Từ khi bắt đầu hiện hữu, Giáo Hội, qua việc bày tỏ mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh, đã rao giảng tình thương Chúa, một bảo chứng hy vọng và là nguồn mạch cứu độ con người. Tuy nhiên, hôm nay đây chúng ta dường như được kêu gọi đặc biệt để loan báo sứ điệp này trước thế giới. Chúng ta không thể lơ là với sứ vụ này, nếu chính Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta thực hiện sứ vụ này qua chứng từ của Thánh Nữ Faustina.

 

Thiên Chúa đã chọn thời đại của chúng ta cho mục đích này. Có lẽ vì thế kỷ 20, mặc dù có những thành đạt không thể chối cãi về nhiều lãnh vực, cũng đã bị ghi dấu một cách đặc biệt bởi ‘mầu nhiệm lỗi lầm - mystery of iniquity’. … ‘Mầu nhiệm lầm lỗi’ tiếp tục đánh dấu cái thực tại của thế giới này.

 

Cảm nghiệm được mầu nhiệm ấy, con người mới sống trong nơm nớp lo sợ về tương lai, lo sợ về tình trạng trống rỗng, lo sợ phải khổ đau, lo sợ bị hủy diệt. Có lẽ chính vì lý do này mà Chúa Kitô, qua việc sử dụng chứng từ của một Nữ Tu thấp hèn, đã đến với thời đại của chúng ta để tỏ cho chúng ta thấy một cách rõ ràng nguồn mạch sống khuây khỏa và hy vọng ở nơi tình thương đời đời của Thiên Chúa.

 

Sứ điệp tình yêu nhân hậu cần được vang vọng một cách mạnh mẽ một lần nữa. Thế giới cần đến thứ tình yêu này. Đã đến thời giờ cần phải mang sứ điệp của Chúa Kitô đến cho mọi người: cho các kẻ trị vì và thành phần bị áp bức, cho những ai có bản tính và phẩm vị bị tiêu ma trong mầu nhiệm lỗi lầm. Đã đến thời giờ sứ điệp Lòng Thương Xót Chúa có thể làm cho các tâm hồn tràn đầy hy vọng và trở nên tia sáng cho một nền văn minh mới, một nền văn minh yêu thương” (đoạn 3).

 

Đó là lý do, vào Lễ Chúa Tình Thương được cử hành lần đầu tiên hôm Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, 22/4/2001, trong bài giảng của mình, ngài đã thúc giục loài người hãy tin tưởng vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, một tình yêu duy nhất có thể cứu độ con người tội lỗi lại vô cùng bất lực:

 

‘Đừng sợ, Ta là nguyên thủy và là cùng tận, là Đấng đang sống; Ta đã chết, mà này Ta đang sống muôn đời’ (Rev 1:17-18).

 

“Chúng ta đã nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai được trích từ Sách Khải Huyền. Những lời ấy mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Chúa Kitô để cảm nghiệm được sự hiện diện an toàn của Người. Đấng Phục Sinh lập lại lời ‘Đừng sợ!’ với mỗi một người, dù thân phận họ ra sao, cho dù có bị thê thảm và rắc rối nhất. Ta đã chết trên Thập Giá, nhưng nay ‘Ta đang sống muôn đời’; ‘Ta là nguyên thủy và là cùng tận, là Đấng đang sống’.

 

 “’Nguyên Thủy’ tức là nguồn gốc của hết mọi hữu thể và là hoa trái đầu mùa của việc tân tạo; ‘Cùng Tận’ là thời điểm vĩnh viễn kết thúc lịch sử; ‘Đấng đang sống’ là nguồn mạch vô tận của sự sống đã vĩnh viễn chiến thắng sự chết. Nơi Đấng Thiên Sai, tử giá và phục sinh, chúng ta nhận thấy những dấu vết của một Con Chiên bị hiến tế trên đồi Gôngôta, Đấng xin ơn thứ tha cho các kẻ hành hình Người và mở cửa trời cho các tội nhân thống hối; chúng ta thoáng nhìn thấy dung nhan của một Vị Vua bất tử, Đấng giờ đây nắm trong tay ‘chìa khóa của Sự Chết và Âm Phủ’ (Rev 1:18)” (đoạn 1).

 

‘Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa tốt lành; vì tình Ngài xót thương muôn đời bền vững!’ (Ps 117:1).

 

 “Chúng ta hãy cùng với Tác Giả Thánh Vịnh than lên câu chúng ta đã họa lại trong Bài Đáp Ca: Tình Ngài xót thương muôn đời bền vững! Để hoàn toàn hiểu được chân lý của những lời này, chúng ta hãy theo phụng vụ đến tận tâm điểm của biến cố cứu độ, một biến cố liên kết Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô với đời sống của chúng ta cũng như với lịch sử của thế giới. Phép lạ này của tình thương đã biến đổi tận gốc định mệnh của nhân loại. Đó là một phép lạ tỏ ra cho thấy trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Đấng vì phần rỗi của chúng ta đã nhất định thực hiện việc hy tế Người Con Duy Nhất của mình.

 

“Nơi Đức Kitô ô nhục và khổ đau, những người tín hữu, cũng như những ai vô tín ngưỡng cũng có thể ca ngợi, một mối liên kết lạ lùng ngoài sức tượng tượng, ràng buộc Người với thân phận nhân loại chúng ta. Thập Giá, ngay cả sau Cuộc Phục Sinh của Con Thiên Chúa, ‘đã nói và không thôi nói về Thiên Chúa Cha, Đấng tuyệt đối trung thành với tình yêu muôn thuở của Ngài đối với con người… Tin tưởng vào tình yêu này tức là tin tưởng vào tình thương’ (Thông Điệp Dives in Mesericordia Giầu Lòng Xót Thương, đoạn 7).

 

“Chúng ta hãy cám ơn Chúa về tình Ngài yêu thương, một mối tình mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Tình yêu này được thể hiện và thực hiện như tình thương trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, và thúc đẩy mọi người đáp lại bằng cách ‘xót thương’ Đấng Tử Giá. Không phải hay sao, chương trình sống của hết mọi người đã lãnh nhận Phép Rửa, cũng như của toàn thể Giáo Hội, đó là theo gương Chúa Giêsu yêu mến Thiên Chúa cũng như yêu thương nhau, cho dù là ‘kẻ thù’ của mình?” (đoạn 2).

 

Với những cảm thức này, chúng ta cử hành Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, một Chúa Nhật từ năm ngoái, năm Đại Hỷ, cũng đã được gọi là ‘Chúa Nhật Chúa Tình Thương’. Anh chị em thân mến, Tôi hết sức vui mừng có thể được cùng với tất cả anh chị em là những người hành hương và tín hữu đến từ các quốc gia để cùng nhau tưởng niệm một năm sau biến cố phong thánh cho Thánh Faustina Kowalska, vị chứng nhân và là sứ giả của tình yêu nhân hậu Chúa Giêsu. Việc tuyên phong lên bàn thờ cho một nữ tu khiêm hạ này, một nữ tử của đất nước tôi, không phải là món quà tặng cho Balan mà là cho tất cả nhân loại. Thật vậy, sứ điệp chị truyền đạt là một giải đáp thích hợp và quyết liệt Thiên Chúa muốn cống hiến cho những vấn nạn và mong đợi của con người trong thời đại của chúng ta đây, một thời đại bị đánh dấu bằng những thảm trạng kinh hoàng. Chúa Giêsu ngày kia đã nói với Thánh Faustina rằng: ‘Nhân loại sẽ không bao giờ tìm thấy hòa bình, cho đến khi họ tin tưởng quay về với Lòng Thương Xót Chúa’ (Diary, trang 132). Lòng Thương Xót Chúa! Đó là quà tặng Phục Sinh Giáo Hội đã nhận được từ Chúa Kitô phục sinh để cống hiến cho loài người vào lúc rạng động của một thiên kỷ” (đoạn 3).

 

“Phúc Âm vừa được công bố giúp chúng ta hiểu được trọn vẹn ý nghĩa và giá trị của quà tặng này. Thánh Ký Gioan làm cho chúng ta tham dự vào nỗi xúc động nơi các Tông Đồ khi các vị gặp Chúa Kitô sau khi Người Phục Sinh. Chúng ta chú ý đến cử chỉ của Vị Tôn Sư này, Đấng truyền đạt cho những người môn đệ đang bàng hoàng sợ hãi sứ vụ làm thừa tác viên của Lòng Thương Xót Chúa. Người tỏ cho các vị thấy đôi tay và cạnh sườn còn mang những dấu tích Khổ Nạn của Người mà nói cùng các vị: ‘Như Cha đã sai Thày thế nào Thày cũng sai các con như vậy’ (Jn 20:21). Ngay sau đó, ‘Người đã thở hơi trên họ mà phán: Các con hãy nhận lấy Thánh Linh. Các con tha tội cho ai thì tội họ được tha; các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại’ (Jn 20:22-23). Chúa Giêsu đã ký thác cho các vị tặng ân ‘thứ tha tội lỗi’, một tặng ân phát xuất từ những thương tích nơi tay chân của Người, nhất là từ cạnh sườn bị đâm của Người. Từ đó, một triều sóng tình thương đã tuôn ra cho toàn thể nhân loại.

 

“Chúng ta hãy sống lại giây phút ấy bằng cả một tinh thần hết sức thiết tha. Hôm nay đây Chúa Giêsu cũng tỏ cho chúng ta thấy những vết thương vinh hiển của Người cùng với trái tim của Người, một nguồn mạch vô tận của ánh sáng và chân lý, của yêu thương và tha thứ” (đoạn 4).

 

“Trái Tim Chúa Kitô! ‘Thánh Tâm’ của Người đã ban cho con người hết mọi sự: ơn cứu chuộc, ơn cứu độ, ơn thánh hóa. Thánh Faustina Kowalska đã thấy phát ra từ Trái Tim Người tuôn đổ một yêu dạt dào hai tia sáng chiếu soi thế giới. ‘Hai tia sáng’, theo những gì Chúa Giêsu đã nói với chị, ‘tiêu biểu cho máu và nước’ (Diary trang 132). Máu gợi lại hy tế Gôngôta và mầu nhiệm Thánh Thể; nước, theo tính cách tiêu biểu phong phú của Thánh Ký Gioan, làm cho chúng ta nghĩ đến Phép Rửa và Tặng Ân Thánh Linh (x Jn 3:5; 4:14).

 

Qua mầu nhiệm của trái tim bị thương tích này, triều sóng phục hồi của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa tiếp tục lan tràn trên những con người nam nữ của thời đại chúng ta. Chỉ có ở đây những ai mong ước hạnh phúc chân thật và bền bỉ mới tìm được bí quyết của nó” (đoạn 5).

 

‘Lạy Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa’. Lời cầu nguyện này, lời cầu nguyện được rất nhiều tâm hồn đạo đức yêu chuộng, rõ ràng nói lên cho chúng con thấy thái độ chúng con cần phải phó mình vào tay Chúa, Ôi Chúa, Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng con.

 

“Chúa thiết tha muốn được mến yêu và những ai thông cảm nhận được những nỗi lòng của trái tim Chúa sẽ biết cách xây dựng một thứ văn minh yêu thương. Một cử chỉ phó thác chân thành đã đủ thắng vượt những ngãng trở của bóng tối và sầu thương, của ngờ vực và thất vọng chán chường. Những tia sáng của lòng thương xót Chúa phục hồi niềm hy vọng một cách đặc biệt cho những ai cảm thấy bị đè nén bởi gánh nặng tội lỗi.

 

“Hỡi Maria, Mẹ của Tình Thương, xin giúp chúng con luôn tin tưởng vào Con Mẹ, Đấng Cứu Chuộc của chúng con. Xin Thánh Faustina là Vị chúng tôi đặc biệt nhớ đến trong ngày hôm nay đây, cũng trợ giúp chúng tôi nữa. Nhìn ngắm dung nhan của Đấng Cứu Thế thần linh một cách yếu ớt, chúng tôi xin cùng với thánh nữ lập lại rằng ‘Lạy Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa’. Khi nay và cho đến muôn đời. Amen” (đoạn 6).

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

TRONG THỜI ÐIỂM MARIA

MẸ MARIA XUẤT HIỆN NHƯ BÌNH MINH 

BÁO HIỆU MẶT TRỜI CÔNG CHÍNH RẠNG NGỜI TỎ HIỆN...

 

“Là đường nhờ đó Chúa Giêsu đã đến với chúng ta lần thứ nhất

thì Mẹ cũng sẽ là đường nhờ đó Người đến với chúng ta lần thứ hai,

cho dù không cùng một kiểu cách -

  Being the way by which Jesus came to us the first time,

    she will also be the way by which He will come the second time,  

 though not in the same manner

      (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.4)

 

"Ma quỉ đang thực hiện một cuộc quyết chiến với Trinh Nữ Maria.

Hắn thấy rằng thời gian của mình không còn dài,

nên hắn tận dụng mọi nỗ lực để chiếm đoạt nhiều linh hồn bao nhiêu có thể...

the devil is carrying on a decisive battle with the Virgin Mary,

He sees that his time is getting short,

and he is making every effort to gain as many souls as possible..."

(Nữ Tu Lucia với linh mục Fuentes  ngày 26/12/1957, trích Joaquin Maria Alonso, C.M.F,

The Secret of Fatima - Fact and Legend, The Ravengate Press, Cambridge 1990, page 109)

 

"Mẹ Maria cần phải trở thành một đạo binh dàn trận kinh hoàng đối với ma quỉ và thành phần theo hắn, nhất là vào những thời buổi sau này. Đối với Satan, vì biết rằng mình không còn bao nhiêu thời gian – hiện nay còn ít hơn bao giờ hết – để hủy hoại các linh hồn, đã gia tăng các nỗ lực của hắn và những cuộc công kích của hắn hằng ngày. Hắn sẽ không ngần ngại khuấy động lên những cuộc bách hại tàn ác và đặt các thứ cạm bẫy xảo quyệt đối với thành phần tôi tớ trung thành và con cái của Mẹ Maria, thành phần hắn thấy khó chế ngự hơn những kẻ khác".

"Mary must become as terrible as an army in
battle array to the devil and his followers, especially in
these latter times. For Satan, knowing that he has little time
- even less now than ever - to destroy souls, intensifies his
efforts and his onslaughts every day.
He will not hesitate to
stir up savage persecutions and set treacherous snares for
Mary's faithful servants and children whom he finds more
difficult to overcome than others".

     (Thánh Marie Grignion de Montfort: Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria, đoạn 50.7)

 

Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc

thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của

nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành

của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy

‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nó

cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ

với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng

hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con

người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến

trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”. (Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 675)

"Before Christ's second coming the Church must pass through a final trial that will shake the faith of many believers. The persecution that accompanies her pilgrimage on earth will unveil the 'mystery of iniquity' in the form of a religious deception offering men an apparent solution to their problems at the price of apostasy from the truth. The supreme religious deception is that of the Antichrist, a pseudo-messianism by which man glorifies himself in place of God and of his Messiah coming in the flesh"

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy. Đừng sợ chi. Hãy trung thành cho đến cùng. Mẹ thương mến con’”

March 25, 1936. In the morning, during meditation, God's presence enveloped me in a special way, as I saw the immeasurable greatness of God and, at the same time, His condescension to His creatures. Then I saw the Mother of God, who said to me, Oh, how pleasing to God is the soul that follows faithfully the inspirations of His grace! I gave the Savior to the world; as for you, you have to speak to the world about His great mercy and prepare the world for the Second Coming of Him who will come, not as a merciful Savior, but as a just Judge. Oh, how terrible is that day! Determined is the day of justice, the day of divine wrath. The Angels tremble before it. Speak to souls about this great mercy while it is still the time for [granting] mercy. If you keep silent now, you will be answering for a great number of souls on that terrible day. Fear nothing. Be faithful to the end. I sympathize with you.     

(Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha;

tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha.

Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận;

sau đó sẽ là ngày của công lý.

Speak to the world about My mercy;

let all mankind recognize My unfathomable mercy.

It is a sign for the end times;

after it will come the day of justice.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...

Write: before I come as a just Judge, I first open wide the door of My mercy. He who refuses to pass through the door of My mercy must pass through the door of My justice..."  

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương -

Today I am sending you with My mercy to the people of the whole world. I do not want to punish aching mankind, but I desire to heal it, pressing it to My Merciful Heart. I use punishment when they themselves force Me to do so; My hand is reluctant to take hold of the sword of justice. Before the Day of Justice I am sending the Day of Mercy.

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng

(ĐTC GPII cho 'tia sáng' này là lòng thương xót Chúa;

nhưng chúng ta cũng có thể cho là chính bản thân ngài,

vị giáo hoàng đột xuất từ Balan với khẩu hiệu thánh mẫu 'totus tuus',

vị giáo hoàng của thông điệp 'Redemptor Hominis',

là dạo khúc hướng Giáo Hội và thế giới về 'Đấng là trung tâm vũ trụ và lịch sử',

qua việc dọn mừng Đại Năm Thánh 2000,

vị giáo hoàng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lấy đầu cộng sản là khối Đông Âu và Nga Sô,

một chủ nghĩa và là một chế độ vốn được gọi là tiền hô của qủi vương)

để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha -

From her will come forth the spark

that will prepare the world for My final coming”

(Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732)

 

 Tất cả chúng ta đang sống trong Mùa Vọng của những ngày lịch sử cuối cùng,

và tất cả chúng ta đang nỗ lực sửa soạn đón Chúa Kitô đến

để thiết dựng vương quốc của Thiên Chúa đã được Người loan báo -

We are all living in the Advent of the last days of history,

and all trying to prepare for the coming of Christ,

to build the kingdom of God which he proclaimed”

(ĐTCGPII tại Lebanon ngày 11/5/1997:L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 14/5/1997, trang 2).

 

 

 

Thời Điểm Maria ra mắt ngày 8/12/2001. Từ ngày tân trang 21/9/2003, cho tới 27/3/2006 được 30.224 lần viếng thăm. Bị trục trặc kỹ thuật gây ra bởi server từ ngày Chúa Nhật 14/5/2006. Tạm nghỉ cho tới khi chuyển sang server mới ngày Thứ Bảy 10/6/2006.
 Từ đó TĐM tiếp tục được thêm Hit Counter lần viếng thăm. Đa tạ.

Webmaster@ThoiDiemMaria.Net